Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

NGƯỜI CAO TUỔI VÀ CÔNG NGHỆ SỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - Full 10 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 14 trang )

Xã hội học thực nghiệm Xã hội học, sổ 1 (157), 2022 19

NGƯỜI CAO TUỔI VÀ CÔNG NGHỆ SỐ
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỀN HŨU H* OÀNG

Tóm tắt: Già hóa dân số đang trở thành vấn đề xã hội đe dọa đên sự phát triên bên
vừng tồn cầu. Khoa học và cơng nghệ phát triên cùng với chuyển đối sổ quốc gia được kỳ
vọng là “chìa khóa” giúp giải quyết thách thức này. Từ kết quả cuộc khảo sát 256 người
cao tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết phân tích hai vấn đề: Thích ứng của người
cao tuổi với cơng nghệ sổ (DT) ở một so phương diện và thải độ của họ về vai trò của DT
đổi với việc đảm bảo cuộc sổng cho người cao tuổi. Hơn 81% người cao tuổi sử ditng các
thiết bị DT hiện dại và tỷ lệ này giảm dần theo độ tuối. Tuy nhiên, họ lại ít tiếp cận và sử
dụng DT để chăm sóc sức khỏe, trừ một sổ ứng dụng phịng, chong Covid-19. Người cao
tuổi yêu thích đọc báo mạng, xem phim và nghe nhạc online, dần mở rộng không gian sống
số nhưng cũng yêu thích các hoạt động trong thế giới thực tại, tương tác xã hội trực tiếp.
Đặc biệt, gần 87°/o người cao tuổi có thải độ ủng hộ ứng dụng DT để cải thiện chất lượng
sổng và đánh giá tích cực vai trị của DT trong dời sổng của họ.

Từ khố: cơng nghệ số, chuyển đổi số, người cao tuổi, thích ứng xã hội.

Nhận bài: 13/12/2021 Gửi phản biện: 12/2/2022 Duyệt đăng: 18/3/2022

1. Giới thiệu

Già hoá dân số là thành tựu nhưng cũng là thách thức để nhân loại tìm ra phương
cách thích ứng hữu hiệu. Đến năm 2020, theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), dân số cao
tuổi (từ 60 tuổi trở lên) đã lên đến trên 1 tỷ người (khoảng 13,5% dân số toàn cầu) và dự
báo đạt 2,1 tỷ người vào năm 2050 (WHO, 2020:2). Ở Việt Nam theo Luật Người cao tuổi
được ban hành năm 2009, người cao tuổi là người từ 60 tuổi trở lên. Đến nay, nước ta có


khoảng 11,41 triệu người cao tuổi chiếm 12% dân số (Hội Người cao tuổi Việt Nam,
2020:1). Từ năm 2017, Việt Nam đã chính thức bước vào thời kỳ già hoá dân số và được
dự báo sẽ sớm trở thành quốc gia có dân số già và “siêu già” vào những năm 30 của thế kỷ
21 (UNFPA, 201 1:6).

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN4) và chuyển đổi số quốc gia được kỳ
vọng thúc đẩy chính sách đột phá giúp người cao tuổi giải quyết tốt hơn các vấn đề về an
sinh. Trong thế giới số, con người giao tiếp với nhau thông qua các thiết bị, công nghệ được
tính tốn, mã hố dạng tín hiệu nhị phân 0 và 1. Theo nghĩa rộng, DT là chính là các loại

*Học viện Chính trị Khu vực II, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chi Minh.

20 Người cao tuổi và công nghệ số ở Thành phố Hồ Chí Minh

cơng nghệ xử lý tín hiệu số này hay cũng có thể được hiểu là cơng nghệ thông tin. Ở nghĩa
hẹp và dề tiếp cận hon, DT chính là cơng nghệ nhằm tạo ra và sử dụng các đối tượng dưới
dạng số. Đó là các cơng cụ điện từ, thiết bị, hệ thống phần mềm, tài nguyên tạo ra, lưu trữ,
xử lý dữ liệu số như tivi số, nhạc số, trị chơi trực tuyến, điện thoại thơng minh, điện tốn
đám mây, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuồi khối, thực tế ảo,... (Bộ Thông tin và Truyền
thơng, 2021:24). Nhiều nghiên cứu cho rang, DT có tầm quan trọng giúp người cao tuối
vượt qua khó khăn trong cuộc sổng hiện đại, giải quyết bài toán an sinh cho họ (Mostaghel,
2016; Keranen et al., 2017; Popescu et al., 2020; Hoang, 2020b). Trong bối cảnh đó, Việt
Nam bắt đầu thực hiện chiến lược quốc gia về chuyển đổi số tồn diện trên 3 trụ cột là kinh
tế số, chính phủ số và xã hội số từ cuối năm 2020 nhằm giải quyết các thách thức xã hội,
hướng đến phát triển bền vững (trong đó có giải quyết vấn đề già hố). Khả năng thích ứng
của người cao ti với bối cảnh mới mẻ này có tầm quan trọng hàng đầu nhưng các nghiên
cứu về chủ đề này còn khá khiêm tốn, mới được quan tâm gần đây và vần là khoảng trống
lớn ở nước ta (Tổng cục Thống kê, 2021:36). Qua tổng quan tình hình nghiên cửu, điều này
càng được chứng minh rõ hơn.


Trải nghiệm của người cao tuốt với công nghệ số (DT) trong cuộc sống của họ

Nghiên cửu của Broekens và cộng sự (2009), Bemelmans và cộng sự (2012) đã cung
cấp bằng chứng định lượng, định tính khẳng định trải nghiệm của người cao tuổi với nhiều
loại robot trợ giúp xã hội có kết quả tích cực về thể chất và tinh thần. Theo Hill và cộng sự
(2015), sự trải nghiệm của người cao tuổi với DT giúp họ cải thiện phúc lợi và hồ nhập xã
hội. Thậm chí, Vroman và cộng sự (2015) đã đề xuất mơ hình sinh thái xã hội thúc đẩy
người cao tuổi sử dụng DT nhằm duy trì các mối quan hệ xã hội cần thiết, thích ứng tốt hơn
với tiện ích của DT.

Tuy vậy, thích ứng xã hội của người cao tuối với DT vần chưa được nghiên cứu một
cách toàn diện và mới chỉ ở giai đoạn đầu (Bemelmans, 2012; Nikou, 2015). Ở các nước
đang phát triển, có thu nhập thấp, trung bình thấp như Việt Nam, chủ đề này cần được quan
tâm nghiên cứu nhiều hơn cả góc độ pháp lý, chính trị (Melkas, 2011), học thuật và biểu
hiện trong thực tiễn xã hội (VNCA & UNFPA, 2019:30; Tổng cục Thống kê, 2021).

