PHẦN I - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” không chỉ là lời của những bài hát nổi
tiếng mà còn là một thực tế tất yếu. Trẻ em là nguồn hạnh phúc, niềm hy vọng của
người cha người mẹ và là tương lai của dân tộc. Một dân tộc để vững bước đi lên ở
cả hiện tại cũng như tương lai thì thế hệ trẻ giữ một vai trò cực kỳ quan trọng bởi
những mầm non đó đang hàng ngày tiếp bước truyền thống tốt đẹp của cha anh đi
trước đồng thời cũng không ngừng học tập sáng tạo tu dưỡng rèn luyện về mọi mặt
để trở thành những con người vừa có đức vừa có tài nhằm xây dựng đất nước giàu
mạnh như mong muốn của Bác Hồ kính yêu hàng mong ước cũng như mong muốn
của hàng triệu người khác. Trẻ em sinh ra trong thế giới này đều có quyền mà Công
ước Quốc tế đã ghi nhận và cũng được pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Thực
hiên các quyền của trẻ cũng chính là trách nhiệm nghĩa vụ của Đảng nhà nước của
mỗi gia đình và của toàn xã hội.
Trong công cuộc CNH-HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay, bên cạnh những
thành tựu đạt được, Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề xã hội như: sự
phân hoá giàu nghèo, vấn đề việc làm các tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia
tăng làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân nhất là đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trong đó đối tượng đầu tiên chịu tác động là trẻ
em mồ côi.
Trẻ mồ côi là một hiện tượng xã hội, tồn tại ở tất cả quốc gia trên thế giới, là
nhóm trẻ đặc thù của công tác xã hội, là nhóm trẻ dễ bị tổn thương và chịu nhiều
thiệt thòi; trẻ mồ côi ít có cơ hội để phát triển và hoàn thiện nhân cách cũng như
hoà nhập với cộng đồng. Hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chăm sóc và
có nhiều chủ trương, chính sách dành cho trẻ em mồ côi. Đặc biệt, nhiều mô hình
chăm sóc, giáo dục trẻ mồ côi đã hình thành để giúp các em có một gia đình thay
thế như: Các trung tâm bảo trợ xã hội, mái ấm, nhà tình thương… Việc chuẩn bị
cho trẻ mồ côi bước vào cuộc sống, thực chất là quá trình giáo dục đào tạo để hình
thành kỹ năng sống và phát triển nhân cách toàn diện. Có rất nhiều vấn đề cần giáo
dục để giúp trẻ mồ côi sau này trưởng thành, tự lập một cách tự tin, trong đó giáo
dục kỹ năng hòa nhập cho trẻ mồ côi không nơi nương tựa là điều hết sức quan
trọng, vì trước khi trẻ được đưa đến cơ sở trung tâm bảo trợ xã hội thì thường một
thời gian dài trước đó trẻ thiếu sự quan tâm dạy bảo của người thân nên đã hình
thành ở trẻ một số đặc điểm tâm lý mang tính tiêu cực như mặc cảm, nhút nhát, giao
tiếp kém, thiếu niềm tin vào bản thân và người khác, không nhanh nhạy, quyết
đoán…, trẻ hay nói tục, đánh nhau, và đó cũng là điểm yếu trong việc hình thành
những phẩm chất đạo đức. Nhiều trường hợp các em có biểu hiện phớt lờ với đời
sống, thiếu ý thức làm chủ cuộc đời mình và dễ bị bạn bè xấu lôi kéo. Vì vậy, cần
giáo dục kỹ năng hòa nhập cho các em, giúp các em có tư tưởng ổn định, tâm lý
phát triển lành mạnh, có niềm tin vào bản thân mình.
Trung tâm Bảo Trợ xã hội Tỉnh Vĩnh Phúc là đơn vị hành chính sự nghiệp
thuộc Sở lao động thương binh Tỉnh, có mục đích thành lập là tiếp nhận các đối
tượng xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, quản lý chăm sóc nuôi dưỡng, tổ chức
giáo dục phục hồi chức năng theo chính sách quy định hiện hành, tổ chức hướng
nghiệp, hướng dẫn đối tượng tăng gia sản xuất, tạo điều kiện học nghề, tìm việc làm
và giúp đối tượng tái hoà nhập xã hội. Trung tâm Bảo trợ xã hội được phép đề nghị
với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xin giao nhận trẻ mồ côi, trẻ em bị bỏ
rơi, trẻ em ngoài giá thú đang nuôi trong hoặc nước ngoài theo quy định của pháp
luật Việt Nam. Hiện nay, trẻ em mồ côi đang sống tại Trung tâm là 72 trẻ. Ở đây,
trẻ mồ côi được chăm sóc được học tập, vui chơi giải trí. Tuy nhiên, vấn đề giáo
dục kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ mồ côi ở Trung tâm vẫn chưa mang lại
hiệu quả như mong muốn. Qua thực tế tiếp xúc trực tiếp thấy rằng, trẻ mồ côi sống
tại đây vẫn còn một số biểu hiện như mặc cảm, nhút nhát, giao tiếp kém, thiếu niềm
tin vào bản thân và người khác. Vấn đề dặt ra cho Trung tâm lúc này là cần phải
làm tốt công tác giáo dục kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ mồ côi nhằm giúp
cho các em có được cuộc sống tốt hơn sau khi ra khỏi Trung tâm hòa nhập với cộng
đồng. Với lý do như vậy mà tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “ Nâng cao kỹ năng
hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi sống trong Trung tâm bảo trợ xã hội
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay”.
Tôi mong rằng đề tài này sẽ mang đến cái nhìn chính xác hơn về khả năng
hòa nhập cộng đồng của trẻ mồ côi ở TTBTXH tỉnh VP. Đồng thời cũng qua bài
luận văn này này tôi mạnh dạn đưa ra góc nhìn mới về trẻ em mồ côi dưới con mắt
của nhân viên công tác xã hội, cũng như vận dụng những kỹ năng, phương pháp của
CTXH khi làm việc với đối tượng này.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chăm sóc, bảo vệ trẻ em nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng là mối quan tâm
lớn của Đảng, nhà nước và nhân dân ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội và
chiến lược phát triển con người. Mối quan tâm này được thể hiện Việt Nam là nước
đầu tiên ở Châu á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ
em vào ngày 20/02/1990, Nhà nước đã công bố luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em, đã thông qua và đưa Chương trình hành động vì trẻ em giai đoạn 1991 -
2000 và Chương trình hành động vì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn giai
đoạn 1999 – 2002; Quyết định số 65/ 2005/ QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt để án “Chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi, trẻ em tàn tật nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học và trẻ em bị nhiễm
HIV/ AIDS dựa vào cộng đồng giai đoạn 2005 - 2010”.
Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em là trách
nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội và công dân. Trẻ em không phân biệt gái,
trai, con trong giá thú con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi, con chung con riêng,
không phân biệt tôn giáo, thành phần địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc
người nuôi dưỡng đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền
theo quy định của pháp luật.
Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội thông qua ngày
12/08/1991 có hiệu lực từ ngày 16/08/1991. Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ
em gồm 26 điều quy định cụ thể quyền, bổn phận của trẻ em và trách nhiệm của
gia đình, nhà nước và xã hội phải đảm bảo thực hiện các quyền đó.
Đối với trẻ em mồ côi Luật pháp nước ta nhấn mạnh:
+ Tránh mọi hình thức phân biệt đối xử với trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi được
đăng ký khai sinh.
+ Giúp đỡ để các em có điều kiện sống trong tình thương của gia đình, được
chăm sóc và bảo vệ.
Về đề tài về trẻ em luôn là đề tài được rất nhiều người quan tâm, ở lĩnh vực
nào cũng có rất nhiều các công trình nghiên cứu, bài viết về trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng. Trong phạm vi các công trình nghiên
cứu, bài viết có liên quan đến đề tài, tác giả lựa chọn và phân tích một số công trình
nghiên cứu, bài viết tiêu biểu:
“Khảo sát trẻ em mồ côi trên địa bàn Hà Nội” và “Mô hình chăm sóc trẻ em
mồ côi ở Hà Nội” của nguyên Giám đốc làng trẻ SOS Hà Nội Nguyễn Thị Thanh là
hai công trình cấp thành phố đề cập đến trẻ em mồ côi và những mô hình tương ứng
chăm sóc đối tượng này một cách phù hợp. Công trình đã góp phần nêu cái nhìn
tổng quan tình hình trẻ em mồ côi và công tác chăm sóc trẻ em mồ côi trên địa bàn
Thành phố.
“Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng –
Những cơ sở xã hội và thách thức” là bài viết đồng tác giả Nguyễn Hồng Thái và
Phạm Đỗ Nhật Thắng đã tìm hiểu sự chuyển đổi cách tiếp cận trẻ em truyền thống
sang tiếp cận trên cơ sở quyền trẻ em hiện nay. Theo đó, cách tiếp cận truyền thống
là tiếp cận dưới góc độ trẻ em là đối tượng cần được hỗ trợ và bảo vệ từ trên xuống
mang nặng tính từ thiện, bao cấp, còn tiếp cận trên cơ sở quyền trẻ em nhìn nhận trẻ
em là chủ thể của quyền, có quyền được chăm sóc, bảo vệ. Trước bối cảnh số lượng
trẻ em đặc biệt cần được bảo vệ ngày càng gia tăng trong khi các hình thức chăm
sóc tập trung đã và đang vượt quá nhu cầu đầu vào thì hình thức chăm sóc, bảo vệ
trẻ em dựa vào cộng đồng ngày càng trở lên phù hợp hơn. Tác giả đã rất cố gắng
khi chỉ ra những bất cập, trở ngại trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt dựa vào cộng đồng song vẫn chưa chú trọng đến các giải pháp để khắc
phục những hạn chế, bất cập đó.
“Tìm hiểu ảnh hưởng của quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong gia đình
với nhau và với trẻ tới sức khỏe của trẻ em trong các gia đình Việt Nam hiện nay”
của tác giả Mai Thị Kim Thanh đăng trên Kỉ yếu Hội nghị Khoa học nữ Đại học
Quốc gia Hà Nội lần thứ 6 năm 2001. Tác giả đã nhận định mức độ tâm sự của
những người thân trong gia đình đối với trẻ em được thể hiện như sau: tâm sự giữa
bố, mẹ với con chiếm 46,2%, ông bà với cháu chiếm 24,8%, mẹ với con chiếm
24,7%, ít tâm sự chiếm 8,0%, anh chị em với nhau chiếm 5,8%, bố với con chiếm
4,6% và không tâm sự chiếm 4,5%. Tỷ lệ tâm sự giữa bố, mẹ, ông, bà với con cái
càng thấp thì càng ảnh hưởng đến sức khỏe con cái, đặc biệt là sức khỏe tinh thần.
Dưới góc độ tâm lý, tác giả Văn Thị Kim Cúc qua công trình “Tổn thương tâm
lý của trẻ 10-15 tuổi do ly hôn của bố mẹ” đã tập trung nghiên cứu các tổn thương
tâm lý của trẻ thơ trong các gia đình do bố mẹ ly hôn. Các tổn thương này, theo tác
giả, là “các vết bầm của tâm hồn” và dù chỉ là những vết bầm, vết xước nhưng cùng
với những hoàn cảnh, những ký ức trẻ có trước và sau ly hôn sẽ có những tác động
tiêu cực suốt theo chiều dài cuộc đời của đứa trẻ. Các tác động tiêu cực này thể hiện
trong nhận thức, hành vi, năng lực ứng xử, xu hướng hành động, mối quan hệ của
trẻ với người khác và với xã hội. Các tác động này không hiện nguyên hình dưới
dạng hậu quả “hai năm rõ mười” của ly hôn, mà ngụy trang dưới các mặc cảm, các
hình thức tự vệ gây ra nhiều hạn chế trong cuộc đời và sự nghiệp của trẻ.
“Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển
các dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em” của tác giả Đỗ Thị Ngọc
Phương nhận định tại Anh, Mĩ, Úc, Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản,
Trung Quốc, việc cung cấp dịch vụ xã hội chủ yếu là trách nhiệm của các bộ và cơ
quan nhà nước. Tại các quốc gia này, cán bộ xã hội vẫn thực hiện chức năng tham
vấn tâm lý xã hội, nhưng lồng ghép với đánh giá các nhu cầu phúc lợi xã hội và
quản lý việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội đa dạng khác nhau. Dịch vụ xã hội cũng
có thể bao gồm việc xem xét các nhu cầu phát triển của trẻ em, gia đình, cộng đồng
và lồng ghép với sự tham gia của cộng đồng.
Công trình “Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: cơ
sở lý luận và thực tiễn pháp lý về dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Dương
Hải Yến đã tìm hiểu và phân tích các quy định hiện hành về chăm sóc và bảo vệ trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt trên cơ sở nghiên cứu bản chất của quyền trẻ em trong
pháp luật dân sự, để từ đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt trong thực tiễn.
“Một số giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn” là bài viết
của tác giả Trần Thị Thanh Thanh, nguyên Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban Dân số, Gia
đình và Trẻ em, Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam. Tác giả đã nêu bật
các loại trẻ em thuộc đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt và tình hình trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt ở Việt Nam. Dưới góc nhìn về vai trò và hiệu quả hoạt động bảo vệ,
chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt của các hội, hiệp hội và cơ sở ngoài công
lập, TS Thanh đã đưa ra các khuyến nghị với cơ quan có thẩm quyền, tạo điều kiện
thuận lợi về cơ chế, chính sách hỗ trợ các tổ chức này hoạt động có hiệu quả hơn.
