Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

SO SÁNH HÌNH ẢNH BẢN THÂN CỦA THẾ HỆ TRẺ MỒI CHÔN TRONG TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ Ạ HỘI VỚI THÍ HỆ TRẺ CÓ HOÀN CẢNH BÌNH THƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀN POZ CHÍ MINH - Full 10 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 11 trang )

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: />
COMPARING SELF-IMAGE OF ADOLESCENTS IN SOCIAL CENTERS WITH THEIR
COUNTERPARTS WITH NORMAL LIVING CONDITION IN HO CHI MINH CITY
Conference Paper · August 2018
CITATIONS

READS

0

330

2 authors:
Nguyen Hong Xuan Nguyen

Tra Thi Thanh Kieu

Pham Ngoc Thach University of Medicine

Ho Chi Minh City University of Education

1 PUBLICATION   0 CITATIONS   

34 PUBLICATIONS   265 CITATIONS   

SEE PROFILE

All content following this page was uploaded by Tra Thi Thanh Kieu on 16 October 2021.

The user has requested enhancement of the downloaded file.


SEE PROFILE


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

SO SÁNH HÌNH ẢNH BẢN THÂN CỦA THIẾU NIÊN
SỐNG TRONG TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI
VỚI THIẾU NIÊN CĨ HỒN CẢNH BÌNH THƯỜNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Hồng Xuân Nguyên1
Kiều Thị Thanh Trà2

Tóm tắt: Hình ảnh bản thân là một trong những thành tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách. Bài
viết này trình bày kết quả so sánh hình ảnh bản thân của 98 thiếu niên sống trong trung tâm bảo trợ
xã hội với 102 thiếu niên có hồn cảnh bình thường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, từ đó định hướng
xây dựng biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các em. Nghiên cứu sử dụng phối hợp ba cơng cụ để đánh
giá hình ảnh bản thân bao gồm: trắc nghiệm Twenty Statement (TST), thang đo hình ảnh bản thân
của Ted Singelis và trắc nghiệm tranh vẽ Draw a Story (DAS) của Rawley Silver. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, mức độ biểu hiện hình ảnh bản thân của thiếu niên sống trong trung tâm bảo trợ xã hội
thấp hơn, nội dung hình ảnh bản thân kém sâu sắc, mờ nhạt, thể hiện cảm xúc âm tính và mang tính
tiêu cực, hình ảnh bản thân liên cá nhân thấp hơn so với hình ảnh bản thân của thiếu niên có hồn
cảnh bình thường.
Từ khố: hình ảnh bản thân, nhân cách, thiếu niên

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, vấn đề hình ảnh bản thân (HABT) đã được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, có
thể kể đến một số nghiên cứu như: Năm 2005, Brian Lam đã có một nghiên cứu về HABT và tác
động trực tiếp cũng như gián tiếp của trầm cảm thông qua một vài biến số như: sự gắn kết của gia
đình, sự nâng đỡ của bạn bè đồng trang lứa, và lòng tự trọng. Nghiên cứu cho thấy: các chiều
hướng của HABT (hình ảnh nội cá nhân và liên cá nhân) chỉ có tác động gián tiếp; Người có HABT

theo hướng liên cá nhân (thường là người Á Đơng) dễ cảm thấy bất an, khó chịu vì khơng kiểm
sốt được tình huống liên quan đến giao tiếp liên cá nhân và họ thường có triệu chứng trầm cảm
cao hơn những người có HABT theo hướng nội cá nhân (thường là người phương Tây) (Lam,
2005). Nghiên cứu về “Văn hố, hình ảnh bản thân, phản ứng tình cảm đối với sự thành công và
thất bại của người khác” đã xem xét về ảnh hưởng của yếu tố văn hoá và HABT đến cách thức
hành động của cá nhân khi thấy người khác thành công hay thất bại. Nghiên cứu được thực hiện
trên hai nhóm sinh viên: một nhóm sinh viên Canada gốc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...)
và một nhóm sinh viên Canada gốc Âu (Anh, Pháp, Đức...). Kết quả cho thấy rằng những sinh
viên Canada gốc Á có HABT thiên về hình ảnh liên cá nhân trong khi nhóm sinh viên Canada gốc
Âu có HABT thiên về hình ảnh nội cá nhân. Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng người có HABT
thiên về liên cá nhân sẽ có xu hướng thích nghe về những người thành công hơn là thất bại, để cải
thiện bản thân. Những người có HABT thiên về nội cá nhân sẽ dễ cảm thấy khó chịu khi mình là
người thành cơng trong nhóm khơng thành cơng và ngược lại; trong khi những người có HABT
thiên về liên cá nhân sẽ cảm thấy dễ chịu khi mình thuộc về nhóm thành cơng và khó chịu khi
mình thuộc về nhóm khơng thành công (White, 2006). Các tác giả C.A. Levinson, J.K. Langer và
Học viên cao học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; ĐT: 0918697646;
Email: xnguyen2801@ gmail.com.
2
Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; ĐT: 0906270856; Email:
1


