Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Bài giảng nha khoa Ai cập cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 9 trang )

AI CẬP CỔ ĐẠI
Bối cảnh không – thời gian, kinh tế - xã hội và văn hóa
Đế chế sơng Nile xuất hiện từ trên 5.000 năm cách ngày nay, từ thời kỳ Menes1 (khoảng
3892 T.C)2, cư dân thung lũng sông Nile đã dẫn đầu trong tiến trình văn minh. Trong các cư
dân cổ, không nghi ngờ là người Ai Cập là dân tộc đầu tiên có nền văn minh cao và phát triển
sớm nhất. Cũng như người Sumer – Assyria, vào thời Tiền đế chế (khoảng 4000 TC), người Ai
Cập đã phát triển công nghệ luyện kim. Dưới triều đại thứ tư (từ 3427 T.C.), đã đạt đến trình
độ phát triển cao với thủ phủ Memphis (gần Cairo). Nhiều công trình kiến trúc, điêu khắc, hội
họa của văn minh Ai Cập cổ đại còn hiện diện đến ngày nay. Di sản tư liệu rất phong phú, có
thể thấy chữ viết, hình vẽ trên tường và bia của các mộ cổ, đền…, đặc biệt là những tài liệu
trong các cuộn giấy cói (papyrus).

Đặc điểm bệnh lý, quan niệm và thực hành chữa bệnh
Ngày nay, hiểu biết của chúng ta về tình trạng bệnh lý và y học cũng như thực hành của
người Ai Cập cổ đại khơng cịn giới hạn trong những ghi chép ít ỏi của một số tác giả bằng
tiếng Hi Lạp và La Mã. Qua khảo sát các di cốt, hiện vật khảo cổ và văn bản tài liệu gốc thời
cổ Ai Cập, chúng ta có những bằng chứng vật thể về tình trạng bệnh lý, các quan niệm và ý
tưởng thể hiện trong các tác phẩm bằng văn bản và điêu khắc cổ. Chúng giúp tái hiện có hệ
thống về y khoa tương đối đầy đủ cũng như thực hành chữa bệnh thời cổ Ai Cập3

Tình trạng bệnh lý của cư dân cổ Ai Cập,
cũng như của các cư dân cổ có đặc điểm
chung là:
- Mịn răng: chiếm tỷ lệ cao, do
thức ăn cứng, có nhiều dị vật và
cũng do lực nhai mạnh, nghĩa là
mòn do cọ mòn và nhai mòn.
Nhiều cốt sọ cho thấy răng mòn
hở tủy, thậm chí mất tồn bộ
trần buồng tủy4 (hình )


Menes là Pharaoh và là người sáng lập triều đại đầu tiên của Ai Cập cổ đại, được coi là đã thống nhất
vùng thượng và hạ Ai cập.
2
TC: Trước Công nguyên (viết tắt tiếng Việt dùng trong sách này, từ tiếng Anh “B.C.”: Before
Chrismast)
1

Tuy vậy, việc phiên giải từ chữ Ai Cập cổ sang tiếng Anh cũng chưa đạt được sự nhất trí hồn tồn (FF Leek,
1967), các bằng chứng bệnh lý và điều trị cũng còn nhiều tranh cãi (RJ Forshaw, 2009 a và b)
4
Forshaw, RJ: (a) Dental health and disease in ancient Egypt, Br Dent J, 2009, 206: 421 - 424
3

1


Hình : Mịn răng lộ tủy, 1500 TC. Nguồn: RJ. Forshow
(a), hiện vật tại Cambridge University

- Các biến chứng xương của mịn răng và
sâu răng, viêm quanh chóp, nang, áp xe
xương ổ và viêm xương tủy5

-

Bệnh sâu răng: thời cổ Ai Cập kéo dài khoảng 5000 năm, có sự tăng dần, từ 3 đến
10% từ tiền sử đến năm 300TC
Bệnh nha chu tồn thể ít được thấy
Hình …: Xương hàm dưới, phát hiện ở Saqqara,
nhưng viêm nha chu khu trú, cao

răng được thấy ở khoảng 50% trường niên đại 1570 TC – 1085 TC, có hai lỗ hình trụ
cùng độ sâu và đường kính, có thể do khoan
hợp
thốt mủ. Nguồn: M.E. Ring

5

Leek F F. The practice of dentistry in Ancient Egypt. J Egypt Archaeol 1967; 53: 51-58.

