Phần I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn về kinh tế - xã hội bên
cạnh các mục tiêu phát triển toàn diện con người. Trong bối cảnh già hóa
dân số đã và đang diễn ra tài nhiều quốc gia ảnh hưởng nghiêm trọng đến
nguồn lao động, là thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước, nhịp cầu nối
xuyên suốt giữa các thế hệ thành viên trong gia đình, trẻ em ở Việt Nam đã
trở thành mối quan tâm hàng đầu trong các chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội. Phát triển đầy đủ cả về thể chất và tâm hồn cho trẻ không chỉ có ý nghĩa
trước mắt mà còn là sự chuẩn bị bền vững cho tương lai.
Các số liệu thống kê cho thấy, Việt Nam có khoảng 24.930.000 trẻ em,
trong đó, khoảng 172.100 trẻ có hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ
rơi (năm 2005 là 143.000 trẻ) chiếm 0.69% tổng số trẻ em[1]. Số đối tượng trẻ
em này dự kiến sẽ còn tăng cao hơn bởi hiện tượng sinh con ngoài ý muốn ở
các phụ nữ trẻ và do tác động của đại dịch HIV/AIDS, với khoảng 263.400 trẻ
sống chung với cha mẹ dương tính với HIV trong năm 2005 [1].
Thể hiện sự quan tâm đặc biệt dành cho trẻ em, Việt Nam là nước đầu
tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế
về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc (Việt Nam phê chuẩn ngày 20/02/1990).
Bốn nhóm quyền cơ bản của trẻ trong Công ước của Liên hợp quốc đã được
luật hóa trên cơ sở phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và pháp luật Việt Nam.
Cùng với việc hoàn thiện nhiều văn bản pháp lý liên quan như Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Nuôi con nuôi, Luật phòng chống mua
bán người… Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chương trình,
chính sách, kế hoạch hành động nhằm gắn mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em với các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Trong đó, hệ
thống cơ sở bảo trợ xã hội dành cho trẻ em được hình thành rộng khắp trên
cả nước là sự cụ thể hóa hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhất là những trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt trong đó có trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị
bỏ rơi.
Tính đến năm 2009, trên địa bàn cả nước có tất cả 262 [5, 362] cơ sở
bảo trợ xã hội công lập và ngoài công lập hoạt động dưới nhiều hình thức
tên gọi khác nhau như trung tâm (bảo trợ, cứu trợ, hỗ trợ, nuôi dưỡng, điều
trị, điều dưỡng, giáo dục, dạy nghề), làng trẻ em SOS, nhà trẻ, nhà tình
thương, nhà nuôi dưỡng, nhà an toàn, mái ấm tình thương, cô nhi viện, cơ sở
nuôi dưỡng, khu bảo trợ… Trong đó, mạng lưới cơ sở bảo trợ xã hội ở Hà
Nội ngày càng phát triển và đa dạng. Theo số liệu thống kê, Hà Nội có 20 cơ
sở bảo trợ xã hội, trong đó có đến 14 cơ sở bảo trợ xã hội dành cho trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt và 02 trung tâm có đối tượng bảo trợ trọng tâm là trẻ em
mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi [5, 6]. Tuy vậy, mạng lưới cơ sở
bảo trợ xã hội vẫn chưa thể đáp ứng kịp thời sự gia tăng nhanh chóng về số
lượng đối tượng trẻ em cần được bảo vệ.
Mặt khác, hoạt động bảo vệ trẻ em tại các cơ sở bảo trợ xã hội hiện nay
diễn ra như thế nào, liệu các hoạt động bảo vệ trẻ em đó có trở thành dịch vụ
xã hội chuyên nghiệp không hay còn mang nặng tính từ thiện, nhân đạo, vai
trò của cán bộ, nhân viên xã hội tại các cơ sở bảo trợ xã hội đó ra sao là
những vấn đề hết sức quan trọng cần được làm rõ nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả bảo vệ trẻ em tại các cơ sở bảo trợ xã hội.
Trước sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước thể hiện qua các văn
bản pháp lý, các chế độ, chính sách hỗ trợ, ưu đãi về giáo dục, y tế, tài chính
cho các cơ sở bảo trợ xã hội và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; trước thực trạng
quá tải đến mức báo động số lượng trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ
em bị bỏ rơi tại cơ sở bảo trợ xã hội; trước vấn đề đặt ra là hoạt động bảo vệ
trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại các trung tâm bảo trợ
xã hội hiện nay diễn ra như thế nào, vai trò của các nhân viên xã hội ở các
trung tâm này ra sao, đã gợi mở cho chúng tôi đề tài nghiên cứu Đánh giá
hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại
trung tâm bảo trợ xã hội trên địa bàn Hà Nội (nghiên cứu trường hợp tại
Trung tâm nuôi dưỡng Trẻ em mồ côi Hà Cầu).
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trẻ em là một trong những nhóm đối tượng nhận được sự quan tâm đặc
biệt của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các chuyên gia, học giả trong và
ngoài nước. Trong phạm vi các công trình có liên quan đến đề tài, nhóm
nghiên cứu lựa chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, các đánh giá,
bài viết tiêu biểu.
Thứ nhất, công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến trẻ em nói
chung
“Những điểm mở và thách thức cơ bản với phương thức làm chương
trình dựa trên cơ sở quyền con người cho phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam” là
công trình nghiên cứu của tác giả Christian Salazar Volkmann đề cập đến
vấn đề quyền của phụ nữ và trẻem. Tác giả đã làm rõ những yếu tố cơ hội và
thách thức cơ bản nhất liên quan đến chương trình đảm bảo quyền và sự
tham gia của phụ nữ và trẻ em Việt Namtrên cơ sở tiếp cận từ quyền con
người. Tác giả đồng thời cho thấy, thực hiện đầy đủ quyền đối với phụ nữ và
trẻ em mang lại động lực cần thiết để họ tham gia đầy đủ, có hiệu quả vào
các hoạt động xã hội.
“Tìm hiểu ảnh hưởng của quan hệ ứng xử giữa các thành viên trong
gia đình với nhau và với trẻ tới sức khỏe của trẻ em trong các gia đình Việt
Nam hiện nay” của tác giả Mai Thị Kim Thanh đăng trên Kỉ yếu Hội nghị
Khoa học nữ Đại học Quốc gia Hà Nội lần thứ 6 năm 2001. Tác giả đã nhận
định mức độ tâm sự của những người thân trong gia đình đối với trẻ em
được thể hiện như sau: tâm sự giữa bố, mẹ với con chiếm 46,2%, ông bà với
cháu chiếm 24,8%, mẹ với con chiếm 24,7%, ít tâm sự chiếm 8,0%, anh chị
em với nhau chiếm 5,8%, bố với con chiếm 4,6% và không tâm sự chiếm
4,5%. Tỷ lệ tâm sự giữa bố, mẹ, ông, bà với con cái càng thấp thì càng ảnh
hưởng đến sức khỏe con cái, đặc biệt là sức khỏe tinh thần.