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

T.L. Rodebaugh thuộc Trường Đại học Washington khảo sát về “Hình ảnh bản thân và lo âu xã
hội: xét dưới góc độ nhân cách”, qua đó, xác nhận mối quan hệ giữa tính hướng ngoại và trạng
thái lo âu thường trực chịu ảnh hưởng nhất định từ HABT liên cá nhân. Ngoài ra, mối quan hệ
giữa lo âu xã hội và HABT liên cá nhân có thể dung hồ trạng thái lo âu thường trực của cá nhân.
Từ những kết quả này có thể nhận định rằng, nét nhân cách có vai trị quan trọng trong mối quan
hệ giữa lo âu xã hội và HABT (Levinson, Langer & Rodebaugh, 2011). Tiếp đó, E. Duncan, V.

Ornaghi và I. Grazzani đề cập đến HABT qua một nghiên cứu về HABT và sức khoẻ tinh thần của
thanh niên ở hai quốc gia châu Âu, khảo sát được thực hiện trên 815 học sinh Scotland và Ý.
Nghiên cứu đã đưa ra kết quả rằng: cá nhân nào có sức khoẻ tinh thần tốt (dựa trên ba tiêu chí:
thoả mãn với cuộc sống, lạc quan, hạnh phúc chủ quan) thì có HABT theo hướng nội cá nhân.
Theo đó, nhóm học sinh Ý có điểm hình ảnh nội cá nhân cao hơn nhóm Scotland và yếu tố giới
tính có ảnh hưởng đáng kể đến hình ảnh liên cá nhân lên bản thân chủ thể (Duncan, Ornaghi &
Grazzani, 2013). Như vậy, HABT là một trong những thành tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách
của cá nhân, là lĩnh vực nghiên cứu nhận được sự quan tâm rất lớn từ các nhà nghiên cứu tâm lí
học. Tuy nhiên, ở Việt Nam, mảng đề tài này vẫn còn tương đối mới mẻ, đặc biệt, nghiên cứu về
HABT trên những nhóm khách thể đặc thù lại càng hiếm hoi.
Thiếu niên sống ở trung tâm bảo trợ xã hội (TTBTXH) là những em trong độ tuổi từ 11 đến
15, bị bỏ rơi, mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất tích hoặc khơng đủ
năng lực, khả năng để ni dưỡng theo quy định của pháp luật; có cha hoặc mẹ đang trong thời
gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Mặc dù những nhu cầu cơ bản
về vật chất có thể được đáp ứng, nhưng các em phải sống trong một môi trường hồn tồn khác
biệt, khơng được sống trong gia đình tức là trẻ đã mất đi mơi trường xã hội hố cơ bản nhất, đầu
tiên nhất của con người. Hoàn cảnh đặc thù này ảnh hưởng như thế nào đến quá trình hình thành
và phát triển HABT của các em? Có tồn tại sự khác biệt giữa HABT của nhóm trẻ đặc thù này với
HABT của thiếu niên có hồn cảnh bình thường (đang sống cùng gia đình)? Bài viết này trình bày kết
quả nghiên cứu so sánh ban đầu về HABT của thiếu niên sống trong TTBTXH và HABT của thiếu
niên có hồn cảnh bình thường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu bao gồm 2 nhóm:
Nhóm 1: 98 trẻ từ 11 đến 15 tuổi đang sinh sống ở các TTBTXH trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
(Làng thiếu niên Thủ Đức, Cơ sở bảo trợ xã hội Hóc Mơn, Mái ấm Quận 8,
Mái ấm Ánh Sáng, Mái ấm Ga Sài Gịn và Mái ấm Ánh Sáng nam).
Nhóm 2: 102 trẻ từ 11 đến 15 tuổi, có hồn cảnh bình thường, đang học tại các trường trung
học cơ sở trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Trong giới hạn của nghiên cứu này, chúng tơi xác định
trẻ có hồn cảnh bình thường là trẻ đang sống cùng với gia đình, khơng xem xét các tiêu chí khác

có liên quan đến kiểu gia đình hay mối quan hệ trong gia đình của trẻ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
HABT của thiếu niên ở hai nhóm khách thể được đánh giá về mức độ biểu hiện và nội dung
của HABT thông qua ba công cụ: trắc nghiệm TST, trắc nghiệm DAS và thang đo HABT của Ted
Singelis.