Ở góc tiếp cận khác về trẻ em, tác giả Nguyễn Xuân Lập, Phó cục trưởng Cục
Bảo trợ xã hội qua bài viết “Một số giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt” đã tổng quan tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và những chính
sách của Nhà nước vận dụng trong những năm qua. Để thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em, thúc đẩy thực hiện mục tiêu vì trẻ em, đảm
bảo các quyền cơ bản cho trẻ em theo Công ước quốc tế về Quyền trẻ em và luật
pháp Việt Nam, tác giả đã đưa ra bảy giải pháp về cần tập trung thực hiện trong thời
gian tới. Bảy giải pháp mà tác giả đưa ra đã bao trùm hầu hết những vấn đề tồn tại
cơ bản trong công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam.
“Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn với các lớp học linh hoạt” là bài viết của tác
giả Trần Thị Minh Đức giới thiệu mô hình lớp học linh hoạt phù hợp với các em có
hoàn cảnh đặc biệt không thể đến trường học văn hóa hay học nghề dẫn tới chậm
phát triển về trí tuệ và có nguy cơ cao lây nhiễm các tệ nạn xã hội. Các em trong
lớp học linh hoạt thuộc những gia đình nghèo hoặc có bố mẹ nghiện hút, buôn bán
ma tuý, đánh bạc, bị tù v.v hoặc các em là trẻ mồ côi được ở trong các Mái ấm,
Nhà tình thương của cộng động. Tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu
là quan sát, quan sát có sự tham gia, phỏng vấn trẻ, giáo viên, tư vấn viên và cha mẹ
trẻ đề giới thiệu một hình thức giáo dục không chính quy, không mang tính hàn lâm
sư phạm cho đối tượng học. Vấn đề tác giả đặt ra là triển vọng của các lớp học linh
hoạt ở Hà Nội sẽ ra sao nếu các nguồn tài trợ không còn để duy trì để trả lương cho
giáo viên, miễn phí sách vở, khám chữa bệnh, thậm chí cả bữa ăn cho các em. Đây
là một trong những khó khăn lớn khi triển khai mô hình lớp học linh hoạt trên diện
rộng ở Hà Nội.
Từ những công trình nghiên cứu, những đánh giá, bài viết kể trên có thể nhận
thấy, các tác giả đã tập trung tìm hiểu, phân tích, đánh giá một số nội dung như
quyền trẻ em, môi trường bảo vệ trẻ, sự hiểu biết về quyền trẻ em, mô hình chăm
sóc, bảo vệ trẻ em (chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng, nuôi con nuôi, lớp học linh
hoạt…). Tiếp cận dưới góc độ quyền trẻ em, pháp luật dân sự được nhiều tác giả đề
cập tới nhằm làm nổi bật vị trí, vai trò của trẻ em trong sự nghiệp CNH – HĐH đất
nước. Các phương pháp chủ yếu được vận dụng trong quá trình nghiên cứu là điều
tra, khảo sát, nghiên cứu có sự tham gia.
Quá tình tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài tác giả
nhận thấy trẻ em mồ côi là nhóm đối tượng đã được nhiều nhà khoa học, nhà
nghiên cứu, chuyên gia quan tâm tìm hiểu, phân tích, đánh giá dưới nhiều góc độ
khác nhau. Tuy vậy, tiếp cận từ góc nhìn công tác xã hội với việc nâng cao kỹ năng
hòa nhập cộng đồng cho trẻ mồ côi ở Trung tâm bảo trợ xã hội thì hầu như chưa có
công trình nghiên cứu chính thức nào đề cập tới. Đây là một trong những lý do
chính để tác giả thực hiện nghiên cứu về vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu và những trang bị kiến thức về công tác
xã hội, tác giả đã chọn cho mình đề tài“ Nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng
cho trẻ em mồ côi sống trong Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Vĩnh Phúc hiện
nay”.
3. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở tổng hợp các khái niệm, lý
thuyết liên quan đến trẻ em mồ côi. Kết quả nghiên cứu giúp làm sáng tỏ hệ thống
lý thuyết hệ thống sinh thái, lý thuyết vai trò, lý thuyết nhu cầu…Đây cũng chính là
nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành CTXH vốn còn rất mới mẻ ở
nước ta.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu mang lại ý nghĩa thiết thực, giúp cho trẻ mồ côi ở Trung
tâm nâng cao kỹ năng hòa nhập, giúp các em có tư tưởng ổn định, tâm lý phát triển
lành mạnh, có niềm tin vào bản thân mình trước khi bước ra môi trường xã hội ở
bên ngoài.
- Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức cũng như phát huy vai trò
của cán bộ, nhân viên trung tâm trong việc hỗ trợ trẻ mồ côi tham gia vào quá trình
học tập, rèn luyện nhằm nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng trong bối cảnh xã
hội có nhiều biến động như hiên nay.
- Kết quả nghiên cứu giúp cho các nhà quản lý, các nhà lãnh đạo trong việc
đề ra các chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung và trẻ em mồ
côi sống ở trong các trung tâm bảo trợ nói riêng. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu là
một hình thức quảng bá, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của ngành công tác
xã hội đối với tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
”Nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi ở Trung tâm bảo
trợ xã hội ”.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Những trẻ em mồ côi sống ở Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Vĩnh Phúc
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi khảo sát: Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi Thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm
2010 đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Theo Điều 11, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của
Việt Nam thì “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [25].Tuy nhiên, trong
khuôn khổ của luận văn thạc sỹ này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu việc nâng cao
kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em môi côi trong độ tuổi từ 8 đến 16 tuổi. Bởi
vì theo tác giả, ở tuổi này trẻ mồ côi thường hình thành một số đặc điểm tâm lý
mang tính tiêu cực như mặc cảm, nhút nhát, giao tiếp kém, thiếu niềm tin vào bản
thân và người khác, không nhanh nhạy, quyết đoán…., trẻ hay nói tục, đánh nhau,
thiếu ý thức làm chủ cuộc đời mình và dể bị bạn bè xấu lôi kéo. Vì vậy, đây là lứa
tuổi cần được trang bị kỹ năng sống giúp các em có tư tưởng ổn định, tâm lý phát
triển lành mạnh, có niềm tin vào bản thân mình.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Điều kiện và môi trường sống tại Trung tâm có đáp ứng được nhu cầu tham
gia hòa nhập cộng đồng của trẻ em mồ côi hay không?
- Khả năng hòa nhập trong cộng đồng của trẻ em đã và đang sống trong
Trung tâm ra sao? Đâu là nhân tố chính khiến trẻ gặp khó khăn khi hòa nhập cộng
đồng?