Tác giả Trịnh Hòa Bình với nghiên cứu “Sự hiểu biết giữa gia đình và
trẻ em về vấn đề quyền trẻ em hiện nay” đăng trên Tạp chí Xã hội học số
4/2005. Nghiên cứu tập trung điều tra về kiến thức, thái độ, hành vi của cộng
đồng về quyền trẻ em, (2004- 2005) trên quy mô 10 tỉnh, thành phố trong cả
nước với sự tham gia của 3000 cha mẹ. Một trong những phát hiện quan
trọng trùng khớp với những vấn đề nói trên là sự thấu hiểu giữa cha mẹ và
con cái còn nhiều bất cập thể hiện qua những mâu thuẫn cơ bản trong gia
đình Việt Nam hiện nay qua việc phân tích những thông tin định tính và định
lượng từ cuộc khảo sát.
“Báo cáo Phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam” do UNICEF thực
hiện năm 2010. Báo cáo lấy cách tiếp cận dựa trên quyền con người, xem xét
tình hình trẻ em dựa trên quan điểm các nguyên tắc chính về quyền con
người như bình đẳng, không phân biệt đối xử và trách nhiệm giải trình. Kết
quả nghiên cứu đã làm rõ tình hình trẻ em nam và nữ, nông thôn và thành
thị, dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số, trẻ em giàu và trẻ em nghèo hiện nay ở
Việt Nam. Trong đó, nhóm trẻ em thiếu sự chăm sóc của bố mẹ ở Việt Nam
có diễn biến phức tạp. Các cơ sở chăm sóc cả công lập và dân lập có ở hầu
hết các tỉnh thành trong cả nước dưới nhiều hình thức như chăm sóc tại nhà,
chăm sóc tập trung và các hình thức chăm sóc hỗ trợ không chính thức khác.
Tình trạng số lượng cho con nuôi ra nước ngoài cao trong khi đây được quy
định là biện pháp cuối cùng chỉ sử dụng khi không còn cách nào khác. Ngoài
ra, báo cáo cũng chỉ ra rằng Việt Nam còn thiếu các quy định cụ thể cho việc
truy tố những đối tượng hoạt động môi giới cho nhận con nuôi trái pháp luật.
“Điều tra đánh giá các mục tiêu về trẻ em và phụ nữ” (MICS) được
Tổng cục Thống kê thực hiện năm 2010–2011. Theo cách tiếp cận khái niệm
trẻ em mồ côi của MICS thì trẻ mồ côi được định nghĩa là trẻ em dưới 18
tuổi có cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đã tử vong vì bất kỳ nguyên nhân gì. Kết
quả điều tra cho thấy, Việt Nam có 83,7% trẻ em trong độ tuổi từ 0–17 tuổi
đang sống với cả cha và mẹ, trong khi có 5,2% không sống với cả cha và
mẹ. Khoảng 5,7% trẻ em chỉ sống với mẹ dù cha đẻ vẫn còn sống và 2,4%
trẻ em chỉ sống với mẹ khi cha đẻ đã tử vong. Khoảng 1,8% trẻ em chỉ sống
với cha dù mẹ đẻ vẫn còn sống và 0,7% chỉ sống với cha khi mẹ đẻ đã tử
vong. Có 5,3% không sống với cha đẻ. Tỷ lệ này đạt cao nhất ở vùng Đồng
bằng sông Cửu Long (8,8%), so với vùng Tây Nguyên (chỉ 2,3%). Khoảng
3,9% trẻ em có cha đã tử vong hoặc mẹ đã tử vong, hoặc cả cha và mẹ đều
đã tử vong. Tỷ lệ này là 6,3% trong nhóm các hộ gia đình nghèo nhất và
giảm xuống còn 3,5% trong nhóm hộ gia đình giàu nhất [31, 187]. Kết quả
điều tra trên là cơ sở tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý, hoạch định
chính sách, nhà nghiên cứu song cần lưu ý rằng các số liệu về thực trạng trẻ
em mồ côi của MICS ở trên là theo cách tiếp cận trẻ em mồ côi của MICS.
Dưới góc độ tâm lý, tác giả Văn Thị Kim Cúc qua công trình “Tổn
thương tâm lý của trẻ 10-15 tuổi do ly hôn của bố mẹ” đã tập trung nghiên
cứu các tổn thương tâm lý của trẻ thơ trong các gia đình do bố mẹ ly
hôn.Các tổn thương này, theo tác giả, là “các vết bầm của tâm hồn” và dù
chỉ là những vết bầm, vết xước nhưng cùng với những hoàn cảnh, những ký
ức trẻ có trước và sau ly hôn sẽ có những tác động tiêu cực suốt theo chiều
dài cuộc đời của đứa trẻ. Các tác động tiêu cực này thể hiện trong nhận thức,
hành vi, năng lực ứng xử, xu hướng hành động, mối quan hệ của trẻ với
người khác và với xã hội. Các tác động này không hiện nguyên hình dưới
dạng hậu quả “hai năm rõ mười” của ly hôn, mà ngụy trang dưới các mặc
cảm, các hình thức tự vệ gây ra nhiều hạn chế trong cuộc đời và sự nghiệp
của trẻ.
Nghiên cứu “Một số vấn đề cơ bản về trẻ em Việt Nam” của tác giả
Đặng Bích Thủy đã chỉ ra những vấn đề xã hội mang tính gay gắt mà trẻ em
đang phải đối mặt như bất bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội chăm sóc,
bảo vệ, lao động sớm, bị xâm hại, bị bỏ rơi Qua nghiên cứu, tác giả lý giải,
phân tích bối cảnh, nguyên nhân của các vấn đề trẻ phải đối mặt từ góc độ
chính sách, nhận thức, hành vi, hành động xã hội đồng thời dự báo xu
hướng, đề xuất giải pháp cho giai đoạn 2010-2020 nhằm góp phần hạn chế
và giải quyết các vấn đề của trẻ em.
Bài viết “Kinh nghiệm của một số nước về hệ thống bảo vệ trẻ em” của
tác giả Nguyễn Hải Hữu cho thấy thực tế ở Australia, Thuỵ Điển, Hồng
Kông, việc hình thành hệ thống bảo vệ trẻ em liên quan rất nhiều đến các
quy định của pháp luật và chính sách hiện hành. Một trong những điểm mới
trong bài viết là khái niệm “tư pháp thân thiện với trẻ em”.Khi trẻ em vi
phạm pháp luật thì áp dụng các hình thức điều tra, xét hỏi, xử lí tại toà án
như thế nào để không gây tổn hại cho trẻ em đặc biệt là trong trường hợp trẻ
em là nạn nhân của các hành vi bạo lực, xâm hại.
“Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc phát
triển các dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em” của tác giả
Đỗ Thị Ngọc Phương nhận định tại Anh, Mĩ, Úc, Philippines, Thái Lan,
Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, việc cung cấp dịch vụ xã hội chủ yếu là
trách nhiệm của các bộ và cơ quan nhà nước. Tại các quốc gia này, cán bộ
xã hội vẫn thực hiện chức năng tham vấn tâm lý xã hội, nhưng lồng ghép với
đánh giá các nhu cầu phúc lợi xã hội và quản lý việc tiếp cận với các dịch vụ
xã hội đa dạng khác nhau. Dịch vụ xã hội cũng có thể bao gồm việc xem xét
các nhu cầu phát triển của trẻ em, gia đình, cộng đồng và lồng ghép với sự
tham gia của cộng đồng.
Thứ hai, một số công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi
“Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em: Đánh giá pháp luật và chính
sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam” là
đánh giá của Vụ Pháp chế, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Đánh giá
tập trung đến pháp luật đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, so sách với các
chuẩn mực quốc tế, tìm ra những thiếu hụt và hạn chế của pháp luật Việt
Nam, trên cơ sở đó kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam, đảm bảo từng bước hài hoà với pháp luật và các chuẩn mực quốc
tế. Về bảo vệ trẻ em mồ côi, đánh giá đã chỉ ra Việt Nam là nước đạt được
nhiều tiến bộ đáng kể trong việc hoàn thiện khung pháp lý đối với vấn đề
nhận con nuôi trong nước và nước ngoài. Mặt khác, đánh giá cũng chỉ ra
nhiều vấn đề cần phải khắc phục như: chưa có khung pháp lý về công tác
đánh giá một cách có hệ thống và chuyên nghiệp đối với trẻ em mồ côi và
trẻ em bị bỏ rơi để quyết định mô hình chăm sóc nào sẽ phù hợp với lợi ích
tốt nhất cho các em, đảm bảo rằng trẻ em được nhận nuôi trong một gia đình
thay thế phù hợp nhất với lợi ích của các em. Đây là một trong những phát
hiện quan trọng và hết sức có ý nghĩa đối với bảo vệ trẻ em mồ côi.
Công trình “Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn: cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý về dân sự ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Dương Hải Yến đã tìm hiểu và phân tích các quy định hiện hành về
chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên cơ sở nghiên cứu bản
chất của quyền trẻ em trong pháp luật dân sự, để từ đó đưa ra một số phương
hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động
chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong thực tiễn.
“Một số giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn” là
bài viết của tác giả Trần Thị Thanh Thanh, nguyên Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Chủ tịch Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt
Nam. Tác giả đã nêu bật các loại trẻ em thuộc đối tượng có hoàn cảnh đặc
biệt và tình hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam. Dưới góc nhìn về
vai trò và hiệu quả hoạt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
của các hội, hiệp hội và cơ sở ngoài công lập, TS Thanh đã đưa ra các
khuyến nghị với cơ quan có thẩm quyền, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế,
chính sách hỗ trợ các tổ chức này hoạt động có hiệu quả hơn.
Ở góc tiếp cận khác về giải pháp bảo vệ và chăm sóc trẻ em, tác giả
Nguyễn Xuân Lập, Phó cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội qua bài viết “Một số
giải pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt” đã tổng quan tình
hình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và những chính sách của Nhà nước vận
dụng trong những năm qua. Để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo
vệ, chăm sóc trẻ em, thúc đẩy thực hiện mục tiêu vì trẻ em, đảm bảo các
quyền cơ bản cho trẻ em theo Công ước quốc tế về Quyền trẻ em và luật
pháp Việt Nam, tác giả đã đưa ra bảy giải pháp về cần tập trung thực hiện
trong thời gian tới. Bảy giải pháp mà tác giả đưa ra đã bao trùm hầu hết
những vấn đề tồn tại cơ bản trong công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam.
“Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng
– Những cơ sở xã hội và thách thức” là bài viết đồng tác giả Nguyễn Hồng
Thái và Phạm Đỗ Nhật Thắng đã tìm hiểu sự chuyển đổi cách tiếp cận trẻ
em truyền thống sang tiếp cận trên cơ sở quyền trẻ em hiện nay. Theo đó,
cách tiếp cận truyền thống là tiếp cận dưới góc độ trẻ em là đối tượng cần
được hỗ trợ và bảo vệ từ trên xuống mang nặng tính từ thiện, bao cấp, còn
tiếp cận trên cơ sở quyền trẻ em nhìn nhận trẻ em là chủ thể của quyền, có
quyền được chăm sóc, bảo vệ. Trước bối cảnh số lượng trẻ em đặc biệt cần
được bảo vệ ngày càng gia tăng trong khi các hình thức chăm sóc tập trung
đã và đang vượt quá nhu cầu đầu vào thì hình thức chăm sóc, bảo vệ trẻ em
dựa vào cộng đồng ngày càng trở lên phù hợp hơn. Tác giả đã rất cố gắng
khi chỉ ra những bất cập, trở ngại trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng song vẫn chưa chú trọng đến các giải
pháp để khắc phục những hạn chế, bất cập đó.
“Nhận con nuôi từ Việt Nam” là công trình đánh giá độc lập do Hervé
Boéchat, Nigel Cantwell và Mia Dambach thuộc Tổ chức Dịch vụ Xã hội
Quốc tế (ISS) tiến hành tại Việt Nam năm 2009. Báo cáo dành trọng tâm ưu
tiên cho vấn đề con nuôi quốc tế, trên cơ sở mục tiêu chính là hướng tới
tham gia Công ước Lahay. Đồng thời, báo cáo đã có những quan tâm đáng
kể đến vấn đề nhận con nuôi ở Việt Nam, tình hình phúc lợi trẻ em và bảo
vệ trẻ em trên bình diện rộng, đặc biệt là từ góc độ những tác động trực tiếp
và gián tiếp đối với nuôi con nuôi quốc tế. Báo cáo đã cung cấp cái nhìn
tổng quan việc nhận con nuôi trên thế giới và những phát hiện có tính đặc
trưng trong việc nhận con nuôi từ Việt Nam.
Cùng cách tiếp cận nhận – nuôi con nuôi,“Đánh giá tình hình chăm sóc
nhận nuôi và việc thực hiện quyết định 38/2004/QĐ-TTg”, một nghiên cứu
được phối hợp thực hiện giữa Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội với
UNICEF năm 2011. Nghiên cứu đã phân tích, đánh giá thực trạng trẻ em mồ
côi, trẻ em cần được chăm sóc thay thế cũng như thực trạng việc thực hiện
quyết định 38/2004/QĐ-TTg về chính sách trợ giúp kinh phí cho gia đình, cá
nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi. Kết quả nghiên cứu
cho thấy số lượng trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi có xu hướng tăng lên do những
biến đổi kinh tế - xã hội. Hầu hết các cán bộ ở cả trung ương và địa phương,
cũng như cán bộ nhân viên các cơ sở bảo trợ xã hội và những gia đình, cá
nhân nhận nuôi dưỡng trẻ ít biết đến Quyết định 38 của Thủ tướng Chính
phủ, đặc biệt là ở cấp huyện và cấp xã có những trẻ em và gia đình thuộc đối
tượng thụ hưởng của Quyết định 38. Nghiên cứu nhận thấy mô hình chăm
sóc nhận nuôi là mô hình phù hợp để thí điểm ở các khu vực thành phố/đô
thị, nơi được biết có số lượng trẻ em bị bỏ rơi cao hơn và có nhiều gia đình
có điều kiện tài chính cũng như kỹ năng chăm sóc trẻ.