Thái độ của người cao tuôi đổi với vai trò của DT

Nhóm quan điểm thứ nhất đồng ý với vai trị của DT giúp giải quyết tốt các vấn đề
của lão hoá ngày càng tăng (Bemelmans et al., 2012; Mason et al., 2012; Choi & DiNitto,
2013; Winstead et al., 2013; Winstead et al., 2013; Barbosa Neves et al., 2017). Người cao
tuổi có thái độ đồng tình và cách nhìn cởi mở hơn với vai trò của DT trong cuộc sống của
họ. Nhóm quan điểm thứ hai tuy bày tỏ thái độ đồng ý với vai trò của DT đối với cuộc sống
của người cao tuổi, nhưng các nghiên cứu này cho rằng cần có nhiều nghiên cứu hơn bới
các bằng chứng hiện tại chưa đú sức thuyết phục và đưa ra các kết luận chắc chắn (Broekens
et al., 2009). Nhóm quan điểm thứ ba bày tở thái độ không ủng hộ và phủ nhận vai trò của
DT trong đời sống người cao tuổi. Họ không tin ràng việc sử dụng DT có thể giúp người
cao tuổi cải thiện chất lượng cuộc sống (Skymne et al., 2012; Iwasaki, 2013; Francis et al.,
2016; Carvalho et al., 2021).


Nguyễn Hữu Hoàng 21

Do đó, bài viết nghiên cứu 2 nội dung: 1) Mức độ trải nghiệm của người cao tuôi với
DT thê hiện ở một số phương diện; 2) Thái độ của người cao tuổi đối với vai trò của DT
trong đời sống của họ.

2. Số liệu và phiroìig pháp

Thiết kế cuộc khảo sát: Đây là nghiên cứu cắt ngang, khảo sát trực tiếp 256 người
cao tuổi từ ngày 02/11/2021 đến 22/11/2021 ở các quận, huyện của Thành phố Hồ Chí
Minh. Người cao tuổi được chọn phi xác suất, dựa trên một số đặc điểm nhân khâu phù hợp
với tính chất và mục đích của cuộc nghiên cứu.

Đặc điểm mầu khảo sát: Người cao tuổi trong mẫu ở độ tuổi từ 60-65 tuổi (50%), từ
66-70 tuổi (31,3%) và 70+ (18,7%); tỷ lệ nam giới là 56,3% và nữ là 43,7%; 50% sống ở
thành thị và 50% ở nơng thơn. Tỷ lệ có học vấn bậc tiểu học và trung học là 31,3%, trung
cấp và cao đắng là 18,8% và đại học, sau đại học là 50%. Người cao tuối trong mẫu chủ
yếu sống chung với người thân trong thân tộc như vợ/chồng, con cái, anh, chị, em, cháu
(75,2%); sống riêng một mình (18,8%) và với bạn bè (6,3%).

Kỳ thuật phân tích dữ liệu định lượng: Ngồi phân tích thống kê mơ tả, bài viết dùng
kiểm định Chi-square để kiểm tra giả thuyết về tương quan (mối liên hệ) giữa hai biến. T-
Test và one-way ANOVA được dùng đế kiểm tra giả thuyết sự khác biệt về giá trị trung
bình. Đối với câu hỏi dạng thang đo Likert, bài viết kiểm tra độ phù hợp, nhất quán cúa các
nội dung thành phần (biến quan sát) đối với tập hợp biến bằng hệ số Crobach a và phân
tích nhân tố khám phá (EFA) để thu gọn số lượng biến quan sát lớn thành vài nhân tố điển
hình nhưng vẫn có khả năng giải thích, phản ánh ý nghĩa biểu đạt của tập biến (Nunnaly,
1978; Peterson, 1994).

3. Kết quả


3.1. Khả năng thích ứng và mức độ trải nghiệm của người cao tuồi với DT

3.1.1. Trải nghiệm một số DT trong cuộc sống của người cao tuổi

Khảo sát cho thấy, tỉ lệ người cao tuổi sử dụng một số loại DT ở mức cao. Người cao
tuổi sử dụng “điện thoại thơng minh có kểt nối Internet/ Wifi (viết tắt: DI)” (93,8%), “máy
vi tính/ laptop/ ipad có kết nối lntemet/Wifi (viết tắt: D2)” (81,3%) và “tivi có kết nối
Internet/ Wifi (viết tắt: D3)” (81,3%).

Kết quả này có vẻ khác hẳn khi xem xét ở phạm vi quốc gia. Theo nghiên cứu của
Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD) tiến hành năm 2018 và được công bố năm
2020 với sự tham gia của 6.050 người cao tuổi ở 654 xã/phường của 10 tỉnh, thành phố ở
Việt Nam, chỉ khoảng 6,4% người cao tuổi dùng mạng xã hội, 12,7% người cao tuổi có thể
truy cập Internet (ER1A & PHAD, 2020),... Phải chăng, người cao tuổi đang bị “bo lại phía
sau” trong hành trình phát triên của chuyển đổi số và DT? Nghiên cứu này tuy khác với kết
quả khảo sát ở bài viết nhưng là sự hợp lý. ERIA và PHAD đã khảo sát quy mô lớn và trên
bình diện rộng nhưng khả năng tiếp cận, sử dụng DT của người cao tuối không tốt hơn so
với kết quả khảo sát người cao tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên nhân một phần bởi
đây là trung tâm kinh tế, khoa học công nghệ, sáng tạo và là địa phương tiên phong thí điểm

22 Người cao tuổi và công nghệ số ở Thành phố Hồ Chí Minh

các mơ hình mới về chuyển đối số, xây dựng thành phố thông minh, đô thị sáng tạo cùa cả
nước; sự cải thiện điều kiện kinh tế, thu nhập,... Điều này khiến người cao tuổi ở đây, dù
là nhóm yếu thế xã hội nhưng có nhiều lợi thế giúp họ tiếp cận tốt hơn các thành tựu DT so
với mặt bằng chung của cả nước. Bảng 2 thể hiện mối tương quan (liên hệ) về mặt thống
kê giữa mức độ trải nghiệm 3 loại hình DT ở Bảng 1 và 4 đặc điểm nhân khẩu học của
người cao tuổi.