- Cần làm gì và làm như thế nào để nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng
cho trẻ em mồ côi đang sống tại Trung tâm?
7. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
7.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào tìm hiểu thực trạng và phân tích những yếu tố tác động đến
khả năng hoà nhập cộng đồng của trẻ em mồ côi sống tại Trung tâm, từ đó đưa ra
những biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em
mồ côi ở Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Vĩnh Phúc. Bên cạnh đó, đề tài giúp cho
nhân viên Trung tâm hiểu rõ hơn vai trò của mình trong việc nâng cao khả năng hòa
nhập cộng đồng cho trẻ em nói chung và trẻ em mồ côi nói riêng ở Trung tâm.
7.2. Nhiệm vụ
- Thao tác hóa một số khái niệm và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên
quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Tìm hiểu thực trạng khả năng hoà nhập cộng đồng của trẻ em mồ côi ở
Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phân tích những yếu tố tác động đến khả năng hoà nhập cộng đồng của các
em, đồng thời chỉ ra những vai trò cơ bản của nhân viên Trung tâm trong việc nâng
cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho các em.
- Xây dựng kế hoạch và đưa ra những biện pháp hỗ trợ nhằm nâng cao khả
năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi ở Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Vĩnh
Phúc.
8. Giả thiết nghiên cứu
- Điều kiện và môi trường sống tại Trung tâm đã có rất nhiều hoạt động thiết
thực nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ
côi.
- Trong quá trình sinh hoạt và học tập, trẻ mồ côi gặp rất nhiều khó khăn khi
giao tiếp với mọi người. Sự mặc cảm, tự ti về bản thân, gia đình là nhân tố chính
khiến trẻ gặp khó khăn khi hòa nhập cộng đồng.
- Xóa bỏ sự mặc cảm, tự ti về bản thân, gia đình, tạo điều kiện cho trẻ mồ côi
được mở rộng mối quan hệ với bên ngoài. Đồng thời nâng cao hoạt động giáo dục
lao động và hướng nghiệp là giải pháp tốt nhất nhằm nâng cao kỹ năng hòa nhập
cộng đồng cho trẻ mồ côi đang sống tại Trung tâm.
9. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
9.1. Phương pháp luận
Đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin làm phương pháp luận nghiên cứu. Theo chủ nghĩa duy vật lịch
sử tất cả mọi hiện tượng nảy sinh trong xã hội đều có quá trình phát sinh, phát triển,
sự phát triển của nó trong các thời kỳ khác nhau, dưới các hình thức kinh tế - xã hội
khác nhau sẽ có sự biến đổi khác nhau. Việc sử dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử là
đặt các hiện tượng xã hội, các quá trình xã hội trong hoàn cảnh lịch sử của đời sống
xã hội. Dựa trên quan điểm đó có thể thấy nghiên cứu về trẻ em mồ côi cần phải đặt
nó trong điều kịên cụ thể về tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá của TTBTXHTVP
cũng như trong điều kịên chung của cả nước. Trong mỗi điều kiện này thì vấn đề về
trẻ em mồ côi sẽ có những biến đổi khác với các hình thức khác nhau sao cho phù
hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, phù hợp vơi các nhu cầu cũng như những
khó khăn của trẻ em mồ côi tại TT.
Trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội sẽ có các yếu tố khác nhau tác
động đến khả năng hoà nhập của các em. Cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự kiện xã hội này trong mối liên hệ với
các sự kiện xã hội khác. Không được tách riêng việc thực hiện quyền trẻ em ra khỏi
sự vận hành của đời sống xã hội, mà phải đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và đặc biệt với các vấn đề xã hội khác như: Lạm
dụng trẻ em, xâm hại trẻ em, ngược đãi trẻ em…
Tiếp cận theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin tức là trong bối cảnh thực tế
tại TTBTXH phải xem xét việc thực hiện công tác hoà nhập cho trẻ em mồ côi
trong tình hình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, sự biến đổi của nền kinh tế -
văn hoá - xã hội đã có những tác động như thế nào trong quá trình hoà nhập của trẻ
em mồ côi.
9.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phương pháp được sử dụng trong đề tài nghiên cứu bao gồm:
9.2.1. Phương pháp thu thập thông tin
+ Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
- Đối tượng: Trẻ em có hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ rơi có độ
tuổi từ 8 đến 16 tuổi tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh VP.
- Dung lượng mẫu: Tất cả trẻ em hiện đang sống tại Trung tâm (29 em)
- Cơ cấu mẫu:
+ Giới tính
Giới tính Số lượng Tỉ lệ (%)
Nam
Nữ
+ Cấp học:
Cấp học Số lượng Tỉ lệ (%)
Tiểu học
THCS
THPT
+ Thời gian sống trong TT
Thời gian Số lượng Tỉ lệ (%)
Từ 1 đến 3 năm
Từ 4 đến 6 năm
Từ 7 đến 9 năm
Trên 9 năm
- Nội dung bảng hỏi dựa trên mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như: Thực
trạng hòa nhập; những khó khăn, trở ngại trong quá trình hòa nhập cộng đồng; cần
làm gì để các em ở đây được hòa nhập tốt hơn với môi trường xã hội ở ngoài Trung
tâm
+ Phương pháp phỏng vấn sâu
- Đối tượng: Cán bộ quản lý, nhân viên chăm sóc và trẻ em sống tại Trung
tâm bảo trợ.
- Dung lượng mẫu: 10 mẫu
- Cơ cấu mẫu: Cán bộ quản lý (02), nhân viên chăm sóc (03), đối tượng (05).
- Nội dung phỏng vấn sâu dựa trên mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như:
Thực trạng hòa nhập; những khó khăn, trở ngại trong quá trình hòa nhập cộng đồng;
cần làm gì để các em ở đây được hòa nhập tốt hơn với môi trường xã hội ở ngoài
Trung tâm
9.2.2. Phương pháp phân tích tài liệu
Nghiên cứu sử dụng tư liệu từ các công trình sau:
- Các báo cáo: Báo cáo tóm tắt phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam 2010,
báo cáo hoạt động của một số mô hình bảo vệ trẻ em không nơi nương tựa, trẻ em bị
bỏ rơi: trung tâm, làng trẻ, mái ấm tình thương, gia đình thay thế…, báo cáo hoạt động
chăm sóc, bảo vệ trẻ em ở Vĩnh Phúc, báo cáo tình hình hoạt động chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ em của Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh VP.