Ở khía cạnh khác về nuôi con nuôi, “Nuôi con nuôi thực tế – Thực
trạng và giải pháp” là bài viết của tác giả Nguyễn Phương Lan bàn đến hình
thức nuôi con nuôi mà ở đó thoả mãn đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con
nuôi, không trái với mục đích của việc nuôi con nuôi và đạo đức xã hội.
Việc nhận nuôi con nuôi có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc văn bản
thoả thuận giữa hai bên gia đình, nhưng không đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Về mặt xã hội, giải quyết tốt vấn đề nuôi con nuôi thực tế
còn góp phần củng cố những quan hệ xã hội tốt đẹp, thể hiện bản chất của
nhà nước trong việc quan tâm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người
dân, qua đó củng cố lòng tin của nhân dân vào pháp luật của nhà nước.
Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn, trẻ em mồ côi trên địa bàn Hà Nội
“Khảo sát trẻ em mồ côi trên địa bàn Hà Nội” và “Mô hình chăm sóc
trẻ em mồ côi ở Hà Nội” của nguyên Giám đốc làng trẻ SOS Hà Nội Nguyễn
Thị Thanh là hai công trình cấp thành phố đề cập đến trẻ em mồ côi và
những mô hình tương ứng chăm sóc đối tượng này một cách phù hợp. Công
trình đã góp phần nêu cái nhìn tổng quan tình hình trẻ em mồ côi và công tác
chăm sóc trẻ em mồ côi trên địa bàn Thành phố.
Nghiên cứu “ Tìm hiểu việc thực hiện nhóm quyền được bảo vệ trong
công ước quốc tế về quyền trẻ em của các gia đình người dân thành phố Hà
Nội hiện nay ” của t ác giả Lê Thị Vân đã phân tích, đánh giá việc thực hiện
nhóm quyền được bảo vệ trong Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, các
nhân tố cơ bản tác động đến việc thực hiện nhóm quyền được bảo về của trẻ
em tại gia đình và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện nhóm quyền
được bảo vệ ở trẻ em của người dân thành phố Hà Nội. Tác giả đã đưa ra
những nhóm giải pháp, khuyến nghị giúp người dân nâng cao nhận thức,
thay đổi hành vi trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục con cái trong gia
đình.
“Người dân huyện Phú Xuyên – TP.Hà Nội với việc nhận thức và thực
hiện nhóm quyền tham gia của trẻ em được quy định trong Công ước Quốc
tế về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc hiện nay” là nghiên cứu của tác giả
Đinh Thị Thoa đã làm sáng tỏ về mặt lý luận như quyền tham gia của trẻ em,
nhận thức của trẻ, làm phong phú thêm cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề của
người dân về quyền tham gia của trẻ em. Nghiên cứu về thực trạng thực hiện
quyền tham gia của trẻ em trong các gia đình người dân huyện Phú Xuyên,
những yếu tố tác động đến việc thực hiện quyền tham gia, qua đó giúp các
nhà quản lý, các tổ chức về liên quan đến trẻ em, các tổ chức xã hội, những
người làm công tác trẻ em có cách nhìn nhận chính xác hơn về quyền tham
gia của trẻ em. Tác giả đã đề ra những kế hoạch vận động nâng cao nhận
thức về quyền tham gia của trẻ em cho người dân huyện Phú Xuyên.
“Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn với các lớp học linh hoạt” là bài viết
của tác giả Trần Thị Minh Đức giới thiệu mô hình lớp học linh hoạt phù hợp
với các em có hoàn cảnh đặc biệt không thể đến trường học văn hóa hay học
nghề dẫn tới chậm phát triển về trí tuệ và có nguy cơ cao lây nhiễm các tệ
nạn xã hội. Các em trong lớp học linh hoạt thuộc những gia đình nghèo hoặc
có bố mẹ nghiện hút, buôn bán ma tuý, đánh bạc, bị tù v.v hoặc các em là
trẻ mồ côi được ở trong các Mái ấm, Nhà tình thương của cộng động. Tác
giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu là quan sát, quan sát có sự
tham gia, phỏng vấn trẻ, giáo viên, tư vấn viên và cha mẹ trẻ đề giới thiệu
một hình thức giáo dục không chính quy, không mang tính hàm lâm sư
phạm cho đối tượng học. Vấn đề tác giả đặt ra là triển vọng của các lớp học
linh hoạt ở Hà Nội sẽ ra sao nếu các nguồn tài trợ không còn để duy trì để
trả lương cho giáo viên, miễn phí sách vở, khám chữa bệnh, thậm chí cả bữa
ăn cho các em. Đây là một trong những khó khăn lớn khi triển khai mô hình
lớp học linh hoạt trên diện rộng ở Hà Nội.
“Giảm nghèo bền vững và trợ giúp các đối tượng yếu thế ở Hà Nội:
Những vấn đề đặt ra và giải pháp hoàn thiện”, bài viết của tác giả Phan Huy
Đường xem xét dưới góc độ kinh tế học đối với các đối tượng yếu thế trên địa
bàn Thành phố. Theo tác giả, các định mức về chi tiêu trong công tác nuôi
dưỡng từ nguồn Ngân sách Nhà nước cấp cho các đối tượng trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt đang sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội hiện nay còn khá thấp
và chưa tính đến yếu tố trượt giá. Thực trạng đó đã gây rất nhiều khó
khăn cho việc chi tiêu của cơ sở và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của
các đối tượng được bảo trợ. Qua đây, tác giả nêu một số khuyến nghị như
phát triển các mô hình chăm sóc thay thế đối tượng bảo trợ xã hội dựa
vào cộng đồng, phát huy vài trò các tổ chức tôn giáo, các tổ chức nhân
đạo từ thiện, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ trong việc tiến
hành những hoạt động trợ giúp các đối tượng xã hội, cần quan tâm đến thu
nhập và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ xã hội, nhất là ở cơ sở (cấp xã),
cần có chế độ đãi ngộ phù hợp và thường xuyên được đào tạo, tập huấn nâng
cao nghiệp vụ thì mới có thể đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả các
chính sách.
Từ những công trình nghiên cứu, những đánh giá, bài viết kể trên có thể
nhận thấy, các tác giả đã tập trung tìm hiểu, phân tích, đánh giá một số nội
dung như quyền trẻ em, môi trường bảo vệ trẻ, sự hiểu biết về quyền trẻ em,
mô hình chăm sóc, bảo vệ trẻ em (chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng, nuôi
con nuôi, lớp học linh hoạt…). Tiếp cận dưới góc độ quyền trẻ em, pháp luật
dân sự được nhiều tác giả đề cập tới nhằm làm nổi bật vị trí của trẻ em trên
bản đồ xã hội. Các phương pháp chủ yếu được vận dụng trong quá trình
nghiên cứu là điều tra, khảo sát, nghiên cứu có sự tham gia.