Dùng kiểm định Chi-square, về mặt thống kê, cho thấy việc trải nghiệm 3 hình thức
DT kể trên có mối tương quan (liên quan) với 5 đặc điểm nhân khấu học của người cao tuổi
(p < 0,02);

- Người cao tuổi càng lớn tuổi càng ít tiếp cận, sứ dụng 3 loại DT này. Tần suất sử
dụng DI (100,0%), D2 (87,5%%) và D3 (85,7%) ở nhóm 60-65 tuổi cao hơn so với nhóm
71+, tương ứng lần lượt là 66,7%, 60,0% và 60,0% (p < 0,001). Xét từ góc độ tâm lý-xã
hội, người cao tuổi ln thường trực nồi lo âu, ngờ vực với thế giới bên ngồi dù cũng
muốn là một phần của thế giới đó. Vì vậy, họ có xu hướng “triệt để chống lại sự tấn công
[gây ra lo âu hay ngờ vực cho họ] của thế giới bên ngoài”, “giảm bớt quan hệ của mình với
nó” hay “đoạn tuyệt giao tiếp” (Simone De Beauvoir, 1973:287). Ở góc độ sinh lý, sự suy
giảm về mặt sinh học khiến cơ thể người cao tuổi “suy tàn” một cách rõ rệt trong nghiên
cứu của Simone De Beauvoir (1973:29) hay do sự giảm sút theo độ tuổi về “khả năng cảm
giác - nếm, nhìn, sờ, ngửi và nhất là nghe...” (Macionis, 1987:423). DT tạo ra không gian
sống hồn tồn mới và cũng là chìa khố mới mẻ, hiện đại giúp người cao tuổi bước vào
thế giới ấy. Tuy nhiên, chính 2 yếu tố tâm lý-xã hội và suy giảm sinh lý là rào cản cho hành
trình này.

- Phụ nữ cao tuổi có xu hướng sử dụng DI (100,0%), D2 (100,0%) nhiều hơn nam
giới cao tuổi (tỷ lệ tương ứng lần lượt là: 88,9% và 66,7%). Trong khi đó, nam giới cao tuổi
lại sử dụng nhiều D3 (88,9%) so với phụ nữ cao tuổi (71,4%) (p < = 0,001).

- Người cao tuồi ở đô thị sứ dụng DI (100,0%) và D2 (87,5%) nhiều hơn khu vực
nông thôn (tỷ lệ tương ứng lần lượt là 87,5% và 75,0%). Người cao tuổi ở nông thôn lại sử
dụng D3 (87,5%) phổ biến, nhiều hơn ở đô thị (75,0%). Kết quả này phản ánh sự khác biệt
về tiếp cận, sử dụng DT dựa trên đặc điểm kinh tế-xã hội và lối sống xưa vốn còn in sâu
của người dân nơng thơn Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tình hình cũng dần được cải
thiện, giảm dần khoảng cách số nhờ sự nâng lên về đời sống, thu nhập và chính sách xây
dựng thành phố thơng minh của Thành phố những năm gần đây.


- Người cao tuổi sống cùng con cái hoặc cùng với vợ (chồng) hay sống một mình đều
dùng 3 loại DT nhiều hơn so với khi họ sống chung với các chủ thê khác (tỷ lệ: 100,0%, p
< = 0,001). Việc chung sống với con cái có lẽ là một lợi thế giúp họ mạnh dạn, tự tin hơn
để sử dụng DT hiện đại bởi các khó khăn, hỏng hóc khi trải nghiệm DT người cao tuổi có
thể nhờ sự trợ giúp đến các thành viên nhỏ tuổi trong gia đình (Francis et al., 2019). Đặc
biệt, người cao tuổi dù sống chung với con cái, hoặc với vợ/chồng hay sống riêng đều cho
thấy tỷ lệ tiếp cận DT cao. Phải chăng, người cao tuổi ngày càng có xu hướng lựa chọn, mở
rộng không gian sống, sinh hoạt và giao tiếp của mình với DT và mơi trường số hoá bên

Nguyễn Hữu Hoàng 23

cạnh thế giới thực là đời sống gia đình đế làm phong phú cuộc sống tuổi già? Ở góc độ tiêu
cực hơn, có phải đời sống gia đình với các quan hệ thân tộc (vợ - chồng; cha mẹ - con cái)
đang ngày càng lỏng lẻo do áp lực sinh kế, lối sống đô thị, sự suy giảm nhận thức về “đạo
hiếu”,... trong gia đình Việt Nam hiện nay (Chow, 2006; Thi, 2021) buộc người cao tuổi
phải chấp nhận tìm đến khơng gian sống mới cho mình (dù có thể không mong muốn)
(Kadylak, 2017).

Hình 1. Mục đích của người cao tuổi sử dụng DT

Nguồn: Kết quả khảo sát tại TP Hồ Chí Minh năm 2021.

Mục đích sử dụng 3 loại DT kể trên của người cao tuổi được bài viết này khao sát và
phân tích ở Hình 1. Họ sử dụng DT chủ yếu để khoả lấp những thiếu hụt về đời sống tinh
thần vốn do quy luật lão hoá chi phối. Đáng chú ý, trải nghiệm DT nhằm giúp người cao
tuổi giải trí hay tăng cường tương tác xã hội nhiều hơn thơng qua trị chuyện, giao tiếp
(87,5%), kết nối với người thân (81,3%) hay nắm bắt thơng tin (75,0%). Điều này hồn
tồn phù hợp đặc điểm tâm lý và xã hội của người cao tuổi và thống nhất với kết quả của
nhiều nghiên cứu về chủ đề này (xem Baeker et al., 2014; Keranen et al., 2017; Pullum et
al.,2017).


3.1.2. Người cao tuổi sử dụng DT đế chăm sóc sức khỏe
Vai trò của DT hiện đại biểu hiện rất rõ trong chăm sóc sức khỏe (thể chất và tâm
thần) cho người cao tuổi. Tác giả khảo sát và phân tích mức độ sử dụng một số ứng dụng
DT quan trọng, phổ biến trong chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi Việt Nam, được thể
hiện ở Bảng 1.
Khảo sát cho thấy họ ít tiếp cận và sử dụng các ứng dụng DT để chăm sóc sức khỏe
(xem Bảng 1). Trong 12 ứng dụng DT khá phổ biến ở Việt Nam, họ chủ yếu sử dụng một
số ứng dụng điện tử chăm sóc sức khỏe trong đại dịch COVID-19: app “PC-Covid quốc
gia”, app “Bluezone”, “Zalo 1022”, ứng dụng tìm giường oxy, máy thở trực tuyến “app
Oxy24/7”,... (66,3%), kế đến là ứng dụng “sổ sức khỏe điện tử” của Bộ Y tế (57,4%). Thực

24 Người cao tuổi và công nghệ sổ ở Thành phố Hồ Chí Minh

ra, các ứng dụng này chỉ mới được thiết kế, thử nghiệm và bắt buộc sử dụng trong làn sóng
thứ 4 đại dịch ở Việt Nam (khoảng từ tháng 4/2021 đến nay).