2


Hình : Phim sọ nghiêng Pharaoh
Merenptah (TK XIII TC) mất các răng sau
trên, do bệnh nha chu. Các răng sau dưới
cũng có tiêu nha chu. Nguồn: ME. Ring

Hình : Phim sọ nghiêng mẹ vợ
Pharaoh Amenhotep III, có tiêu xương
hai hàm do bệnh nha chu. Nguồn:
ME. Ring

Forshaw6 sau khi khảo sát hàng nghìn
di cốt và xác ướp có niên đại 3000 TC thời cổ
Ai Cập, thấy một số hiện vật có thể chứng minh
sự cố gắng phục hồi răng mất, tuy vậy, chỉ có
ba trường hợp có thể đã được thực hiện răng
giả hoặc cố định răng (hình ), một vài trường
hợp có thể đã được nhổ răng trước khi chết.
Tuy vẫn cịn nhiều tranh cãi dai dẳng từ 1917


Hình ….: cố định răng bằng chỉ vàng, hay “cầu
răng Giza” di vật tìm được ở Giza (gần Cairo),
niên đại 2500 TC. Nguồn: W. Hoffmann-Axthelm.

đến nay, nhiều tác giả cho là có một số bằng
Hình…: Cầu răng(?), phát hiện ở el-Quatta (gần
chứng về phẫu thuật đã được thực hiện để điều
Cairo), niên đại 2500 TC. Nguồn: P. Katz và A.
trị nhiễm trùng do răng, phẫu thuật ở xương hàm
Kartz
dưới đã được thực hiện để làm thoát mủ cho
răng bị áp xe xương ổ (hình…) với mũi khoan
bằng đồng và tay khoan hình cung. Một cầu răng thứ ba và duy nhất còn trên xương hàm, niên
đại 332 – 330 TC, có hai răng cửa (41 và 42) đã được cắt bớt phần chóp, buộc bằng chỉ vàng
đơi vào răng 43 và các răng 31, 32, 33. Kỹ thuật buộc cố định khá hoàn hảo với các mũi khoan
xuyên qua thân răng và cổ răng. Ba trường hợp cố định hoặc cầu răng buộc bằng chỉ vàng nêu
trên và cả những lỗ khoan thốt mủ (hình ) có những ý kiến cho rằng không thuộc Ai Cập cổ
đại. Hơn nữa, điều gây ngạc nhiên là không phát hiện được bằng chứng nào về việc chữa răng
ở người Ai Cập cổ đại7.
Nhiều tài liệu có giá trị được viết trên chất liệu giấy cói, cuộn lại, gọi là papyri. Nhiều
papyri đang được trưng bày ở một số bảo tàng: Berlin (Đức); Bảo tàng Anh, Leyden (Hà Lan),
6
7

Forshaw, RJ: (b) The practice of dentistry in ancient Egypt, Br Dent J, 2009, 206: 481 - 486
Etruscan

3



Hình : Cầu răng cửa dưới. Phát hiện ở Tura elAsmant, niên đại 332 – 330 TC. Nguồn: P. Katz
và A. Katz
/>
Turin, Paris (Pháp) và một số bảo tàng khác. Có 8 papyri chính về y học cổ Ai Cập: Berlin,
Chester Beatty, Ebers, Edwin Smith, Erman, Hearst, Kahun, London, có niên đại từ 1900 TC 1200 TC. Các papyri có giá trị lịch sử đối với các chuyên ngành khác nhau: Ebers Papyrus đối
với y khoa, Kahun, Berlin, và London papyri đối với sản khoa và phụ khoa, Edwin Smith
papyrus đối với phẫu thuật và chỉnh hình.
Các tài liệu cổ Ai Cập cho thấy họ đã quan niệm về bệnh tật như là một trạng thái cơ
thể bị khống chế bởi ma quỉ theo những cách khác nhau: hoặc ma quỉ đã hiện diện trong cơ thể,
hoặc ma quỉ đã có thể phóng chất độc hoặc khí độc hoặc điềm xấu bao trùm hoặc đi vào người
bệnh nhân. Theo quan niệm đó, các phương cách điều trị bị ảnh hưởng lớn của tôn giáo. Bệnh
tật được điều trị cả bằng bùa phép và một số loại thuốc hoặc bằng sự mê dụ. Việc điều trị gồm
một số thần chú ma thuật để trục xuất ma quỉ hoặc giải thoát cơ thể khỏi các chất độc tồn tại
trong người bệnh. Trong nhiều trường hợp, thuốc được dùng theo một công thức có tỷ lệ nhất
định. Có vẻ như một số thầy thuốc giỏi đã thành cơng nhờ khơng chỉ học tồn bộ các bài thần
chú và mê dụ mà còn dùng các bài thuốc đã được tìm ra bằng kinh nghiệm.
Thời đó, cũng như ở nhiều nền văn minh cổ khác, y khoa tích hợp chặt chẽ với những
phép thuật, niềm tin tôn giáo, và được thực hành bởi tầng lớp thầy tu, nhưng không phải tất cả
thành viên của tầng lớp này đều là một thầy tu kiêm bác sĩ; có một tầng lớp đặc biệt, gọi là
“pastophori”8 là những người có sứ mạng chăm sóc người bệnh.
Nghề y thời cổ Ai Cập đã phát triển và có sự chuyên hóa. Herodotus9 đã mơ tả Ai Cập
là đất nước có nhiều người hành nghề y, bao gồm các nhà chuyên môn cho các loại bệnh khác
nhau, mỗi người làm một lĩnh vực và không được nhiều hơn.
Hai cuộn papyri quan trọng nhất về chủ đề y học có nhiều liên hệ với nha khoa là “Ebers
papyrus”10 và “Edwin Smith papyrus”11.