Quá tình tổng quan một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài chúng tôi nhận thấy trẻ em mồ côi là nhóm đối tượng đã được nhiều nhà
khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia quan tâm tìm hiểu, phân tích, đánh giá
dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy vậy, tiếp cận từ góc nhìn công tác xã hội
đối với nhóm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi đang sinh
sống, học tập và lao động tại các cơ sở bảo trợ xã hội thì hầu như chưa có
công trình nghiên cứu chính thức nào đề cập tới. Đây là một trong những lý
do chính để chúng tôi thực hiện nghiên cứu về vấn đề này.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ lý luận bảo vệ trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại các trung tâm bảo trợ xã
hội, qua đó bổ sung và làm phong phú thêm cách nhìn nhận, đánh giá bảo vệ
trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi nói riêng và trẻ em nói
chung.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cung cấp lăng kính tương đối đầy đủ về thực trạng
hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại
trung tâm bảo trợ xã hội. Trên cơ sở đó các nhà quản lý trung tâm bảo trợ có
những giải pháp tổ chức, điều phối nhân sự và các hoạt động khác phù hợp
hơn với tình hình thực tế, nhân viên xã hội tại các cơ sở bảo trợ xã hội có
những cách thức chăm sóc, bảo vệ trẻ em họp lý, các nhà hoạch định chính
sách có thêm góc nhìn về thực trạng bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương
tựa, trẻ em bị bỏ rơi để đưa ra những điều chỉnh về chế độ chính sách, bồi
dưỡng nguồn nhân lực bảo vệ trẻ em phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã
hội.
Kết quả nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các học
giả, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia quan tâm đến bảo vệ trẻ em
mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em
bị bỏ rơi tại trung tâm bảo trợ xã hội
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em
- Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi từ 8-16 tuổi
- Gia đình của các em có hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ rơi
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi
bao gồm nhiều nội dung khác nhau như bảo vệ quyền trẻ em, bảo đảm các
chính sách ưu đãi, hỗ trợ, bảo vệ trước nguy cơ bị bóc lột, bạo lực Trong
điều kiện về thời gian cho phép, chúng tôi tìm hiểu và đánh giá hoạt động
bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại trung tâm bảo
trợ xã hội trên ba nội dung cơ bản: Bảo đảm điều kiện sống cơ bản, bảo đảm
môi trường sống an toàn và công tác giáo dục kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ.
5.2. Phạm vi không gian
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Nuôi dưỡng trẻ em mồ côi
Hà Cầu, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội.
5.3. Phạm vi thời gian
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10/2012 đến hết tháng 03/2013.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Nền tảng triết lý bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung, trẻ em
mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại trung tâm bảo trợ xã hội là
gì?
- Các điều kiện sống cơ bản và môi trường sống an toàn dành cho trẻ
em có hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ rơi tại trung tâm bảo trợ
xã hội có được đảm bảo hay không? Những yếu tố căn bản nào ảnh hưởng
đến hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi
tại trung tâm bảo trợ xã hội?
- Hiệu quả hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em
bị bỏ rơi tạitrung tâm bảo trợ xã hội ra sao và vai trò của nhân viên xã hội
như thế nào trong các hoạt động đó?
- Cần phải làm gì để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại trung tâm bảo trợ xã hội?
7. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
7.1. Mục đích
Tìm hiểu và đánh giá thực trạng hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không
nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại trung tâm bảo trợ xã hội, trên cơ sở đó
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm bảo trợ xã hội trẻ
em hiện nay.
7.2. Nhiệm vụ
- Thao tác hóa một số khái niệm liên quan đến trẻ em, trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi làm công
cụ thực hiện đề tài.
- Tìm hiểu một số lý thuyết của công tác xã hội và ngành khoa học khác
làm nền tảng lý luận để phân tích, luận giải và đánh giá các vấn đề, hiện
tượng phát sinh, phát triển liên quan đến hoạt động bảo vệ trẻ em tại trung
tâm bảo trợ xã hội.
- Tìm hiểu các tiêu chí, chỉ số, chỉ báo về bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt nói chung, trẻ em có hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ
rơi nói riêng nhằm đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em tại trung tâm bảo trợ xã
hội
- Thu thập thông tin về địa bàn nghiên cứu, các điều kiện kinh tế, xã
hội, văn hóa ảnh hưởng đến hoạt động bảo vệ trẻ em tại trung tâm bảo trợ xã
hội
- Trưng cầu ý kiến và phỏng vấn sâu, kết hợp với phương pháp thảo
luận nhóm tập trung nhằm làm sáng tỏ nền tảng triết lý bảo vệ trẻ em, thực
trạng bảo đảm điều kiện sống cơ bản, môi trường sống an toàn và giáo dục
các kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ em tại trung tâm bảo trợ xã hội.
- Đánh giá hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em
bị bỏ rơi tại trung tâm bảo trợ xã hội
- Gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại trung tâm bảo trợ xã
hội.
8. Giả thuyết nghiên cứu
- Nền tảng triết lý bảo vệ trẻ em trong trung tâm bảo trợ xã hội coi trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi là trung tâm của các hoạt
động bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.
- Trẻ em được cung cấp đầy đủ thức ăn, nơi ở, dịch vụ chăm sóc sức
khỏe và tham gia sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể thao trong một môi
trường sống an toàn, thân thiện, lành mạnh. Nhân lực và tài chính là hai
trong số những yếu tố căn bản ảnh hưởng đến hoạt động bảo vệ trẻ em tại
trung tâm bảo trợ xã hội.
- Trẻ em tại trung tâm bảo trợ xã hội đã được đảm bảo các quyền và chế
độ ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước trong đó nhân viên xã hội có vai trò rất quan
trọng.
- Tái hòa nhập cộng đồng bền vững là giải pháp tốt nhất nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi tại trung tâm bảo trợ xã hội.
9. Phương pháp nghiên cứu
• Cách tiếp cận
Vận dụng cách tiếp cận hệ thống, chúng tôi nhìn nhận Trung tâm Nuôi
dưỡng trẻ em mồ côi Hà Cầu là một hệ thống bao hàm các thành tố như cán
bộ lãnh đạo, nhân viên chăm sóc, nhân viên cấp dưỡng, cơ sở vật chất, nội
quy Các thành tố đó có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Bên cạnh
đó, hoạt động bảo vệ trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi tại
Trung tâm nằm trong hệ thống bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của
Thành phố Hà Nội. Chế độ, chính sách bảo vệ trẻ em của Trung tâm không
tách rời chế độ, chính sách chung của Thành phố.