- Các kế hoạch: Kế hoạch số 912/KH-UBND ngày 29/3/2011 triển khai thực
hiện Nghị quyết 34/2010/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về Chương trình hành động
vì trẻ em Vĩnh Phúc giai đoạn 2011-2015, đồng thời xây dựng kế hoạch triển khai
thực hiện các mục tiêu chương trình hành động vì trẻ em năm 2011; Kế hoạch số
4806/KH-UBND ngày 15/11/2011 về thực hiện xây dựng xã, phường đạt tiêu chuẩn
phù hợp với trẻ em tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2011-2015. Tổ chức rà soát, đánh giá
kết quả thực hiện theo tiêu chuẩn mới ban hành kèm theo Quyết định số
37/2010/QĐ-TTg ngày 22/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chuẩn xã,
phường phù hợp với trẻ em.
- Văn bản pháp lý: Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em năm 1990, Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004, Luật Nuôi con nuôi năm
2010, Luật Phòng chống mua bán người, Nghị định 67/2007/NĐ-CP và Nghị định
13/2010/NĐ-CP bổ sung Nghị định 67/2007/NĐ/CP
- Chương trình: Chương trình mục tiêu quốc gia bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn 2005-2010, chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2001-
2010, chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 – 2015
- Các công trình nghiên cứu, sách, báo, đánh giá, bài viết về trẻ em, trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, mô hình
chăm sóc, bảo vệ trẻ em mồ côi của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học giả
trong cả nước.
9.2.3. Phương pháp quan sát
- Quan sát thể trạng và các biểu hiện trong giao tiếp, ứng xử giữa trẻ với trẻ,
giữa trẻ với cán bộ, nhân viên và với khách đến Trung tâm để biết được mức độ hòa
nhập của các em đến đâu.
- Quan sát cơ sở vật chất, các trang thiết bị, dụng cụ, học tập, làm việc để biết
được cách thức tổ chức, bố trí, sắp xếp của Trung tâm và các em
- Quan sát thái độ, hành vi của cán bộ, nhân viên đối với các em trong các hoạt
động hằng ngày.
9.2.4. Phương pháp công tác xã hội nhóm
Trong khuôn khổ đề tài, tác giả đã thực hành phương pháp công tác xã hội
nhóm để tổ chức các hoạt động ngoại khóa như chơi trò chơi, thảo luận nhóm
nhằm mục đích quan sát và đánh giá mức độ hòa nhập của các em, những trợ
ngại mà các em gặp phải khi tham gia.
10. Đóng góp của luận văn
Trình bày một cách có hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng hòa nhập
cộng đồng của trẻ em tại TT. Đồng thời đưa ra được một số biện pháp can thiệp
nhằm nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho trẻ em mồ côi tại TT.
Trên bình diện nghiên cứu và những kết quả đã đạt được, tôi hy vọng luận
văn sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham khảo cho ngành công tác
xã hội nói chung và đề tài về trẻ em mồ côi nói riêng.
PHẦN II – NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cở sở lý luận
1.1.1. Một số lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
a. Lý thuyết nhu cầu
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908 - 1970) được xem như một trong
những người tiên phong trong trường phái tâm lý học nhân văn. Năm 1943, ông đã
phát triển một trong các học thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó được thừa nhận rộng
rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là lý thuyết về thang bậc
nhu cầu của con người. Trong lý thuyết này. ông sắp xếp các nhu cầu của con
người theo một hệ thống trật tự cấp bậc, trong đó các nhu cầu ở mức độ cao hơn
muốn xuất hiện thì các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước.
Trong bài luận văn này tác giả đã vận dụng 5 nấc thang nhu cầu cơ bản của
con người theo giai đoạn đầu của lý thuyết Maslow.
+ Nhu cầu cơ bản: Nhu cầu này được gọi là nhu cầu của cơ thể hoặc nhu cầu
sinh lý (physiological need), bao gồm các nhu cầu cơ bản của con người như ăn,
uống, ngủ, không khí để thở, tình dục, các nhu cầu làm cho con người thoải mái,
đây là những nhu cầu cơ bản nhất và mạnh nhất của con người. Maslow cho rằng,
những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu cơ bản
này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc, giục giã một
người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được. Ông bà ta cũng sớm nhận
ra điều này khi cho rằng "có thực mới vực được đạo", cần phải được ăn uống, đáp
ứng nhu cầu cơ bản để có thể hoạt động, vươn tới nhu cầu cao hơn. Chúng ta có thể
kiểm chứng điều này khi cơ thể không khỏe mạnh, đói khát hoặc bệnh tật, lúc ấy
các nhu cầu khác chỉ còn là thứ yếu
+ Nhu cầu về an toàn, an ninh (safety, security needs): Khi con người đã được
đáp ứng các nhu cầu cơ bản, khi đó các nhu cầu về an toàn, an ninh sẽ bắt đầu được
kích hoạt. Nhu cầu an toàn và an ninh này thể hiển trong cả thể chất lẫn tinh thần.
Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của mình khỏi các nguy hiểm,
các trường hợp khẩn cấp, nguy khốn đến tính mạng như chiến tranh, thiên tai, gặp
thú dữ Trẻ con thường hay biểu lộ sự thiếu cảm giác an toàn khi bứt rứt, khóc đòi
cha mẹ, mong muốn được vỗ về. Nhu cầu này được thể hiện qua các mong muốn về
sự ổn định trong cuộc sống, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa để ở
+ Nhu cầu về xã hội (social needs): Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu
mong muốn thuộc về một bộ phận, một tổ chức nào đó, hoặc nhu cầu về tình cảm,
tình thương. Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc tìm kiếm, kết
bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào đó, đi làm việc, đi
chơi picnic, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm
+ Nhu cầu về được quý trọng: Nhu cầu này còn được gọi là nhu cầu tự trọng,
vì nó thể hiện hai cấp độ:
Một là: Nhu cầu được người khác quý mến, nể trọng thông qua các thành quả
của bản thân.
Hai là: Nhu cầu cảm nhận, quý trọng chính bản thân, danh tiếng của mình, có
lòng tự trọng, sự tin tưởng vào khả năng của bản thân.
Sự đáp ứng và đạt được nhu cầu này có thể khiến một đứa trẻ học tập tích cực
hơn, một người trưởng thành cảm thấy tự do hơn.
+ Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
Maslow mô tả nhu cầu này như sau: nhu cầu của một cá nhân mong muốn
được là chính mình, được làm những cái mà mình " sinh ra để làm". Nói một cách
đơn giản, đây chính là nhu cầu được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để
tự khẳng định mình, để làm việc, đạt các thành quả trong xã hội.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu tác giả tìm hiểu
nhu cầu của các em tại Trung tâm BTXH theo năm bậc thang về nhu cầu. Từ đó xem
xét các nhu cầu nào đã được đảm bảo, nhu cầu nào chưa được đảm bảo, đảm bảo ở
mức độ nào, có ưu tiên đáp ứng nhu cầu nào trước, nhu cầu nào sau hay theo trình tự
các bậc nhu cầu của nhà tâm lý học A.Maslow.
Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết nhu cầu, tác giả còn tìm hiểu xem Trung tâm đã
đáp ứng những nhu cầu nào để công tác nâng cao kỹ năng hòa nhập cộng đồng cho
trẻ mồ côi tại Trung tâm ngày một tốt hơn.
Tóm lại, lý thuyết hệ thống, lý thuyết cấu trúc – chức năng, lý thuyết vai trò, lý
thuyết nhu cầu là nền tảng lý luận cho phép nhóm nghiên cứu phân tích, lý giải mối
quan hệ giữa tương hỗ các thành phần, bộ phận của Trung tâm; chức năng của mỗi
thành phần, bộ phận ấy tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong sự hài hòa của cấu trúc
tổng thể; và mỗi thành phần, bộ phận đều có những vai trò cụ thể khi tham gia vào
các mối quan hệ trong cùng hệ thống hoặc với hệ thống khác xung quanh. Ngoài ra,
việc thể hiện nhu cầu và đáp ứng các nhu cầu của trẻ cũng như của cán bộ, nhân
viên trong Trung tâm cũng là một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm bởi
hơn ai hết các em đã và đang chịu thiệt thòi hơn về cuộc sống, tình yêu thương so
với những trẻ em bình thường khác.
b. Lý thuyết hệ thống và sinh thái
Theo Barker “ hệ thống là một sự kết hợp các yếu tố có tính trao đổi, tương tác
lẫn nhau và những ranh giới dễ nhận biết. Hệ thống có thể mang tính vật chất, cơ
học, sinh động và xã hội hoặc kết hợp những yếu tố này”.
Hệ thống là một tập hợp các phần tử khác nhau, giữa chúng có mối liên hệ và
tác động qua lại theo một quy luật nhất định tạo thành một chỉnh thể, có khả năng
thực hiện những chức năng cụ thể. Mỗi hệ thống bất kỳ nào đều có các thành tố:
hành vi, cấu trúc, văn hóa và diễn biến của hệ thống.
Lý thuyết sinh thái được hiểu là những liên hệ, tác động, ảnh hưởng giữa các
thành tố cùng tồn tại trong một môi trường sống. Những mối liên hệ này có tính hai
chiều và phụ thuộc vào nhau.
Để hiểu một yếu tố nào đó trong môi trường, chúng ta phải tìm hiểu cả hệ
thống môi trường xung quanh họ, vì vậy bất cứ việc can thiệp hoặc giúp đỡ một cá
nhân của một tổ chức nào đó đều liên quan và ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống đó.
Lý thuyết hệ thống sinh thái cho rằng, một hệ thống, vừa bao gồm các tiểu hệ
thống nhỏ trong nó đồng thời nó cũng là một tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống
rộng lớn hơn. Hệ thống càng phức tạp thì tổng hợp các tiểu hệ thống và các thành tố
càng đa dạng. Giữa các thành tố có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Sự thay
đổi, biến động của mỗi thành tố trong một hệ thống đều ảnh hưởng, tác động đến
các thành tố khác và ngược lại. Bởi những liên hệ đó mà tập hợp các tiểu hệ thống
và thành tố tạo thành một sự toàn vẹn, thống nhất.
Cả lý thuyết hệ thống và lý thuyết sinh thái đã hỗ trợ cho nghề Công tác xã
hội như cung cấp cho người thực hành một khuôn khổ để phân tích sự tương tác
luôn thay đổi, không ổn định của con người trong môi trường của họ. Hai công
trình lý thuyết này tạo thuận lợi cho quá tình liên kết những lý thuyết đã có từ trước
như lý thuyết tâm lý-động học và lý thuyết hành vi lại với nhau, giúp cho những
người thực hành hình dung quá trình của con người như một tổng thể. Sau khi sự
liên kết đã thiết lập những người thực hành nghề nghiệp lựa chọn ra những khái
niệm mà họ tán thành và sử dụng trong công việc theo một phong cách có tổ chức
và kỷ luật.
Với trẻ em, lý thuyết hệ thống sinh thái chỉ ra sự tác động mà các tổ chức, các
chính sách, các cộng đồng, nhóm, gia đình ảnh hưởng lên trẻ em. Lý thuyết hệ
thống sinh thái cho phép phân tích thấu đáo sự tương tác giữa trẻ em và hệ thống
sinh thái – môi trường xã hội. Mỗi cá nhân trẻ đều có một môi trường sống và một
hoàn cảnh sống, chịu tác động của các yếu tố trong môi trường sống và cũng tác
động, ảnh hưởng ngược lại môi trường xung quanh.
Trên cơ sở lý thuyết hệ thống sinh thái, tác giả nhận thấy TTBTXH tỉnh Vĩnh
Phúc là một hệ thống trong đó bao gồm các tiểu hệ thống: nhân sự (cán bộ lãnh đạo,
nhân viên chăm sóc, trẻ em), đối tác, chính sách, cơ sở vật chất, tài chính… Mặt
khác, Trung tâm cũng là một tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống rộng lớn hơn là
Sở lao động thương binh xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.
Dưới cách nhìn nhận TTBTXH là một hệ thống và cũng là một tiểu hệ thống,
khi tiến hành những can thiệp cụ thể tại Trung tâm tác giả không thực hiện những
hoạt động riêng lẻ, rời rạc đối với từng bộ phận mà thực hiện đồng bộ các bộ phận
trong Trung tâm. Chẳng hạn, việc tiến hành thu thập thông tin, chúng tôi đã thực
hiện các nhóm đối tượng khác nhau: nhóm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa,
nhóm cán bộ làm công tác chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em tại Trung tâm, nhóm gia
đình của các trẻ Do vậy, kết quả thu thập thông tin phản ánh thông tin khách quan
về thực trạng hòa nhập cộng đồng của các em tại tại Trung tâm.
Bên cạnh đó, tìm hiểu thực trạng hòa nhập cộng đồng của trẻ em trên cơ sở lý
thuyết hệ thống sinh thái, tác giả đã đi sâu phân tích mối quan hệ giữa trẻ với các cá
nhân, tổ chức, nhóm cộng đồng trong một hệ thống sinh thái, ở đó, các mối quan hệ
có sự tác động qua lại với nhau. Để hiểu một yếu tố nào đó trong môi trường, ta
phải nghiên cứu cả hệ thống môi trường xung quanh họ, vì vậy bất cứ việc can thiệp
hoặc giúp đỡ một cá nhân của một tổ chức nào đó đều liên quan và ảnh hưởng đến
toàn bộ hệ thống đó. Lý thuyết hệ thống sinh thái có ảnh hưởng rất nhiều đến các
phương thức thực hiện trong công tác xã hội như tư vấn, xử lý ca, tư vấn nhóm, tổ
chức và phát triển cộng đồng.
c. Lý thuyết vai trò
Vai trò là khái niệm nhấn mạnh những kỳ vọng xã hội gắn với những vị thế hay
vị trí nhất định trong xã hội và nó phân tích những kỳ vọng trong xã hội ấy. Mỗi một
vai trò lại gắn với một nhóm đối tác khác nhau và nhóm đối tác đó có một hệ kỳ vọng
riêng của họ.