pastophori: số nhiều của pastophorus, từ cổ: một loại tăng lữ (thầy tu) thời cổ Ai Cập, chịu trách nhiệm thực hiện
các buổi lễ chính thức ở những địa điểm linh thiêng như điện thờ hoặc các đám rước.
9

Herodotos (khoảng 484 TCN - 425 TCN), nhà sử học người Hy Lạp, được coi là nhà sử học vĩ đại nhất mọi thời
đại
10
Cuộn papyrus được GS George Ebers mua từ một cư dân ở Luxor (Thượng Ai Cập) năm 1873, nhân Lễ kỷ niệm
viện Ai Cập học ở Leipzig; hai năm sau, ông cho xuất bản tại Leipzig; cuốn sách được Dr Heinrich Joachim dịch
sang tiếng Đức và xuất bản năm 1890.
11
Cuộn papyrus này được chép vào năm 1600 TC và được chơn cùng với chủ nhân của nó trong một ngơi mộ đá
ở Thebes. Năm 1662, một nhóm trộm đã khai quật và bán cho Edwin Smith (1822-1906), một nhà Ai Cập học
8

4


Ebers papyrus
Tài liệu này hiện được lưu giữ trong thư viện Đại học Leipzig (Đức), là bản dịch từ tiếng
Ai Cập cổ sang tiếng Đức của Henrich Joachim (Berlin, 1890), sau này được dịch từ tiếng Đức
sang tiếng Anh. Đây là tài liệu cổ nhất, được bảo tồn nguyên vẹn nhất và lớn nhất về tất cả
những hiểu biết y học, tập hợp các papyri về y học. Nó có kích thước cao 30 cm, dài 20,23 m.
tồn bộ tài liệu được chia thành 180 phần, mỗi phần từ 20 đến 22 dịng.

Hình 1.5 Trang bìa bản dịch sang tiếng Đức Papyrus of Ebers và bảng chữ cái tiếng Ai Cập

Cuốn sách được viết bằng chữ hieratic12, hình …là một số đoạn trong papyrus. Theo
Ebers, papyrus được viết năm 1550 TC, nhưng theo nhiều nhà Ai Cập học, Ebers papyrus khơng
phải là một cơng trình gốc mà là bản ghi chép các cơng trình đã có từ rất sớm thuộc nhiều thời
kỳ cổ Ai Cập khác nhau và tập hợp để tạo nên một “hướng dẫn y khoa thực hành”, một số phần
trong đó đã được viết từ thế kỷ 37 TC. Sách mô tả tim và hệ thống mạch máu, cũng như các cơ
quan quan trọng của con người, hiểu biết thu được nhờ việc thực hành ướp xác, sắp xếp các


người Anh. Khi ông mất, con gái của ông tặng cho Hội Sử học New York. Hiện nay, được lưu giữ tại Viện Hàn
lâm Y học New York. Năm 1930, James H Breasted (1865-1935) hoàn thành nghiên cứu về papyrus này.
Tiếng Ai Cập cổ có ba loại chữ viết khác nhau: hieroglyphic là loại cổ nhất, chủ yếu được thấy trên các cơng
trình kỷ niệm và văn bản tôn giáo; hieratic
12

5


bệnh theo vị trí trên cơ thể và được tổ chức như một bách khoa thư dùng để tra cứu.