Tiếp cận từ góc độ văn hóa, chúng tôi nhìn nhận những đặc trưng văn
hóa, giá trị chuẩn mực của người Việt Nam, của truyền thống gia đình người
Việt đã ảnh hưởng đến các em như thế nào. Mặt khác, sự thay đổi về môi
trường sống với nề nếp cuộc sống mới đã ảnh hưởng ra sao trong sinh hoạt,
thói quen, ứng xử của các em tại trung tâm bảo trợ xã hội, vai trò của những
giá trị, chuẩn mực đó trong việc hình thành tính cách, đạo đức, quan điểm
sống và khả năng hòa nhập cộng đồng sau khi các em rời trung tâm bảo trợ
xã hội. Liệu có phải những đặc trưng văn hóa tại trung tâm bảo trợ xã hội
càng gần gũi với văn hóa cộng đồng bao nhiêu thì các em càng có khả năng
hòa nhập cộng đồng tốt bấy nhiêu hay không.
• Phương pháp thu thập thông tin
9.3.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nghiên cứu sử dụng tư liệu từ các công trình sau:
- Các báo cáo: Báo cáo tóm tắt phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam
2010, báo cáo hoạt động của một số mô hình bảo vệ trẻ em không nơi nương
tựa, trẻ em bị bỏ rơi: trung tâm, làng trẻ, mái ấm tình thương, gia đình thay
thế…, báo cáo hoạt động chăm sóc, bảo vệ trẻ em ở Hà Nội, báo cáo tình
hình hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em của Trung tâm Nuôi dưỡng trẻ
em mồ côi Hà Cầu
- Văn bản pháp lý: Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em năm
1990, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004, Luật
Nuôi con nuôi năm 2010, Luật Phòng chống mua bán người, Nghị định
67/2007/NĐ-CP và Nghị định 13/2010/NĐ-CP bổ sung Nghị định
67/2007/NĐ/CP
- Chương trình: Chương trình mục tiêu quốc gia bảo vệ trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn 2005-2010, chương trình hành động quốc gia vì trẻ em
giai đoạn 2001-2010, chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 –
2015
- Các công trình nghiên cứu, sách, báo, đánh giá, bài viết về trẻ em, trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi, mô hình chăm sóc, bảo vệ trẻ em mồ côi của nhiều nhà khoa học, nhà
nghiên cứu, học giả trong cả nước.
9.3.2. Trưng cầu ý kiến
- Đối tượng: Trẻ em có hoàn cảnh mồ côi không nơi nương tựa, bị bỏ rơi
có độ tuổi từ 8 đến dưới 16 tuổi tại Trung tâm Nuôi dưỡng trẻ em mồ côi Hà
Cầu
- Dung lượng mẫu: Tất cả trẻ em hiện đang sống tại Trung tâm (29 em)
- Cơ cấu mẫu: + Giới tính: Trẻ em nam (12 em), trẻ em nữ (17 em)
+ Cấp học: Tiểu học (5 em), THCS (18 em), THPT
(6 em)
+ Thời gian sống: (Đơn vị %)
< 1 năm 1 năm 2 năm 3 năm 4 năm 5 năm 6 năm > 6 năm
3.4 13.8 6.9 6.9 17.2 13.8 20.7 17.2
9.3.3. Phỏng vấn sâu
- Đối tượng: Cán bộ quản lý, chăm sóc và trẻ em tại trung tâm bảo trợ,
bố/mẹ/người giám hộ các em
- Dung lượng mẫu: 12 mẫu
- Cơ cấu mẫu: Cán bộ quản lý (01), nhân viên chăm sóc (02),
bố/mẹ/người giám hộ cho trẻ (03), trẻ em có hoàn cảnh mồ côi không nơi
nương tựa, bị bỏ rơi (06).
9.3.4. Thảo luận nhóm
Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi thực hiện 02 thảo luận nhóm đối
với trẻ em sống tại trung tâm bảo trợ xã hội:
- Thảo luận 1: Đối tượng là những em có thể tự chăm sóc, bảo vệ có
độ tuổi từ 12 đến dưới 16 tuổi nhằm mục đích thu thập ý kiến về các chế độ
ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chăm sóc sức khỏe, các vấn đề liên quan đến sự
an toàn như: nguy cơ gây thương tích, lây nhiễm tệ nạn xã hội, bị xâm hại,
các vấn đề về tâm sinh lý, nhu cầu, nguyện vọng, sự tham gia giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ.
- Thảo luận 2: Đối tượng là các em chưa thể tự chăm sóc, bảo vệ có
độ tuổi từ 8 cho đến 12 tuổi nhằm mục đích thu thập thông tin trực quan về
điều kiện cơ sở vật chất, ước mơ, mong muốn, nhu cầu, thói quen thông qua
hoạt động tiếp xúc, tương tác trực tiếp.
9.3.5. Phương pháp quan sát
- Quan sát thể trạng và các biểu hiện trong giao tiếp, ứng xử giữa trẻ
với trẻ, giữa trẻ với cán bộ, nhân viên và với khách đến Trung tâm để biết
các em có gặp vấn đề về sức khỏe, tâm lý, giao tiếp hay không.
- Quan sát các trang thiết bị, dụng cụ, học tập làm việc để biết cách
thức tổ chức, bố trí, sắp xếp của Trung tâm và các em
- Quan sát thái độ, hành vi của cán bộ, nhân viên đối với các em trong
các hoạt động hằng ngày.
Phần II. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
a. Lý thuyết hệ thống sinh thái
Hệ thống là một tập hợp các phần tử khác nhau, giữa chúng có mối liên
hệ và tác động qua lại theo một quy luật nhất định tạo thành một chỉnh thể,
có khả năng thực hiện những chức năng cụ thể. Mỗi hệ thống bất kỳ nào đều
có các thành tố: hành vi, cấu trúc, văn hóa và diễn biến của hệ thống.
Sinh thái được hiểu là những liên hệ, tác động, ảnh hưởng giữa các
thành tố cùng tồn tại trong một môi trường sống. Những mối liên hệ này có
tính hai chiều và phụ thuộc vào nhau.
Để hiểu một yếu tố nào đó trong môi trường, chúng ta phải tìm hiểu cả
hệ thống môi trường xung quanh họ, vì vậy bất cứ việc can thiệp hoặc giúp
đỡ một cá nhân của một tổ chức nào đó đều liên quan và ảnh hưởng đến toàn
bộ hệ thống đó.
Lý thuyết hệ thống sinh thái cho rằng, một hệ thống, vừa bao gồm các
tiểu hệ thống nhỏ trong nó đồng thời nó cũng là một tiểu hệ thống nằm trong
một hệ thống rộng lớn hơn. Hệ thống càng phức tạp thì tổng hợp các tiểu hệ
thống và các thành tố càng da dạng. Giữa các thành tố có mối quan hệ qua
lại mật thiết với nhau. Sự thay đổi, biến động của mỗi thành tố trong một hệ
thống đều ảnh hưởng, tác động đến các thành tố khác và ngược lại. Bởi
những liên hệ đó mà tập hợp các tiểu hệ thống và thành tố tạo thành một sự
toàn vẹn, thống nhất.