Vai trò không chỉ đơn giản liên quan đến những hành vi được xã hội quan sát
mà trong thực tế còn bao gồm xã hội quan niệm những hành vi đó phải được thực
hiện ra sao. Những hành vi được thực hiện đúng với mong muốn của xã hội được gọi
là những chuẩn mực và giá trị xã hội đó.
Trong xã hội, mỗi người không phải chỉ đảm nhận một vai trò mà thường đảm
nhận nhiều vai trò khác nhau. Các vai trò không được tổ chức và vận dụng logic,
hài hòa sẽ dân đến xung đột vai trò, căng thẳng vai trò, biến đổi vai trò. Những đòi
hỏi quan trọng nhất đối với vai trò không chỉ là thực hiện các vai trò mà còn thể
hiện vai trò đó có liên quan đến sự mong đợi, kỳ vọng, chuẩn mực, quy ước của xã
hội hay không.
Có hai khuynh hướng lý thuyết chính liên quan đến vai trò. Khuynh hướng thứ
nhất cho rằng quá trình xã hội hóa chính là quá trình xã hội áp đặt các khuôn mẫu
vai trò cho các thành viên trong đó. Khuynh hướng thứ hai giải thích việc học
“đóng vai” ngoài đời giống như học theo một thứ kịch bản gợi ý, một thứ kịch bản
mở. Loại kịch bản này buộc các “diễn viên” phải linh hoạt với hoàn cảnh thực tế
hoặc tạo ra những chi tiết thích hợp để biết rằng mình cần phải làm gì, làm thế nào,
làm cho ai.
Vận dụng lý thuyết vai trò trong nghiên cứu, tác giả nhận thấy mỗi một bộ
phận tại Trung tâm bao gồm: cán bộ quản lý trung tâm, cán bộ làm công tác chăm
sóc, nuôi dưỡng, bản thân trẻ có những vai trò nhất định. Mỗi một vai trò thể hiện
qua những công việc, nhiệm vụ cụ thể.
Đối với cán bộ quản lý, vai trò thể hiện ở việc tổ chức, quản lý các hoạt động
của Trung tâm qua công việc như lập kế hoạch, phân công nhiệm vụ, tổ chức thực
hiện, giám sát, đánh giá các cán bộ làm công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em và các
em đang sinh sống tại Trung tâm. Ngoài ra, cán bộ quản lý còn thực hiện báo cáo
tình hình hoạt động của Trung tâm với Sở lao động thương binh và xã hội Tỉnh
Vĩnh Phúc.
Đối với cán bộ làm công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ, các vai trò của một nhân
viên như vai trò là người “mẹ”, người chị quán xuyến, hướng dẫn, đốc thúc các em
thực hiện chế độ, nội quy của Trung tâm; là người “thầy” dạy dỗ, giáo dục tư tưởng
đạo đức cho các em, giúp các em có tư tưởng ổn định, tâm lý phát triển lành mạnh,
có niềm tin vào bản thân mình; là người “bạn” luôn quan tâm, chia sẻ, động viên
các em. Bên cạnh đó còn có vai trò của một nhân viên Công tác xã hội khi thực hiện
các công việc hỗ trợ xác định nhân thân, kết nối tạo việc làm, giám hộ/biện hộ, cho
các em khi cần thiết. Đối với các em, các em lớn có vai trò hướng dẫn, chỉ bảo, giúp
đỡ học hành các em nhỏ hoặc những em mới đến. Các em nhỏ có vai trò bảo ban khi
các bạn vi phạm nội quy.
1.1.2. Một số khái niệm công cụ trong nghiên cứu.
a. Khái niệm Cộng đồng
Trong các tài liệu khoa học xã hội thuật ngữ cộng đồng được hiểu theo ba
tuyến nghĩa:
- Cộng đồng được nhìn nhận với tư cách là một chỉnh thể của các mối quan
hệ xã hội (quan hệ huyết thống, quan hệ thân tộc, quan hệ tình cảm cộng đồng, quan
hệ láng giềng, quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, con người với môi trường )
- Cộng đồng được coi là một kiểu loại riêng biệt của quan hệ xã hội với
những tổ chức nhất định trên cơ sở tình cảm, tinh thần và ý thức cộng đồng.
- Cộng đồng được hiểu như là một địa vực hay một vùng đất, trên đó có sự
định cư của một nhóm người, có sự chia sẻ giá trị văn hóa quần chúng.
Với tư cách là một khái niệm được nhiều ngành khoa học xã hội &nhân văn
nghiên cứu nên có rất nhiều khái niệm về cộng đồng.
Theo J. Fichter ông cho rằng có thể áp dụng rộng rãi cuộc sống tập thể cộng
đồng gồm 4 yếu tố:
+ Là những mối tương quan mật thiết đối với người khác, tương quan mặt đối
mặt, thẳng thắn cởi mở và chân tình.
+ Có sự liên hệ về mặt tình cảm, cảm xúc một khi mà nó thực hiện các nhiệm
vụ hay công tác tập thể.
+ Có sự hiến dâng hay một sự dấn thân để theo đuổi một giá trị xã hội.
+ Yếu tố đoàn kết với những người khác trong cộng đồng và cho đến ngày
nay đoàn kết vẫn là một mục đích đi lên của cộng đồng.
Từ các quan điểm trên cho thấy cộng đồng là một khái niệm rộng tuy nhiên
trong CTXH cộng đồng cần được hiểu là một hình thức tổ chức với những đặc
trưng cơ bản sau:
1- Tỷ lệ dân cư
2- Tính đồng nhất và tính phụ thuộc
3- ý thức chách nhiệm
4- Tính cộng đồng
5- Tính đặc trưng.
Đề tài này tập chung trong phạm vi một Làng trẻ. Do đó khái niệm cộng
đồng được giới hạn ở nghĩa cộng đồng trên một địa bàn dân cư, nó bao gồm các
quan hệ xã hội, các tính chất xã hội như quan hệ xóm giềng, tình cảm thôn xóm, cơ
sở đoàn thanh niên, hội phụ nữ
b. Khái niệm trẻ em
Hiện nay, khái niệm “Trẻ em” không đồng nhất tại nhiều quốc gia trên thế
giới. Ở Australia và Anh, trẻ em được quy định là dưới 18. Tại Singapore, trẻ em là
người dưới 14 tuổi. Trong khi đó ở Hồng Kông, trẻ em là nhóm người dưới 16 tuổi.