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

2.2.1.Trắc nghiệm TST
HABT của thiếu niên sống trong TTBTXH thông qua trắc nghiệm TST được xem xét trên hai
khía cạnh: định tính (các câu trả lời được đánh giá theo các nhóm nội dung) và định lượng (nội
dung các câu mô tả, nhận định về bản thân được cho điểm dựa trên quy ước của trắc nghiệm TST)
(Nguyễn Thị Phương Hoa, 2016). Khách thể được yêu cầu viết 10 câu mô tả về bản thân. Tổng
điểm tối đa của phần này sẽ là 40 và điểm tối thiểu là 0. Mức độ biểu hiện HABT dựa trên trắc
nghiệm TST được đánh giá như sau:
Bảng 1. Bảng phân chia mức độ HABT dựa trên tổng điểm TST
Tổng điểm TST
< 8 điểm

Mức độ HABT
Rất thấp

8 – 16 điểm
16 – 24 điểm
24 – 32 điểm
> 32 điểm

Thấp
Trung bình

Khá
Cao

2.2.2. Trắc nghiệm DAS
HABT thể hiện qua trắc nghiệm tranh vẽ DAS cũng được xem xét trên hai khía cạnh: định
tính và định lượng (Silver, R., 2007).
– Định tính: Xác định tính chất HABT thể hiện qua tranh vẽ.
– Định lượng: Tính chất HABT được xác định theo nội dung tranh vẽ và câu chuyện, sau đó
được quy đổi điểm số như sau:
Bảng 2. Bảng quy ước điểm số và mức độ HABT dựa trên trắc nghiệm DAS
Tính chất HABT
– HABT rất tiêu cực
– HABT tiêu cực
– HABT có màu sắc tiêu cực
– HABT mơ hồ, nước đôi, hoặc không thể hiện
– HABT có màu sắc tích cực
– HABT tích cực
– HABT rất tích cực

Điểm số quy ước
1 điểm

Mức độ
Rất thấp

2 điểm

Thấp

3 điểm


Trung bình

4 điểm

Khá

5 điểm

Cao

2.2.3. Thang đo hình ảnh bản thân của Ted Singelis
Thang đo này gồm 30 mệnh đề tự đánh giá, gồm 15 câu nội cá nhân và 15 câu liên cá nhân.
Mỗi mệnh đề có 7 lựa chọn, điểm số được cho tương ứng với từng lựa chọn từ hồn tồn khơng
đồng ý – 1 điểm đến hoàn toàn đồng ý – 7 điểm (Singelis, T.M.,1994).
Mức độ HABT dựa trên thang đo này được xác định dựa trên tổng điểm của thang đo HABT
liên cá nhân, nội cá nhân và HABT nói chung như sau:


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

Bảng 3. Phân chia mức độ HABT dựa trên thang đo của Ted Singelis
(Đơn vị: điểm)
Mức độ

Rất thấp

Thấp

Trung bình


Khá

Cao

HABT
liên cá nhân

< 33

33 – 51

51 – 69

69 – 87

> 87

HABT
nội cá nhân

< 33

33 – 51

51 – 69

69 – 87

> 87


HABT
nói chung

< 66

66 – 102

102 – 138

138 – 174

> 174

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả so sánh hình ảnh bản thân của thiếu niên sống trong trung tâm bảo trợ xã hội
và thiếu niên có hồn cảnh bình thường thơng qua ba cơng cụ
Bảng 4. Kết quả so sánh HABT của thiếu niên sống trong TTBTXH và thiếu niên có hồn
cảnh bình thường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thơng qua ba cơng cụ
Mức độ biểu hiện HABT