Trong bảo vệ trẻ em, lý thuyết hệ thống sinh thái chỉ ra sự tác động mà
các tổ chức, các chính sách, các cộng đồng, nhóm, gia đình ảnh hưởng lên
trẻ em. Lý thuyết hệ thống sinh thái cho phép phân tích thấu đáo sự tương
tác giữa trẻ em và hệ thống sinh thái – môi trường xã hội. Mỗi cá nhân trẻ
đều có một môi trường sống và một hoàn cảnh sống, chịu tác động của các
yếu tố trong môi trường sống và cũng tác động, ảnh hưởng ngược lại môi
trường xung quanh.
Trên cơ sở lý thuyết hệ thống sinh thái, chúng tôi nhận thấy Trung tâm
Nuôi dưỡng trẻ em mồ côi Hà Cầu là một hệ thống trong đó bao gồm các
tiểu hệ thống: nhân sự (cán bộ lãnh đạo, nhân viên chăm sóc, trẻ em), đối
tác, chính sách, cơ sở vật chất, tài chính… Mặt khác, Trung tâm cũng là một
tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống bảo vệ bảo trẻ em rộng lớn hơn là
mạng lưới bảo trợ xã hội Hà Nội. Ngoài ra, Trung tâm còn nằm trong hệ
thống kinh tế - xã hội phường Hà Cầu, quận Hà Đông.
Dưới cách nhìn nhận Trung tâm là một hệ thống và cũng là một tiểu hệ
thống, khi tiến hành những can thiệp cụ thể tại Trung tâm chúng tôi không
thực hiện những hoạt động riêng lẻ, rời rạc đối với từng bộ phận mà thực
hiện đồng bộ các bộ phận trong Trung tâm. Chẳng hạn, việc tiến hành thu
thập thông tin, chúng tôi đã thực hiện các nhóm đối tượng khác nhau: nhóm
trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, nhóm trẻ em bị bỏ rơi, nhóm cán bộ làm
công tác bảo vệ trẻ em tại Trung tâm, nhóm gia đình của các trẻ Do vậy,
kết quả thu thập thông tin phản ánh thông tin khách quan về thực trạng bảo
vệ trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa tại Trung tâm.
Bên cạnh đó, tìm hiểu hoạt động bảo vệ trẻ em trên cơ sở lý thuyết hệ
thống sinh thái, chúng tôi phân tích mối quan hệ giữa trẻ với các cá nhân, tổ
chức, nhóm cộng đồng trong một hệ thống sinh thái, ở đó, các mối quan hệ
có sự tác động qua lại với nhau:
Để hiểu một yếu tố nào đó trong môi trường, ta phải nghiên cứu cả hệ
thống môi trường xung quanh họ, vì vậy bất cứ việc can thiệp hoặc giúp đỡ
một cá nhân của một tổ chức nào đó đều liên quan và ảnh hưởng đến toàn bộ
hệ thống đó. Lý thuyết hệ thống sinh thái có ảnh hưởng rất nhiều đến các
phương thức thực hiện trong công tác xã hội như tư vấn, xử lý ca, tư vấn
nhóm, tổ chức và phát triển cộng đồng.
b. Lý thuyết cấu trúc – chức năng
Về mặt thuật ngữ, lý thuyết cấu trúc – chức năng còn có các tên gọi khác
là thuyết chức năng – cấu trúc, thuyết chức năng gắn liền với tên tuổi của các
nhà xã hội học như Auguste Comte, Herbert Spencer, Emile Durkheim,
Talcott Parsons, Robert Merton Các tác giả của thuyết cấu trúc - chức năng
đều nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một
chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự
tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định, bền
vững.
Theo quan điểm của Talcolt Parsons, người khởi xướng thuyết cấu trúc -
chức năng, mỗi hệ thống đều có 4 chức năng được thể hiện theo sơ đồ: Phù
hợp (adapation), đạt mục đích (goal attainment), hoà nhập (integration), bảo
toàn cấu trúc (latency/ pattern maintenance). Điều đó có nghĩa, mỗi hành
động của bất kỳ của một nhóm, một thể chế hay một xã hội nào cũng đều có
những nét chung đó là: hoạt động trong một hệ thống với những điều kiện cho
phép.
Ông còn khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa cấu trúc và chức
năng, trong đó cấu trúc giữ vai trò quyết định. Sự thay đổi về mặt chức năng
sẽ làm hoàn thiện cấu trúc của nó.
Khác với Parsons luôn coi mọi hệ quả của một thiết chế xã hội là chức
năng với nghĩa là những tác dụng tốt, có lợi cho toàn bộ cấu trúc xã hội, nhà
xã hội học Robert Merton chỉ ra những hệ quả làm cản trở, thậm chí gây rối
loạn, làm giảm khả năng tồn tại, thích ứng của cấu trúc. Ông khái quát đó là
hiện tượng loạn chức năng hay phản chức năng. Để nhận diện được hiện
tượng này cần trả lời câu hỏi: hệ quả của một hiện tượng xã hội đem lại lợi
ích hay gây tổn hại đến lợi ích của ai?
Tuy nhiên, trong một cấu trúc mà các bộ phận có mối quan hệ tương tác
với nhau thì nhiều khi hệ quả của một hiện tượng có thể mang lại lợi ích cho
nhóm người này nhưng lại có hại cho nhóm người khác, tức là phản chức
năng. Do đó, nhận định là chức năng hay phản chức năng phụ thuộc vào mục
đích,vị trí trong mối quan hệ mà hiện tượng đó diễn ra.
Vận dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng trong nghiên cứu, chúng tôi
xem xét Trung tâm Nuôi dưỡng trẻ em mồ côi Hà Cầu là một cấu trúc tổng
thể, thống nhất trong đó mỗi bộ phận có các chức năng cụ thể. Các chứa năng
của các thành phần đó không tách rời nhau mà có mối quan hệ tương hỗ lẫn
nhau. Do đó, mỗi một chức năng không được thực hiện sẽ ảnh hưởng đến các
chức năng khác trong một bộ phận đồng thời cũng tác động tới các bộ phận
khác.
Trong cấu trúc tổng thể là Trung tâm, mỗi bộ phận thực hiện các chức
năng qua các mối quan hệ: Giám đốc – nhân viên, giám đốc – trẻ em, nhân
viên – trẻ em. Nếu mỗi bộ phận thực hiện đúng chức năng thì cấu trúc tổng
thể hài hòa, phát triển ngược lại nếu không thực hiện đúng chức năng (phản
chức năng) thì cấu trúc có nguy cơ lỏng lẻo, bị phá vỡ.