Sở dĩ có sự khác nhau này là do có sự khác biệt về điều kiện lịch sử, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Một lập luận khác để giải thích về sự khác biệt đó là khả năng của nền
kinh tế của mỗi quốc gia, bởi vì việc quy định về độ tuổi trẻ em bao giờ gắn liền với
trách nhiệm đảm bảo các quyền của trẻ em, ngoài ra còn đảm bảo quyền công dân,
quyền con người nói chung ở mỗi quốc gia.
Theo Điều 1, Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc công bố
năm 1989 xác định “Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là dưới 18 tuổi,
trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”
[19].
Tại Việt Nam, theo Điều 11, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì
“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [25].
Trong phạm vi của đề tài, tác giả vận dụng khái niệm Trẻ em theo Điều 11,
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Trên cơ sở đó, nhóm trẻ trong phạm vi nghiên
cứu là những em mồ côi từ 8 đến 16 tuổi tại TTBTXH tỉnh Vĩnh Phúc.
c. Khái niệm trẻ em mồ côi
Hiện nay khái niệm trẻ em mồ côi vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Đã có nhiều ngành, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học đưa ra những cách hiểu khác
nhau về khái niệm này. Nhưng phổ biến nhất là hai khái niệm:
- Trẻ em mồ côi thực tế: Là một đứa trẻ chia ly vĩnh viễn với một người thân
(cha hoặc mẹ) do cha hoặc mẹ bị chết, hoặc cả cha và mẹ đều bị chết gọi là trẻ mồ
côi thực tế.
- Trẻ em mồ côi xã hội: Là đứa trẻ bị đột ngột chia ly vĩnh viễn hoặc tạm
thời trong một thời gian dài với cha, mẹ dù họ vẫn còn sống.
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004 thì trẻ em
mồ côi được hiểu là những trẻ em có hoàn cảnh như sau [28]:
- Mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị mất nguồn nuôi dưỡng và không còn
người thân thích ruột thịt (ông, bà nội, ngoại; bố, mẹ nuôi hợp pháp; anh, chị) để
nương tựa.
- Mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại (mẹ hoặc cha) mất tích theo quy
định của Bộ luật Dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để nuôi dưỡng (như tàn
tật nặng, đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại cải tạo), không có nguồn
nuôi dưỡng và không có người thân thích để nương tựa.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả xác định, trẻ em mồ côi là những
em từ 0 đến 16 tuổi và có hoàn cảnh: Mồ côi cả cha lẫn mẹ, mồ côi cha hoặc mẹ;
và/hoặc không đủ nguồn lực nuôi dưỡng (cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi hợp pháp; ông,
bà nội, ngoại; anh, chị, em ruột không đủ năng lực dân sự, năng lực kinh tế để nuôi
dưỡng); và/hoặc không xác định được những người thân thích (gồm có cha, mẹ đẻ;
cha, mẹ nuôi hợp pháp; ông, bà nội, ngoại; anh, chị, em ruột) đang sống tại
TTBTXH tỉnh Vĩnh Phúc.
d. Khái niệm cơ sở bảo trợ xã hội
Theo Điều 1 và Điều 2, Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính
phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo
trợ xã hội thì cơ sở bảo trợ xã hội là cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng từ 10 đối tượng trở
lên. Cơ sở bảo trợ xã hội bao gồm cơ sở bảo trợ xã hội công lập và cơ sở bảo trợ xã
hội ngoài công lập [5].
Cơ sở bảo trợ xã hội công lập do cơ quan nhà nước quản lý, đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên của cơ sở bảo
trợ xã hội.
Cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi
thường xuyên của cơ sở bảo trợ xã hội.
Cơ sở bảo trợ xã hội là tên gọi chung cho tất cả các mô hình hoạt động bảo trợ
xã hội dưới các hình thức tên gọi khác nhau phụ thuộc vào đối tượng, chức năng và
nhiệm vụ của đơn vị đó. Có nhiều tên gọi khác nhau về cơ sở bảo trợ xã hội như
trung tâm bảo trợ xã hội, làng trẻ em SOS, mái ấm tình thương, nhà nuôi dưỡng
Trong nghiên cứu này, TTBTXH tỉnh Vĩnh Phúc được coi là một loại hình cơ sở
bảo trợ xã hội công lập có chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn như: trẻ mồ côi, người tàn tật, người thiểu năng trí tuệ,
người nhiễm HIV, người già không nơi nương tựa ….
1.1.3. Đặc điểm tâm lí trẻ em mồ côi
1.1.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em mồ côi
Những trẻ em khi sinh ra và lớn lên không có được sự quan tâm, chăm sóc
của cha mẹ có nghĩa là chúng sẽ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn trong cuộc
sống. Những khó khăn này gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển cả về thể chất và
tinh
thần của trẻ, trong đó khó khăn lớn nhất là thiếu thốn về đời sống vật chất và
thiếu thốn tinh yêu thương chăm sóc của cha mẹ.
Những khó khăn đời sống vật chất như thiếu thực phẩm, không có nhà ở không
đủ phương tiện sinh hoạt hằng ngày, không được hưởng điều kiện chăm sóc vệ sinh…
Khó khăn về đời sống vật chất không chỉ ḱìm hãm sự phát triển thể chất của các em
c̣òn làm cho các em mất đi nhiều quyền cơ bản như học tập, vui
chơi giải trí hay
tham gia hoạt động xã hội. Thay vào đó, các em phải tham gia lao
động phụ giúp
gia đình hay để tự nuôi sống bản thân. Chính những khó khăn này đã làm cho các
em có cảm giác thua thiệt, từ đó có thái độ tiêu cực, tự ti, mặc cảm dẫn đến mất đi
các động cơ kích thích học tập, rèn luyện và phấn đấu. Tuy nhiên có những
em nhận
thức được hoàn cảnh của mình nên khi có được sự hỗ trợ thích hợp bên
ngoài các
em rất trân trọng sự giúp đỡ đó và tỏ ra rất có ý chí vượt khó để phấn đấu lao động và
học tập.
Thiếu vắng đi tình thương yêu của cha mẹ, gia đình, đặc biệt là ở những năm
đầu trong quá tŕnh sống của trẻ có nghĩa là trẻ sẽ mất đi một môi trường xã hội hóa
cơ bản nhất, đầu tiên nhất của con người. Quá trình xã hội hóa là một quá trình liên
tục, nó bắt đầu ngay từ khi còn là hài nhi trong bụng mẹ. Những năm đầu, cha mẹ là
người xây những viên gạch nền tảng của quá trình này. Ví dụ như trẻ học cách thể
hiện tình cảm của mình đúng lúc, học cách giao tiếp trong xã hội, học các lễ nghi
phong tục, tập quán. Nếu không có cha mẹ, nghĩa là trẻ mất đi cơ hội học hỏi những