Bảng 1. Mức độ trải nghiêm, sử dụng một số loại DT để chăm sóc sức khóe của người cao tuổi

ứng dụng DT trong chăm sóc sức khỏe (N = 256) 1 \

_________________________________________ ____________________________________________ <221

1. Bệnh án điện tử 33,7

2. Chẩn đoán, khám, chữa bệnh từ xa/ trực tuyến (Telehealth) 7,9

3. ứng dụng dịch vụ di động chăm sóc người cao tuổi Việt Nam S-Health 7,9

4. ứng dụng trị liệu kỹ thuật số để giải quyết san chấn tâm lý 0,0


5. Dùng robot, trí tuệ nhân tạo (AI) để chăm sóc sức khỏe 0,0

6. Tự động nhận thông tin chăm sóc sức khỏe trên mạng xã hội (Zalo, Facebook,...) 39,6

7. Nhận thơng tin chăm sóc sức khỏe tư các trang thơng tin điện tử chính thức 39,6

8. ứng dụng “Sổ sức khỏe điện tử” (SSKDT) của Bộ Y tế 57,4

9. Trải nghiệm tiện ích trong ngôi nhà thông minh (smarthome) 0,0

10. ứng dụng bảo vệ sức khỏe người dân ưong đại dịch COVID-19 ở Việt Nam 06,3

11. Thông tin sức khỏe người cao tuổi trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư 15,8

12. Đồng hồ đeo cồ hoặc đeo tay phàn ánh thông tin sức khỏe và cành báo y tế_________________ 10,9

Nguồn: Kết quả khảo sát tại TP Hồ Chi Minh năm 2021.

Nhiều ứng dụng DT khác dù ra đời khá lâu như “trang thông tin điện tử” (39,6%),

“bệnh án điện tử” (33,7%), khám chữa bệnh từ xa (7,9%), hay ứng dụng S-Health (7,9%),...
nhưng lại ít được người cao tuổi tiếp cận và sừ dụng. Đặc biệt, nhiều ứng dụng DT của thế
giới vẫn chưa quá phổ biến và được người cao tuổi Thành phố Hồ Chí Minh biết đến, tiếp
cận và sử dụng: trị liệu kỳ thuật số đế giải quyết san chấn tâm lý, dùng robot/AI đế chăm
sóc sức khỏe, mơ hình ngơi nhà thơng minh,... Ớ đô thị phát triển và hiện đại bậc nhất Việt
Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ tiếp cận DT đe chăm sóc sức khỏe cịn thấp gián
tiếp phản ánh hiện trạng này ở quy mơ tồn quốc hoặc các địa phương, vùng miền kém phát
triển hon thành phố có vẻ khó khăn và đáng lo ngại hon.


3.1.3. Trải nghiệm sử dụng mạng xã hội của người cao tuổi

Ngoài các úng dụng DT đe chăm sóc sức khỏe, việc tiếp cận và sử dụng mạng xã hội
trong đời sống của người cao tuổi cũng được khảo sát, đánh giá ở Bảng 2. Facebook là
mạng xã hội toàn cầu. Zalo là mạng xã hội được người Việt Nam sáng lập và ra mắt đầu
tiên từ năm 2012. Trong số 7 loại mạng xã hội được khảo sát, người cao tuổi chủ yếu sử
dụng Facebook (100%) và Zalo (82,4%) và khai thác tối đa các tiện ích mang lại của 2
mạng xã hội này (xem Bảng 2). Họ sử dụng Facebook chủ yếu “cập nhật, theo dõi thơng

tin” (64,7%), “giải trí” (42,9%) và “nghe/ gọi” (41,2%). Trong khi đó, Zalo được dùng chủ
yếu để “nghe/ gọi” (62,2%), “nhắn tin” (49,6%) và “cập nhật, theo dõi thông tin” (42,0%).
Các mạng xã hội khác như Skype, Telegram, Whatsapp được người cao tuổi sử dụng chủ
yếu để “nhắn tin” (20,8%).

Nguyễn Hữu Hoàng 25

Kiểm định Chi-square để xem xét liệu có mối liên hệ nào về mặt thống kê giữa mục
đích sử dụng có tỉ lệ cao nhất của Facebook (“cập nhật, theo dõi thông tin”) và Zalo
(“nghe/gọi”) với người cao tuổi được phân theo các đặc điểm nhân khẩu học khác nhau.
Kết quả không cho thấy có mối liên hệ về mặt thống kê nào (p>0,05).

Bảng 2. Trãi nghiệm và sử dụng mạng xã hội của người cao tuồi

Mục đích sử dụng

Mạng xã hội Nghe/ Nhắn Cập nhật, Giải trí Đăng tải, Bàn Cơng Mức độ
gọi tin theo dõi chia sẻ luận việc sử dụng
thông tin
thông tin
1. Facebook 41,2 35,3 64,7 42,9 21,8 21 6,7 100,0

20,8 12,5
2. Twister 0 10,4 0 0 0 0 0 24,2
21,8 82,4
3. Instagram 0 10,4 0 20,8 0 0 0 20,2
0 23,7
4. Zalo 62,2 49,6 42,0 28,6 10,4 28,6 21,8 14,3

5. Skype 10,4 20,8 0 0 0 0

6. Telegram 14,2 20,8 0 0 0 0

7. Whatsapp 15,7 20,8 0 0 0 0

Nguồn: Kết quả khảo sát tại TP Hồ Chỉ Minh năm 2021.

Kiếm định T-Test giữa tuổi tác (năm) và mục đích sử dụng có tỉ lệ cao nhất đối với
Facebook và Zalo của người cao tuổi nhằm khám phá sự khác biệt về mặt thống kê. Kết
quả cho thấy, khơng có sự khác biệt nào giữa tuổi tác của người cao tuổi và việc họ sử
dụng/ không sử dụng Facebook để “cập nhật, theo dõi thông tin” (p>0,05) cũng như Zalo
để “nghe/gọi” (p>0,05).