Mặt khác, xem xét một cấu trúc rộng lớn hơn đó là hệ thống bảo vệ trẻ
em thì Trung tâm nằm trong mối quan hệ với gia đình, nhà trường, tổ chức
xã hội, cộng đồng nơi cư trú, chính sách, chế độ ưu đãi Trong mối quan hệ
này, các chức năng của gia đình và Trung tâm có ảnh hưởng rất quan trọng
đến sự phát triển toàn diện cả thể chất và tinh thần của trẻ em. Giảm thiểu
hay mất mát chức năng gia đình khiến cho các em mất đi môi trường xã hội
hóa đặc biệt quan trọng.
Một trong những giải pháp hữu ích là mang lại cho các em các chức
năng gia đình thay thế. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chăm sóc,
nuôi dưỡng dưới hình thức “gia đình” đang ngày càng phổ biến tại các cơ sở
bảo trợ xã hội dành cho trẻ em. Cán bộ chăm sóc, bảo vệ trẻ được gọi là “bà,
mẹ”, người lớn tuổi hơn là các “anh, chị” còn người ít tuổi hơn gọi là “em”.
Các xưng hô, ứng xử tại trung tâm cũng được thực hiện nề nếp giống như
một gia đình thực thụ.
c. Lý thuyết vai trò
Vai trò là khái niệm nhấn mạnh những kỳ vọng xã hội gắn với những vị
thế hay vị trí nhất định trong xã hội và nó phân tích những kỳ vọng trong xã
hội ấy. Mỗi một vai trò lại gắn với một nhóm đối tác khác nhau và nhóm đối
tác đó có một hệ kỳ vọng riêng của họ [8, 640].
Vai trò không chỉ đơn giản liên quan đến những hành vi được xã hội
quan sát mà trong thực tế còn bao gồm xã hội quan niệm những hành vi đó
phải được thực hiện ra sao. Những hành vi được thực hiện đúng với mong
muốn của xã hội được gọi là những chuẩn mực và giá trị xã hội đó.
Trong xã hội, mỗi người không phải chỉ đảm nhận một vai trò mà
thường đảm nhận nhiều vai trò khác nhau. Các vai trò không được tổ chức
và vận dụng logic, hài hòa sẽ dân đến xung đột vai trò, căng thẳng vai trò,
biến đổi vai trò. Những đòi hỏi quan trọng nhất đối với vai trò không chỉ là
thực hiện các vai trò mà còn thể hiện vai trò đó có liên quan đến sự mong
đợi, kỳ vọng, chuẩn mực, quy ước của xã hội hay không.
Có hai khuynh hướng lý thuyết chính liên quan đến vai trò. Khuynh
hướng thứ nhất cho rằng quá trình xã hội hóa chính là quá trình xã hội áp đặt
các khuôn mẫu vai trò cho các thành viên trong đó. Khuynh hướng thứ hai
giải thích việc học “đóng vai” ngoài đời giống như học theo một thứ kịch
bản gợi ý, một thứ kịch bản mở. Loại kịch bản này buộc các “diễn viên”
phải linh hoạt với hoàn cảnh thực tế hoặc tạo ra những chi tiết thích hợp để
biết rằng mình cần phải làm gì, làm thế nào, làm cho ai.
Vận dụng lý thuyết vai trò trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy mỗi
một bộ phận tại Trung tâm bao gồm: cán bộ quản lý trung tâm, cán bộ làm
công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, bản thân trẻ có những vai trò nhất định.
Mỗi một vai trò thể hiện qua những công việc, nhiệm vụ cụ thể.
Đối với cán bộ quản lý, vai trò thể hiện ở việc tổ chức, quản lý các hoạt
động của Trung tâm qua công việc như lập kế hoạch, phân công nhiệm vụ,
tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá các cán bộ làm công tác chăm sóc,
bảo vệ trẻ em và các em đang sinh sống tại Trung tâm. Ngoài ra, cán bộ
quản lý còn thực hiện báo cáo tình hình hoạt động của Trung tâm với Phòng
lao động, xã hội Quận Hà Đông và công tác đối ngoại với các tổ chức tài trợ
khác.
Đối với cán bộ làm công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ, các vai trò của một
nhân viên như vai trò là người “mẹ” quán xuyến, hướng dẫn, đốc thúc các
em thực hiện chế nội, nội quy của Trung tâm; là người “thầy” dạy dỗ, uốn
nắn những thói quen hàng ngày; là người “bạn” luôn quan tâm, chia sẻ, động
viên các em. Bên cạnh đó còn có vai trò của một nhân viên Công tác xã hội
khi thực hiện các công việc hỗ trợ xác định nhân thân, kết nối tạo việc làm,
giám hộ/biện hộ, cho các em khi cần thiết.
Đối với các em, các em lớn có vai trò hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ học
hành các em nhỏ hoặc những em mới đến. Các em nhỏ có vai trò “mách”, bảo
ban khi các bạn vi phạm nội quy. Ngoài ra, các em còn có vai trò hỗ trợ Trung
tâm gia tăng thu nhập qua các công việc trồng rau, đan vỉ nướng, dán dấy,
đóng gói tăm bông
d. Lý thuyết nhu cầu
Nhu cầu là cái gì đó được cho là cần thiết, đặc biệt khi nó được cho là
thiết yếu cho sự sinh tồn của một con người, một tổ chức hay bất kỳ thứ gì
khác [8, 416].
Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow được xem là cha đẻ của lý
thuyết nhu cầu. Theo ông, hành vi của con người bắt nguồn từ nhu cầu của
họ. Nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các thang bậc khác nhau
theo thứ tự từ thấp đến cao về tầm quan trọng. Thang nhu cầu của ông chia
làm hai cấp: cấp thấp và cấp cao.
+ Nhu cầu cấp thấp gồm hai nhu cầu về vật chất (1) và an toàn (2). Nhu
cầu về vật chất là nhu cầu tối thiểu nhưng cần thiết nhất đảm bảo cho con
người tồn tại bao gồm các hành vi: ăn, uống, mặc, ở, ngủ nghỉ, đi lại… Nhu
cầu về an toàn không bị đe dọa về sức khỏe, tính mạng, công việc, gia đình.
Nhu cầu này thể hiện trong cả thể chất và tinh thần.
+ Nhu cầu cấp cao gồm ba nhu cầu về xã hội (3), tôn trọng (4) và phát
triển (5). Nhu cầu về xã hội là các nhu cầu về tình yêu thương, được chấp
nhận và được tham gia vào tổ chức, đoàn thể nào đó trong xã hội. Khi thỏa
mãn được nhu cầu được chấp nhận là thành viên trong xã hội thì con người có
xu hướng được tôn trọng và ghi nhận những giá trị cá nhân như quyền lực, địa
vị, uy tín… Cao nhất trong thang nhu cầu của con người là nhu cầu được phát
triển toàn diện.
Theo ông, khi con người thỏa mãn các nhu cầu bậc thấp đến một mức độ
nhất định sẽ nảy sinh các nhu cầu bậc cao hơn.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu chúng tôi
tìm hiểu nhu cầu của các em tại Trung tâm Nuôi dưỡng trẻ em mồ côi Hà Cầu
theo năm bậc thang về nhu cầu. Từ đó xem xét các nhu cầu nào đã được đảm