Cũng như văn minh Lưỡng Hà, rất nhiều cây thuốc và khống vật được dùng làm các
vị thuốc. Theo Leek, có tới 700 công thức thuốc được ghi trong Ebers papyrus. Có thể sơ bộ
liệt kê các vị thuốc có nguồn gốc thực vật: bạch đàn trắng/keo tai tượng (acasia), hồi (anise),
đại mạch (barley), muồng (cassia), hạt thầu dầu (caster bean), rau mùi (coriander), dưa chuột
(cucumber), thì là (cumin), chà là (date palm), hạt thì là (fennel seeds), vả tây/sung ngọt (fig),
tỏi (garlic), bách tròn (juniper), tỏi tây (leek), xà lách (lettuce), sen (lotus), đậu Hà Lan (peas),
hạt anh túc (poppy seeds), nghệ tây (saffron), hoa hướng dương (sunflower), (họ) bồ đề (styrax),
điều (trung đơng) (terrebinth), tiểu mạch (lúa mì) (wheat), nụ liễu (willlow buds), kế sữa (white
thistle), ngải đắng (wormwood)…Các loại có nguồn gốc khống vật: muối đồng, oxyt sắt,
trường thạch (feldspar), đá vôi (limestone), sét đỏ (?) (red ochre), carbonate Na, bicarbonate
Na, muối, lưu huỳnh…Các loại có nguồn gốc nhựa thiên nhiên: nhựa hương trầm
(frankincense), nhựa thơm từ loài Commiphora (myrrh), nhựa cây styrax officinalis (thuộc họ
bồ đề) (styrax), nhựa thông (turpentine)…Gôm arabic (Acacia gum) từ nhựa cây acacia được
dùng để che phủ vết thương, vết loét. Nhiều chất được dùng để dẫn thuốc: rượu vang, sữa, bia,
mật ong; chất béo và mỡ động vật cũng thường được dùng trong các thuốc mỡ. Các mô động
vật, và cũng như trong văn minh Lưỡng Hà, phân người và súc vật cũng có mặt trong thuốc.

6



Hình : Hesyre (Hesy-Ra), 2660 TC, Nha sĩ
trưởng đồng thời là Bác sĩ trưởng và nhiều
tước vị khác. Phù điêu gỗ, phát hiện ở
Saqqara - Quibell (1913). Nguồn: W.
Hoffmann-Axthelm

Nhiều loại vật liệu làm thuốc
trên đây đã trở thành cơ sở cho những
sách vật liệu làm thuốc Hy Lạp và La
Mã sau này như các sách của
Dioscoride13 và Galen14. Nhiều loại
cũng thấy trong sách vật liệu làm thuốc
được xuất bản ở thế kỷ XV và XVI, trở
thành cơ sở cho các y văn tiếng Hy Lạp
và La Tinh trong thời kỳ Phục hưng.
Nội dung của tài liệu cũng phân
biệt ba loại người hành nghề y: người
điều trị bằng thuốc dùng trong và dùng
ngoài là thầy thuốc (physicians); người
điều trị bằng mổ xẻ là thầy mổ
(surgeons); người sử dụng ma thuật
dưới dạng thần chú, phù phép và bùa là
thầy phù thủy (sorcerers).
Các bệnh răng và nướu chiếm
một số trang trong Ebers’papyrus. Có
nhiều đơn thuốc và phương pháp liên
quan đến việc điều trị áp xe do răng và
tăng cường sức khỏe của nướu. Các chất
làm se được dùng để súc miệng trong

các bệnh niêm mạc.
Để làm “tăng cường” cho
răng: [bột chà là, than chì (?), mật
ong], hoặc
[bột đá sét, than chì, mật
ong] trộn và chà lên răng
Để làm giảm “đau theo mạch đập” của áp xe gồm: [bột thằn lằn 15, bột nhào, mật ong,
dầu] Trộn thành bột, đắp.

13
14
15

Xem La Mã cổ đại.
Xem La Mã cổ đại.

Short-legged Seps: thằn lằn bóng chân ngắn Tetradactylus seps (?)
7


Để điều trị các phồng rộp ở miệng: [sữa bò, chà là tươi, uah (?)ngô] ngậm rồi nhai 9
lần/ngày
Để điều trị áp xe xương ổ cấp (có sưng): [bột nhào, hột thầu dầu, mật ong, rỉ đồng, than
chì] trộn thành bột, đắp lên.
Để điều trị bệnh nướu: [thì là, nhựa hương trầm, hành] trộn thành bột, đắp lên.