3.1.4. Trải nghiệm DT và những hoạt động yêu thích của người cao tuổi

Để phân tích nội dung này, ban đầu, bài viết xây dựng 24 hoạt động thành phần (được
mã hoá từ HI đến H24) trên thang đo Likert 5 mức độ (1. Rất không thích và 5. Rất thích).
Kiểm tra độ phù họrp và nhất quán cho thấy, 24 hoạt động thành phẩn từ HI đến H24 là phù
hợp, phản ánh tốt các hoạt động yêu thích của người cao tuổi (hệ số Crobach a=0,933)
(xem Bảng 3). Kết quả là:

- Các hoạt động yêu thích trong thế giới thực của người cao tuổi có giá trị trung bình

cao lần lượt là: “gặp gỡ bạn bè trực tiếp” (3,8), “chăm sóc con cháu” (3,61), “uống trà”
(3,59), “ngắm cảnh” (3,53) hay “làm công việc nhà” (3,50).

- Một số hoạt động yêu thích của người cao tuổi diễn ra trong thế giới số, không gian
mạng gắn với DT như: “xem tivi” (3,93), “đọc báo mạng, báo điện tử” (3,70) hay “xem
phim, nghe nhạc trên Internet” (3,54).

Kết quả này phần nào phản ánh sự giao thời, tiếp biến và chuyển đổi nhận thức, tư
duy và lối sống, nếp sinh hoạt của người cao tuổi trong bối cảnh chuyển đổi xã hội số hiện
nay. Ở đó, một mặt họ sàng lọc, chấp nhận và thích ứng với các DT hiện đại, phù hợp với
mình để tối ưu hố chất lượng cuộc sống tuồi già (Broekens et al., 2009; Hill et al., 2015;

26 Người cao tuổi và công nghệ số ở Thành phố Hồ Chỉ Minh

Mostaghel, 2016). Mặt khác, người cao tuổi cũng sằn sàng cự tuyệt với các loại DT không
phù hợp, với mặt tiêu cực của thế giới số hoá hoặc miễn cưỡng chấp nhận thích ứng q
trình chuyển đổi số với nhiều lý do đã được bàn luận ở các nội dung trước đó (xem Davison
& Cotten, 2009; Cotten et al., 2011; Skymne et al., 2012; Iwasaki, 2013; Kadylak, 2017;
Carvalho et al., 2021).

Bảng 3. Phân tích EFA đối vói 24 hoạt động yêu thích của người cao tuổi

Một số hoạt động của người cao tuổi Nhân tố

(Crobach a=0,933) 1 2 3 4 5

Hl. Đi tản bộ (đi dạo) 0,721
H2. Ngắm cảnh 0,694

H3. Uống ưà 0,840


H4. Uống cafe 0,776

H5. Uống rượu (bia) 0,729

H6. Gặp gỡ bạn bè trực tiếp 0,634

H7. Trồng cây cảnh 0,807

H8. Chăm sóc thú cưng 0,804

H9. Đọc báo in (báo giấy) 0,725

H10. Viết sách, hồi ký, nhật ký 0,854

H11. Chăm sóc con cháu 0,591

HI2. Làm công việc nhà 0,658

H13. Xem tivi (xem thời sự, xem phim, nghe nhạc,...) 0,824

HI4. Sáng tác thơ ca 0,885

HI5. Đọc báo mạng, báo điện tử 0,808

HI ố. Gặp gỡ bạn bè trên mạng xã hội 0,698

HI7. Livestream nói chuyện với công chúng 0,846

HI8. Chia sẻ thông tin lên mạng xã hội (Zalo, Facebook, 0,699

Tiktok...)

HI9. Nghe sách nói (sách điện tử) 0,823

H20. Xem phim, nghe nhạc trên trên Internet 0,869
H21. Tham gia các liveshow (chương trình truyền hình
trực tiếp) trên tivi 0,862

H22. Tham gia hoạt động thiện nguyện, vì cộng đồng 0,725

H23. Tham gia các diễn đàn, nhóm trên mạng xã hội 0,674

H24. Viết Blog/ nhật ký trên mạng xã hội 0,834
Nguồn: Kết quả khảo sát tại TP Hồ Chi Minh năm 2021.

Tác giả đã phân tích nhân tố khám phá (EFA) để thu gọn từ 24 hoạt động thành phần
từ HI đến H24 thành 5 nhân tố (xem Bảng 3). Các nhân tố này có khả năng đại diện và giải
thích đến 84,5% ý nghĩa của 24 hoạt động thành phần. Căn cứ hệ số tải nhân ở mồi nhân

Nguyễn Hữu Hoàng 2 7

tố, nhân tố 1 được đặt lại tên mới là hoạt động “đọc bảo mạng, báo điện tử”', nhân tố 2 có
tên mới là hoạt động “uổng trà nhân tố 3 là “sáng tác thơ ca nhân tố 4 là “ỉivestream
nói chuyện trước cơng chủng” và nhân tố 5 có tên mới là “xem phim, nghe nhạc trên
Internet”. Từ đây, chúng ta có thế sử dụng 5 nhân tố này để thay thế cho 24 hoạt động
thành phần và tiến hành các nghiên cứu chuyên sâu hon. Đây cũng chính là các hoạt động
yêu thích cần được quan tâm khi đề cập đến người cao tuổi.

Do tác giả đặc biệt quan tâm đến các hoạt động yêu thích của người cao tuối trong
thế giới số nên bài viết chỉ sử dụng 3 nhân tố mới được đặt tên là hoạt động “đọc báo mạng,

báo điện tử” (ký hiệu: RM); hoạt động “livestream nói chuyện trước cơng chủng ” (ký hiệu:
LS) và hoạt động “xemphim, nghe nhạc trên Internet” (ký hiệu: WF) đề kiêm định T-Test
và one-way ANOVA với các đặc điểm nhân khẩu học (độ tuổi, giới tính, nơi sống và sống
cùng với ai). Cụ thể:

- Kiểm tra T-Test cho thấy, khơng có sự khác biệt nào về mặt thống kê của RM, LS
và WF giữa người cao tuổi nam và nữ. Điều này cũng tương tự với nơi cư trú của người
cao tuổi (đơ thị và nơng thơn), trừ WF có sự khác biệt về mặt thống kê giữa người cao tuổi
sống ở đơ thị và nơng thơn của Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, người cao tuổi ở đơ thị
có sở thích WF nhiều hơn so với người cao tuổi ở nông thôn.