TST

DAS

Singelis

Rất
thấp


Thấp

Trung
bình

Khá

Cao

TT
BTXH

Tần số

14

20

40

20

4

Tỉ lệ

14,3%

20,4%


40,8%

20,4%

4,1%

Thiếu
niên bình
thường

Tần số

4

1

6

31

60

Tỉ lệ

3,9%

1,0%

5,9%


30,4%

58,8%

TT
BTXH

Tần số

18

18

30

21

11

Tỉ lệ

18,4%

18,4%

30,6%

21,4%

11,2%


Thiếu
niên bình
thường

Tần số

14

26

9

18

35

Tỉ lệ

13,7%

25,5%

8,8%

17,6%

34,3%

TT

BTXH

Tần số

0

2

46

48

2

Tỉ lệ

0

2,0%

46,9%

49,0%

2,0%

Thiếu
niên bình
thường


Tần số

0

4

29

68

1

Tỉ lệ

0

3,9%

28,4%

66,7%

1,0%

Kiểm nghiệm
2

2 = 99,209
sig. = 0,000


2 = 25,945
sig. = 0,000

2 = 8,225
sig. = 0,042

Kết quả ở bảng 4 cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa giữa mức độ biểu hiện HABT của thiếu
niên sống trong TTBTXH với thiếu niên có hồn cảnh bình thường thơng qua trắc nghiệm TST
(2 = 99,209; sig. = 0,000), trắc nghiệm tranh vẽ DAS (2 = 25,945; sig. = 0,000) và thang đo
HABT của Ted Singelis (2 = 8,225; sig. = 0,042). Nhìn chung, mức độ biểu hiện HABT của thiếu
niên có hồn cảnh bình thường có khuynh hướng cao hơn so với HABT của thiếu niên sống trong
TTBTXH trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Khuynh hướng này đặc biệt thể hiện rõ nét thông qua kết
quả trắc nghiệm TST và trắc nghiệm tranh vẽ DAS.


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

Để có cái nhìn chi tiết, cụ thể hơn, người nghiên cứu tiến hành phân tích, đối chiếu nội dung
biểu hiện HABT của thiếu niên sống trong TTBTXH với nội dung biểu hiện HABT của thiếu niên
có hồn cảnh bình thường theo từng cơng cụ đo.
3.2. Kết quả so sánh hình ảnh bản thân của thiếu niên sống trong trung tâm bảo trợ xã hội và
thiếu niên có hồn cảnh bình thường thơng qua trắc nghiệm TST
35

thiếu niên
TTBTXH

31.3

30

25

thiếu niên bình
thường

22

20.6

20
15.9
13.813

15

13.1
10.6

10
5

16.7

9.7
7.1

4.6
2.9
0.6


5.2

4.1

3.2
1.7

2.11.8

0
0

1

2

3

4

5

6

7

8

9


(Ghi chú: 0: Nội dung khơng có giá trị; 1: Bản sắc khơng rõ ràng; 2: Đặc điểm bên ngoài;
3: Khả năng, năng lực; 4: Hứng thú, nhu cầu, mong muốn; 5: Kì vọng;
6: Yếu tố xã hội; 7: Xúc cảm – tình cảm; 8: Hành vi, thái độ thể hiện tính cách;
9: Tự đánh giá, định hướng giá trị)
Biểu đồ 1. Tỉ lệ % nội dung biểu hiện HABT của thiếu niên sống trong TTBTXH
và thiếu niên có hồn cảnh bình thường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
qua trắc nghiệm TST
Xu hướng chung của biểu đồ 5 cho thấy thiếu niên sống trong TTBTXH có tỉ lệ câu TST với
“nội dung khơng có giá trị”, “bản sắc không rõ ràng”, “đặc điểm bên ngoài”, “khả năng, năng
lực”, “hứng thú, nhu cầu, mong muốn” cao hơn so với thiếu niên có hồn cảnh bình thường. Ngược
lại, ở các nội dung liên quan đến “kì vọng”, “yếu tố xã hội”, “xúc cảm – tình cảm”, “hành vi, thái
độ, thể hiện tính cách” và “tự đánh giá, định hướng giá trị” thì tỉ lệ số câu TST của thiếu niên có
hồn cảnh bình thường cao vượt trội. Đáng lưu ý, tỉ lệ số câu TST với “nội dung khơng có giá trị”
của thiếu niên sống trong TTBTXH nhiều gấp 5 lần so với thiếu niên có hồn cảnh bình thường
(20,6% và 4,6%). Rõ ràng, có nhiều vấn đề cần được quan tâm trong nội dung thể hiện bản thân
của thiếu niên sống trong TTBTXH.
Như vậy, khi đánh giá dựa trên trắc nghiệm TST, nội dung biểu hiện HABT của thiếu niên
sống trong TTBTXH kém sâu sắc hơn so với HABT của thiếu niên có hồn cảnh bình thường.