Edwin Smith papyrus16
Cũng như đối với Ebers papyrus, mặc dù được cho là có niên đại 1.600 TC, bản viết này
rõ ràng đã chép từ nhiều tài liệu cổ hơn. Đối chiếu với các thuật ngữ cổ trong phần giải nghĩa
thuật ngữ, niên đại của chúng có thể là khoảng 3.000 – 2.500 năm TC. Một trong những học

giả nổi tiếng thời Ai Cập cổ đại là Imhotep17 được tin là đã góp phần quan trọng cho Edwin
Smith papyrus (có tài liệu coi ông là tác giả của cuộn papyrus này).

Hình Tượng Imhotep tại Bảo tàng Louvre.
Nguồn: />
Edwin Smith papyrus được coi là một trong những tác phẩm y học xuất sắc nhất thời Ai
Cập cổ đại. Điểm đặc biệt trong Edwin Smith papyrus là đã khuyến nghị điều trị thích hợp trên
Cuộn papyrus này được chép vào năm 1600 TC và được chơn cùng với chủ nhân của nó trong một ngơi mộ đá
ở Thebes. Năm 1962, một nhóm trộm đã khai quật và bán cho Edwin Smith (1822-1906), một nhà Ai Cập học
người Anh. Khi ông mất, con gái của ông tặng cho Hội Sử học New York, hiện nay, được lưu giữ tại Viện Hàn
lâm Y học New York.
17
Imhotep (2780 TC - ?) được tin là góp phần quan trọng cho nội dung Edwin Smith papyrus, ngồi y khoa, ơng
cịn là nhà thiên văn, kiến trúc sư, thầy tế và là tể tướng của triều đình.
16

8


cơ sở chẩn đốn đúng một cách có lý lẽ. Lần đầu tiên, kỹ thuật mổ được đề cập và kiến thức y
học không mang các ý tưởng ma thuật. Có thể coi Edwin Smith papyrus là ví dụ đầu tiên cho
một cuốn sách giáo khoa y học hiện đại. Về phương pháp tiếp cận, sách trình bày 48 trường
hợp bệnh18 với các vấn đề ngoại khoa về chấn thương và tai nạn bao gồm gãy xương (trong đó
có gãy xương hàm) theo trình tự đầu, mặt, cổ, tay, ngực, vai, cột sống. Mỗi trường hợp được
mô tả từ kiến thức giải phẫu, sinh lý, bệnh lý, đến dấu hiệu lâm sàng, chẩn đoán, chẩn đoán mở
rộng (chẩn đoán phân biệt?), bàn luận về các lựa chọn điều trị và tiên lượng; cuối sách cịn có
phần giải nghĩa thuật ngữ cổ. Có thể tác giả đã khám những nơ lệ bị thương tích khi xây dựng
các kim tự tháp. Việc điều trị khối u cũng được phân biệt lành tính và ác tính: đối với u lành là
phẫu thuật, đối với u ác thì điều trị khơng thành cơng. Phương pháp đốt cũng được dùng cho
khối u và loét. “Đau theo mạch đập” được nhắc đến và người ta đã nhận thức tim là trung tâm

của hệ thống mạch máu. Tài liệu này cũng mô tả lần đầu tiên gạc thấm và băng, khâu vết thương,
nẹp cố định gãy xương, cũng như việc sử dụng các thuốc khử khuẩn và chất làm se cho vết
thương nhiễm trùng.
Một papyrus khác thường được nhắc đến về răng là Anastasi papyrus vào thời Tân
Vương quốc. trong đó, đã lần đầu tiên nêu con sâu tấn cơng vào răng19.

Tóm tắt:
Ai Cập cổ đại (từ khoảng 3892 TC đến 332 TC), có nền văn minh cổ phát triển cao. Những
điểm đáng chú ý là:
-

-

-

18
19

Hai cuộn papyri quan trọng nhất về chủ đề y học có nhiều liên hệ với nha khoa là “Ebers
papyrus” và “Edwin Smith papyrus”, ghi chép nhiều loại thảo dược, các vấn đề ngoại
khoa và chấn thương.
Quan niệm bệnh tật là do cơ thể bị ma quỉ khống chế. Cùng với văn minh Lưỡng Hà,
xuất hiện khái niệm con sâu răng.
Người hành nghề là tầng lớp thầy tu và đã có sự chuyên hóa, gồm ba loại: thầy thuốc,
thầy mổ và thầy phù thủy; việc điều trị dựa trên bùa phép-thần chú, ma thuật-mê dụ
và bằng nhiều phương thuốc.
Có di vật về nẹp răng và phục hình (?) dùng dây vàng, khơng có bằng chứng về chữa
răng

Khơng phải là bệnh nhân

Xem thêm phần Lưỡng Hà

9



×