- Kiểm tra one-way ANOVA cho thấy, RM và LS có sự khác biệt về mặt thống kê
với người cao tuổi theo 3 độ tuổi khác nhau (0-65 tuổi, 65-70 tuổi và 71+). Tuổi tác càng
cao khiến sự suy giảm thể chất: khả năng nghe, nhìn, ghi nhớ, tập trung, khả năng giao
tiếp,... (Tổng cục Thống kê, 2021:26) tăng cao, khiến khả năng tiếp cận, sử dụng các tiện
ích từ cơng nghệ số giảm sút và RM, LS là ví dụ điển hình. Trong khi đó, RM và WF có sự
khác biệt về mặt thống kê với người cao tuổi được phân theo việc họ sống với ai (độc thân,
sống với con cái, vợ/ chồng hay bạn bè,...). Người cao tuổi sống chung nhau, sống chung
với ai hay sống độc thân theo nhiều nghiên cứu có ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh
thần, chất lượng cuộc sống và khả năng tiếp cận, thích ứng với DT (Cesta, 2007; Briley &
Moret, 2010). Việc sống cô đơn khiến người cao tuổi cảm giác lạc lõng, khủng hoảng tinh
thần và việc tìm đến DT như là liệu pháp có tính cứu cánh khi mà các quan hệ thân tộc, liên
thế hệ bị đứt gãy. So với người cao tuổi sống chung với con cái hay với thành viên khác,
họ lại gặp nhiều khó khăn hơn do ít có sự trợ giúp (cả về tài chính, hướng dẫn, hồ trợ trục
trặc kỹ thuật,...) từ các thành viên. Việc sống chung và có tính liên thế hệ trong gia đình
khiến mục đích, tính chất tiếp cận, sử dụng DT có phần khác với người cao tuổi cơ đơn bởi
nó như một sự bổ khuyết, hỗ trợ thêm phần phong phú cho cuộc sống hiện thực.

3.2. Người cao tuổi và thái độ đối với vai trò của DT trong đời sống của họ


Thái độ và quan điểm có tính dẫn dắt, chi phối hành vi sử dụng DT của người cao
tuổi như nhiều nghiên cứu đã khẳng định. Kết quả khảo sát cho thấy, có 86,6% người cao
tuổi được hịi Dày tỏ thái độ ủng hộ việc áp dụng DT hiện đại vào chăm sóc sức khỏe thể
chất và tâm thần cho người cao tuổi hiện nay; 13,4% bày tỏ thái độ phân vân. Kết quả này
hoàn toàn thống nhất với 1 trong 3 nhóm thái độ, quan điểm của người cao tuổi về vai trị
của DT mà chúng tơi đã trình bày ở phần “Giới thiệu” và phù hợp với kết quả của nhiều

28 Người cao tuổi và công nghệ số ở Thành phố Hồ Chi Minh

nghiên cứu như Bemelmans và cộng sự (2012), Mason và cộng sự (2012), Choi & DiNitto
(2013); Winstead và cộng sự (2013),... Tuy vậy, điều này cũng đi ngược lại kết quả của
một số nghiên cứu về chủ đề này (Skymne et al., 2012; Iwasaki, 2013; Cotten et al., 2016;
Francis et al., 2016; Carvalho et al., 2021).

Ket quả này góp phần phản ánh thái độ, quan niệm của người cao tuổi về sức mạnh
và tính hữu ích của DT trong đời sống của họ ở bối cảnh của một quốc gia đang phát triển,
cịn khó khăn nhưng lại thúc đấy chuyển đồi số nhanh chóng như Việt Nam. Việt Nam cịn
thiếu hụt trong các nghiên cứu về chủ đề này thời gian qua.

Hình 2. Ý kiến của người cao tuổi về tác động của DT

Nguồn: Kết quả khảo sát tại TP Hồ Chí Minh năm 2021.

Ý kiến của người cao tuổi về tác động của DT đối với cuộc sống của họ được mơ tả
ở Hình 2. 100% người cao tuổi đồng ý rằng áp dụng DT giúp họ có cuộc sống “thuận tiện
hơn”, 73,3% ý kiến cho rằng “vui vẻ hơn” và 53,3% ý kiến “hài lòng hơn”. Các tác động
ngược chiêu của DT tuy có nhưng người cao tuổi đánh giá với tì lệ khá tháp, ví dụ như việc
sử dụng DT càng làm họ “nhớ về quá khử, cuộc sống ngày xưa nhiều hơn” (13,3%), hay
nó khiến họ “mất tự do hơn” (6,7%). Kiểm định Chi-square giữa ý kiến cho rằng sử dụng
DT giúp "thuận tiện hơn ” với một số đặc điểm nhân khẩu học cho thấy có mối liên hệ khi

người cao tuổi học vấn càng cao, sống ở đơ thị có tỷ lệ đồng ý nội dung này cao hơn người
cao tuổi ở chiều ngược lại (p<0,001).

Phân tích và kiểm định Chi-square để hiểu rõ hơn về mối tương quan giữa ý kiến của
người cao tuổi về tác động tiêu cực của DT gồm "nhớ về quả khứ” và "mất tự do ” với các
đặc diêm nhân khâu học khác nhau: độ tuổi, giới tính, nơi sống, học vấn và sống cùng ai.
Ket quả cho thấy, các ý kiến đánh giá tác động tiêu cực này của người cao tuổi có mối liên
quan với một số đặc điểm nhân khẩu học về mặt thống kê (p<0,05). Cụ thể:

- Khi sử dụng các ứng dụng DT, người cao tuổi là nữ, sống ở đơ thị có xu hướng nhớ
về q khử và kỷ niệm ngày xưa. Nhóm này cũng cho rằng việc sử dụng các ứng dụng DT
khiến họ cảm thấy mất tự do hơn so với người cao tuổi là nam, sống ở nông thôn.

Nguyễn Hữu Hoàng 29

- Khi người cao tuổi sống cơ đơn, thậm chí sống cùng con, cháu, việc sư dụng các
ứng dụng DT khiến họ nhớ về quá khứ, kỷ niệm ngày xưa nhiều hơn so với khi nhóm người
cao tuổi này sống chung với các thành phần khác (vợ/chồng, bạn bè, anh, chị, em).