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

3.3. Kết quả so sánh hình ảnh bản thân của thiếu niên sống trong trung tâm bảo trợ xã hội

thiếu
niên

hồn
cảnh
bình

thường
thơng
qua
trắc nghiệm DAS
40
34.3

35

thiếu niên
TTBTXH
thiếu niên bình
thường

30.6
30
25
20
15

19.6

18.4

16.3
13.7

13.3

12.7


11.2

8.8

10

5.9

5.1

4.9

5.2

5
0

Rất tiêu cực

Tiêu cực

Màu sắc tiêu
cực

Mơ hồ, nước
đơi hoặc khơng
thể hiện

Màu sắc tích

cực

Tích cực

Rất tích cực

Biểu đồ 2. Tỉ lệ % tính chất HABT của thiếu niên sống trong TTBTXH
và thiếu niên có hồn cảnh bình thường thơng qua trắc nghiệm tranh vẽ DAS
Có thể thấy, HABT có tính chất rất tiêu cực, tiêu cực và mơ hồ của thiếu niên sống trong
TTBTXH cao hơn thiếu niên có hồn cảnh bình thường, trong đó, tỉ lệ HABT có tính chất mơ hồ
cao hơn thấy rõ (gấp 3,5 lần). Ngược lại, HABT có tính chất tích cực và rất tích cực của thiếu niên
có hồn cảnh bình thường có tỉ lệ cao hơn thiếu niên sống trong TTBTXH (HABT rất tích cực của
học sinh THCS cao hơn 3,1 lần của thiếu niên sống trong TTBTXH). HABT mơ hồ và rất tiêu cực
thể hiện qua tranh vẽ của thiếu niên sống trong TTBTXH chiếm tỉ lệ cao là một tín hiệu đáng buồn.
HABT mơ hồ, nước đôi thể hiện bản sắc cá nhân mờ nhạt, khơng dám thể hiện mình. Đồng thời,
những mặc cảm, tự ti cùng những trải nghiệm tiêu cực thời thơ ấu đã vơ tình tạo nên những HABT
“sợ hãi, vô vọng, không thoả mãn...” đầy tiêu cực. Rõ ràng, hoàn cảnh sống thiếu thốn và những
mất mát, thiệt thòi mà thiếu niên sống trong TTBTXH phải trải qua từ khi còn nhỏ đã tác động
tiêu cực đến HABT của các em.
Thêm vào đó, khi phân tích nội dung tranh vẽ và câu chuyện, có thể nhận ra sự khác nhau giữa
thiếu niên sống trong TTBTXH và thiếu niên có hồn cảnh bình thường ở một số khía cạnh, như
kết quả thể hiện ở biểu đồ 3 và 4.


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

60%

Thiếu niên TTBTXH


52.0%

50%

Thiếu niên bình thường

41.9%

38.7%

40%
28.4%

30%

19.6%

19.4%

20%
10%
0%
Âm tính

Dương tính

Khơng thể hiện

Biểu đồ 3. Tỉ lệ % loại cảm xúc chủ đạo thể hiện trong tranh vẽ DAS của thiếu niên sống
trong TTBTXH và thiếu niên có hồn cảnh bình thường

trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
40%

35.5%

34.7%

30%

25.5%
19.4%

20%

10%

25.5%
22.6%

Thiếu niên
TTBTXH
Thiếu niên bình
thường

8.8%

0%
Hung tính

11.2%

7.8%

Tự hủy

Mong muốn

9.2%

Đạt mục tiêu

Nội dung không


Biểu đồ 4. Tỉ lệ % nội dung câu chuyện của thiếu niên sống trong TTBTXH
và thiếu niên có hồn cảnh bình thường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
qua trắc nghiệm DAS
Biểu đồ 3 và 4 phản ánh sự khác nhau về cảm xúc chủ đạo và nội dung câu chuyện của thiếu
niên sống trong TTBTXH và thiếu niên có hồn cảnh bình thường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh,
thể hiện thơng qua tranh vẽ DAS.
Về cảm xúc chủ đạo, tỉ lệ tranh vẽ thể hiện cảm xúc dương tính của thiếu niên có hồn cảnh
bình thường (52,0%) cao gấp 2,6 lần so với tranh vẽ của thiếu niên sống trong TTBTXH (19,4%).
Ngược lại, tỉ lệ tranh vẽ thể hiện cảm xúc âm tính và khơng bộc lộ cảm xúc của thiếu niên sống
trong TTBTXH lại cao hơn.
Về nội dung câu chuyện, yếu tố hung tính và xu hướng tự huỷ của thiếu thiên sống trong
TTBTXH cao hơn hẳn so với thiếu niên có hồn cảnh bình thường. Một số tranh vẽ thể hiện nội
dung hung tính và xu hướng tự huỷ của thiếu niên sống trong TTBTXH được thể hiện ở hình 5 và
6.


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY


Hình 5. Một số tranh vẽ thể hiện xu hướng tự huỷ của thiếu niên
sống trong TTBTXH trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh

Hình 6. Một số tranh vẽ thể hiện hung tính của thiếu niên
sống trong TTBTXH trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh
Ngược lại, tỉ lệ câu chuyện mang nội dung tích cực, thể hiện mong muốn hay đạt được mục
tiêu nào đó của thiếu niên có hồn cảnh bình thường vượt trội so với thiếu niên sống trong
TTBTXH.
Riêng đối với những câu chuyện có nội dung khơng rõ ràng hoặc khơng có cốt truyện, sự
chênh lệch giữa hai nhóm khách thể này là không nhiều.
Kết quả này cho phép giả định thiếu niên sống trong TTBTXH có những khó khăn nhất định
trong đời sống tâm lí nói chung và HABT nói riêng. Những khó khăn này có thể liên quan đến
hồn cảnh sống hoặc những mặc cảm tồn tại trong chính bản thân thiếu niên sống trong TTBTXH.


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

3.4. Kết quả so sánh hình ảnh bản thân của thiếu niên sống trong trung tâm bảo trợ xã hội và
thiếu niên có hồn cảnh bình thường thơng qua thang đo Singelis
Bảng 5. Kết quả kiểm nghiệm trung bình HABT nội cá nhân và liên cá nhân
của thiếu niên sống trong TTBTXH và thiếu niên có hồn cảnh bình thường
trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thơng qua thang đo Singelis
Thiếu niên
TTBTXH

Thiếu niên bình
thường

Kiểm nghiệm t


Xác suất

Nội cá nhân

70,58

68,59

– 1,169

0,244

Liên cá nhân

70,06

73,38

1,981

0,049

HABT

Kết quả ở bảng 5 cho thấy, trung bình tổng điểm HABT liên cá nhân của thiếu niên sống trong
TTBTXH thấp hơn so với thiếu niên có hồn cảnh bình thường. Kết quả kiểm nghiệm T - test cho
t = 1,981 và sig. = 0,049 cho thấy kết quả này có sự khác biệt ý nghĩa. Kết quả này cũng cho thấy
thiếu niên sống trong TTBTXH tự đánh giá về HABT thể hiện trong mối quan hệ, tương tác của
các em đối với những người xung quanh thấp hơn so với thiếu niên có hồn cảnh bình thường.