4. Kết luận

Già hoá dân số ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh CMCN4 và chuyển đối số quốc
gia. Đê giải quyết các thách thức dân sổ già, tận dụng thành tựu của DT và chuyển đổi số
quốc gia là cần thiết. Từ dữ liệu một cuộc khảo sát cắt ngang với sự tham gia của 256 người
cao tuổi sống ở Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đã đánh giá mức độ thích ứng của người
cao tuối đối với DT hiện đại thông qua việc tiếp cận và sử dụng của họ ở một số phương
diện trong cuộc sống hàng ngày cho thấy:

- Người cao tuổi có tỉ lệ cao sử dụng các thiết bị DT hiện đại như điện thoại thơng
minh, máy vi tính, laptop, ipad hay tivi có kết nối Intemet/Wifí. Mục đích của việc sử dụng

các DT này chú yếu để thúc đẩy tương tác và cố kết với xã hội, thành viên trong gia đình
vốn bị suy giảm khi càng về già. Các yếu tố tâm lý-xã hội hay sinh học chính là rào cản lớn
để người cao tuổi thích ứng, sử dụng các DT hiện đại.

- Người cao tuổi chưa có nhiều cơ hội, điều kiện để tiếp cận và sử dụng các ứng dụng
DT để chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần của họ, trừ một số ứng dụng giải quyết các
khó khăn của họ trong đại dịch Covid-19.

- Người cao tuổi thường xuyên sử dụng mạng xã hội, nhiều nhất là Facebook và Zalo.
Mục đích chủ yếu nhất vẫn là cập nhật, theo dõi thông tin, giải trí hay nghe/gọi. Mạng xã
hội cùng với các tiện ích của DT đã tạo ra không gian sinh hoạt, giúp thiết lập và mở rộng
mạng lưới xã hội cho người cao tuổi trong không gian số bên cạnh thế giới thực, giúp giải
quyết các rủi ro về tâm lý và kéo giảm cô lập xã hội vốn thường thấy khi về già.

Tuy vậy, điều này khơng có nghĩa là người cao tuổi khơng quan tâm hay khơng u
thích các hoạt động trong thế giới thực tại. Nghiên cứu cho thấy, người cao tuổi đang có sự
thích ứng linh hoạt đối với q trình chuyển đổi số và sử dụng DT để cải thiện an sinh. Một
mặt, họ nhanh chóng chấp nhận và sử dụng DT hiện đại, phù hợp thể hiện qua sở thích:
"đọc báo mạng, báo điện tử”-, “livestream nói chun trước công chủng” hay “xem phim,
nghe nhạc trên Internet”. Mặt khác, họ cũng dành nhiều sự quan tâm đến các hoạt động
yêu thích khác trong thế giới thực tại như "uổng trà ”, "sảng tác thơ ca ” và tương tác xã
hội với bạn bè, người thân,... một cách trực tiếp.

Nghiên cứu cũng cho thấy, người cao tuổi có thái độ ủng hộ, đồng tình cao với việc
áp dụng DT hiện đại đế chăm sóc sức khỏe và cải thiện chất lượng cuộc sống của ban thân
họ. Phần đa người cao tuổi được khảo sát đều đánh giá tác động tích cực của DT trong cải
thiện chất lượng cuộc sống như giúp cuộc sống họ “thuận tiện hơn”, “vui vẻ hơn” và “hài
lòng hơn”. Các ý kiến trái chiều, đánh giá tiêu cực về vai trị của DT tuy có nhưng chiếm tỉ
lệ thấp. Nhu cầu được tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ chăm sóc sức klioẻ của người cao tuổi
tại Thành phố Hồ Chí Minh thơng qua các loại DT hiện đại là có cơ sở. Để đáp ứng yêu

cầu này, cần sớm điều chỉnh hợp lý về mặt cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý về chính
sách đối với người cao tuổi gắn với bối cảnh chuyển đổi số hiện nay ở Việt Nam.

30 Người cao tuổi và công nghệ số ở Thành phố Hồ Chi Minh

Tài liệu tham khảo

Baecker, R., Sellen, K., Crosskey, s., Boscart, V., & Barbosa Neves, B. 2014. Technology to reduce social
isolation and loneliness. In Proceedings of the 16th international ACM SIGACCESS conference on
Computers & accessibility (pp. 27-34).

Barbosa Neves, B., Franz, R., Judges, R., Beermann, c., & Baecker, R. 2019. Can digital technology enhance
social connectedness among older adults? A feasibility study. Journal of Applied
Gerontology, 38(1), 49-72.

Bộ Thông tin và Truyền thơng. 2021. cẩm nang chuyển đổi số (tái bản có chinh sửa, cập nhật, bố sung năm
2021). Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

Bemelmans, R., Gelderblom, G. J., Jonker, p., & De Witte, L. 2012. Socially assistive robots in elderly care:
a systematic review into effects and effectiveness. Journal of the American Medical Directors
Association, 13(2), 114-120.

Briley, M., & Moret, c. 2010. Improvement of social adaptation in depression with serotonin and
norepinephrine reuptake inhibitors. Neuropsychiatric disease and treatment. No. 6, 647.

Broekens, J., Heerink, M., & Rosendal, H. 2009. Assistive social robots in elderly care: a
review. Gerontechnology, 8(2), 94-103.

Carvalho, D., Bessa, M., Oliveira, L., Guedes, c., Peres, E., & Magalhães, L. 2012. New interaction
paradigms to fight the digital divide: a pilot case study regarding multi-touch technology. Procedia

Computer Science, 14, 128-137.

Cesta, A.; Cortellessa, G.; Giuliani, M.V.; Pecora, F.; Scopelliti, M.; Tiberio, L. 2007. Psychological
implications of domestic assistive technology for the elderly. PsychNology J. No. 5, 229-252.

Choi, N. G., & DiNitto, D. M. 2013. The digital divide among low-income homebound older adults: Internet
use patterns, eHealth literacy, and attitudes toward computer/Intemet use. Journal of medical
Internet research, 15(5), e93.

Chow, N. 2006. The practice of filial piety and its impact on long-term care policies for elderly people in
Asian Chinese communities. Asian Journal of Gerontology & Geriatrics, 1(1), 31-35.

Cotten, s. R., Anderson, w. A., & McCullough, B. M. 2013. Impact of internet use on loneliness and contact
with others among older adults: cross-sectional analysis. Journal of medical Internet
research, 15(2), e39.

Cotten, s. R., Francis, J., Kadylak, T., Rikard, R. V., Huang, T., Ball, c., & DeCook, J. 2016 (July). A tale
of two divides: Technology experiences among racially and socioeconomically diverse older adults.
In International Conference on Human Aspects of IT for the Aged Population (pp. 167-177).
Springer, Cham.