Điều này phản ánh đặc trưng tâm lí của thiếu niên sống trong TTBTXH, đa phần các em đều mặc
cảm về bản thân, gia đình và thường thiếu tự tin nên các em thường gặp khó khăn trong việc gia
nhập các mối quan hệ xã hội hơn các trẻ khác.
Ngược lại, trung bình tổng điểm HABT nội cá nhân của thiếu niên sống trong TTBTXH có
“nhỉnh” hơn một chút so với học sinh THCS (70,58 so với 68,59); tuy nhiên, sự chênh lệch này
khơng có ý nghĩa về mặt thống kê.
4. KẾT LUẬN
Kết quả so sánh HABT của thiếu niên sống trong TTBTXH và thiếu niên có hồn cảnh bình
thường trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thông qua ba công cụ cho phép khẳng định sự khác biệt có
ý nghĩa về HABT giữa hai nhóm khách thể này. Cụ thể, mức độ biểu hiện HABT của thiếu niên
sống trong TTBTXH có khuynh hướng thấp hơn, nội dung HABT kém sâu sắc, mờ nhạt, thể hiện
cảm xúc âm tính và mang tính tiêu cực, HABT liên cá nhân thấp hơn so với HABT của thiếu niên
có hồn cảnh bình thường.
Kết quả này cho phép giả định rằng hoàn cảnh sống kém may mắn, những trải nghiệm tiêu
cực, mất mát từ thời thơ ấu đã trở thành những “điểm xám” trong đời sống tâm lí, ảnh hưởng đến
cách nhìn nhận, lí giải, đánh giá sự vật, sự việc... khiến cho HABT của các em thể hiện qua tranh
vẽ có tính chất tiêu cực. Đồng thời, có thể xem tính hung tính và xu hướng tự huỷ thể hiện qua
tranh của thiếu niên sống trong TTBTXH là những chỉ báo cần được lưu tâm, bởi, những tranh vẽ
gợi tính bạo lực, tính dục, chia cắt, tự hoại, máy móc hố nhân vật... đều có thể là chỉ báo gợi ý
cho một rối nhiễu nào đó về mặt tâm lí, thậm chí là chỉ dấu nghi bệnh (Skaife & Huet, 1998). Như
vậy, cần có thêm những cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về HABT của thiếu niên sống trong
TTBTXH để làm rõ những giả định nêu trên, cũng như có thể đưa ra những chương trình hỗ trợ
tâm lí phù hợp cho nhóm khách thể đặc thù này./.


THE SIXTH INTERNATIONAL CONFERENCE ON SCHOOL PSYCHOLOGY

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Duncan, E., Ornaghi, V., Grazzani, I. (2013), Self-construal and Psychological Wellbeing in
Scottish and Italia young aldult, Journal of Happiness Study, Vol14, pp.1145-1161.
doi:10.1007/s10902-012-9372-0.
2. Lam, B. (2005), Self-construal and depression among Vietnamese-American adolescents,
International Journal of Intercultural Relations, Vol 29. Amsterdam: Elsevier Ltd.
3. Levinson, C.A., Langer, J.K., Rodebaugh, T.L. (2011), Self-construal and social anxiety:
Considering personality, Personality and Individual Differences, Vol 51, pp.355-359.
Amsterdam: Elsevier Ltd.
4. Nguyễn Thị Phương Hoa (2016), Sự phát triển tâm lí của học sinh trung học cơ sở. Luận án
Tiến sĩ Tâm lí học, Học viện Khoa học Xã hội Hà Nội.
5. Sedikides, C. and Brewer, M.B. (2001), Individual self, relational self, collective self,
Philadenphia: Taylor and Francis.
6. Singelis, T.M. (1994), The measurement of independent and interdependent self-construals,
Personality and Social Psychology Bulletin, Vol 20, pp.580-591.
7. Silver, R. (2007), The Silver Drawing Test and Draw A Story, New York: Routledge.
8. Skaife, S., Huet, L. (1998), Art Psychotherapy Groups (between pictures and words), New
York: Routledge.
9. Smyke, A.T., Zeanah, C.H., Fox, N.A., Nelson, C.A. (2009), A New Model of Foster Care for
Young Children): The Bucharest Early Intervention Project, North America: Child &
Adolescent Psychiatric Clinics.
10. White, K. (2006), Culture, self-construal, and affective reactions to successful and
unsuccessful others, International Journal of Intercultural Relations, Vol 42. Amsterdam:
Elsevier Ltd.

COMPARING SELF-IMAGE OF ADOLESCENTS IN SOCIAL CENTERS WITH
THEIR COUNTERPARTS WITH NORMAL LIVING CONDITION
IN HO CHI MINH CITY
Nguyen Hong Xuan Nguyen
Kieu Thi Thanh Tra


Abstract: Self-image is one of the most important aspects in individual’s personality structure. This
article aims to identify the differences in self-image between 98 adolescents in social centers and
their 102 counterparts with normal living condition in Ho Chi Minh City in order to suggest some
appropriate support to them.Three tests were used in order to evalute self-image, including: Twenty
Statements Test (TST), Ted Singelis’s self-image scale and Rawley Silver’s Draw A Story Test (DAS).
The findings show that adolescents in social centers have lower, more unclear and negative outcome
self-image, interpersonal self-image is also lower than than that of their counterparts.
Keywords: self-image, personality, adolescents

View publication stats



×