Cotten, s. R., McCullough, B., & Adams, R. 2011. Technological influences on social ties across the
lifespan. Handbook oflifespan psychology, 647-671.

Ferro, E., Dwivedi, Y. K., Gil-Garcia, J. R., & Williams, M. D (Eds.). 2009. Handbook of Research on
Overcoming Digital Divides: Constructing an Equitable and Competitive Information Society:
Constructing an Equitable and Competitive Information Society. IGI Global.

Francis, J., Ball, c., Kadylak, T., & Cotten, s. R. 2019. Aging in the digital age: Conceptualizing technology
adoption and digital inequalities. In Ageing and digital technology (pp. 35-49). Springer, Singapore.


Francis, J., Kadylak, T., Cotten, s. R., & Rikard, R. V. 2016. When it comes to depression, ICT use matters:
A longitudinal analysis of the effect of ICT use and mattering on depression among older adults.
In International Conference on Human-Computer Interaction (pp. 301-306). Springer, Cham.

Hill, R., Betts, L. R., & Gardner, s. E. 2015. Older adults’ experiences and perceptions of digital technology:
(Dis) empowerment, wellbeing, and inclusion. Computers in Human Behavior, 48, 415-423.

Nguyền Hữu Hoàng 31

Hoang, N. H. 2020b. Formation and Development of Policies to Facilitate the Improvement of Elderly
Persons in Vietnam, Contemporary Problems of Social Work. Vol. 6. No. 4 (24). 67-73. doi
10.17922/2412-5466-2020-6-4-67-7

Hoang, N. H. 2021 a. “Digital Society”, “Super Smart Society”: Some Impacts on Management and
Society in Vietnam. Contemporary Problems of Social Work. Vol. 7. No. 1 (25), 99-106. Doi
10.17922/2412-5466-2021-7-1 -99-106.

Hội Người cao tuổi Việt Nam. 2020. Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình hành động quốc gia vi người
cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012-2020. Hà Nội, Việt Nam.

Iwasaki, N. 2013. Usability of ICT applications for elderly people in disaster reduction. Journal of E-
Governance, 36(2), 73-78.

Kadylak, T., Makki, T. w., Francis, J., Cotten, s. R., Rikard, R. V., & Sah, Y. J. 2018. Disrupted copresence:
Older adults’ views on mobile phone use during face-to-face interactions. Mobile Media &
Communication, 6(3), 331-349.

Kerănen, N. s., Kangas, M., Immonen, M., Similă, H., Enwald, H., Korpelainen, R., & Jamsa, T. 2017. Use
of information and communication technologies among older people with and without frailty: A

population-based survey. Journal ofmedical Internet research, 19(2), e5507.

Macionis, J. John. 1987. Xã hội học (Tran Nhật Tân dịch). Nxb Thanh niên,
Hà Nội.

Mason, M., Sĩnclaứ, D., & Berry, c. 2012. Nudge Or Compel?: Can Behavioural Economics Tackle the
Digital Exclusion ofOlder People?.

Melkas, H. (2011. Effective gerontechnology use in elderly care work: From potholes to innovation
opportunities. In The silver market phenomenon (pp. 435-449). Springer, Berlin, Heidelberg.

Mostaghel, R. 2016. Innovation and technology for the elderly: Systematic literature review. Journal of
Business Research, 69(11), 4896-4900.

Nikou, s. 2015. Mobile technology and forgotten consumers: the young-elderly. International Journal of
Consumer Studies, 39(4), 294-304.

Nunnaly, J. c. 1978. Psyochmetric theory. New York: McGraw-Hill. Offir, B. & Katz, YJ(1990). The learning
curve model for analyzing the cost-effectiveness of a training system. Education and
Computing, 6(1-2), 161-164.

Peterson, R. A. 1994. A meta-analysis of Cronbach's coefficient alpha. Journal ofconsumer research, 21(2),
381-391.

Popescu, D., Pitic, D„ & Dragomir, D. 2020. Elderly Training For Using Digital Technologies: A Literature
Review And An Empirical Research In North Western Romania. In Proceedings of the
INTERNATIONAL MANAGEMENT CONFERENCE. Faculty of Management, Academy of
Economic Studies, Bucharest, Romania, tr. 251.

Piillũm, E., & Akyil, R. Q. 2017. Loneliness and social isolation among elderly people. Meandros Medical

and Dental Journal, 18(3), 158.

Simone De Beauvoir. 1973. Tuổi già, tập 1 (Nguyễn Trọng Bình dịch). Nxb Phụ nữ ấn hành, Hà Nội.

Skymne, c., Dahlin-Ivanoff, s., Claesson, L., & Eklund, K. 2012. Getting used to assistive devices:
ambivalent experiences by frail elderly persons. Scandinavian Journal of Occupational
Therapy, 19(2), 194-203.

Tong cục Thong kê Việt Nam. 2021. Tong điều tra dân so và nhà ở năm 2019: Già hoả dân số và người cao
tuổi ở Việt Nam. Nxb Thống kê, Hà Nội.

UNFPA. 2011. Già hoà dân số và người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị
chính sách. Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam. Hà Nội.

32 Người cao tuồi và công nghệ số ở Thành phố Hồ Chi Minh

United Nations. 2006. World Population Prospects: The 2006 Revision. United Nations, New York.

United Nations. 2009. World population ageing [online]. New York. Available: http://
www.un.org/esa/population/publications/WPA2009/WPA2009_WorkingPaper.pdf

Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á (ERIA), Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triền (PHAD). 2020.
Người cao tuổi và sức khỏe tại Việt Nam. Nxb Lao động. ElàNội. tr. 144-146.

VNCA & UNFPA. 2019. Hướng tới chính sách quốc gia tồn diện thích ứng với già hoả dán số ở Việt Nam.
Nxb Thống kê, Hà Nội.

Vroman, K. G., Arthanat, s., & Lysack, c. 2015. “Who over 65 is online?” Older adults’ dispositions toward
information communication technology. Computers in Human Behavior, 43, 156-166.
/>

WHO. 2020. Decade ofHealthy Ageing: Baseline Report. World Health Organization. Geneva, tr. 2.
Winstead, V., Anderson, w. A., Yost, E. A., Cotton, s. R., Warr, A., & Berkowsky, R. w. 2013. You can

teach an old dog new tricks: A qualitative analysis of how residents of senior living communities
may use the web to overcome spatial and social barriers. Journal ofApplied Gerontology, 32, 540-
560. />

×