Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

Luận văn ThS BCH - Báo chí với phát triển kinh tế biển đảo miền Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.96 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với đường bờ biền dài 3.260km, gồm nhiều đảo và quần đảo, có trữ
lượng lớn về hải sản, khống sản, dầu mỏ, có vị trí chiến lược về giao thơng,
quốc phịng... biển đảo nước ta có tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế. Đặc
biệt, thế kỷ XXI - Thế kỷ của biển và đại dương - Thế kỷ tiến ra biển của lồi
người thì Đảng và Nhà nước càng coi trọng việc phát huy thế mạnh của biển
đảo để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần 4, khóa X đã đề ra Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
với quan điểm: “Nước ta phải trở thành quốc gia giàu mạnh về biển, làm
giàu từ biển”, “Tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với
tầm nhìn dài hạn”, hướng tới đạt mục tiêu kinh tế trên biển và ven biển đóng
góp 53 – 55% GDP cả nước.

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 cũng khẳng định vùng dun
hải ven biển đóng vai trị là động lực, ngòi nổ phát triển kinh tế biển. Với
chiều dài gần 1.800km kéo dài từ Thanh Hóa đến Bình Thuận (chiếm 50% số
tỉnh trong cả nước có bờ biển), diện tích vùng lãnh hải khoảng 300.000km2,
có nhiều đảo lớn, có trữ lượng lớn về hải sản, khoáng sản, dầu mỏ, có vị trí
chiến lược về giao thơng, quốc phịng...biển đảo miền Trung có vai trị hết sức
to lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh đó, biển đảo miền Trung có vai trị như là “cửa ngõ”, có vị
thế rất quan trọng về an ninh - quốc phịng; nhất là hai quần đảo lớn Hồng Sa
(Đà Nẵng), Trường Sa (Khánh Hịa) đang nằm trong tình trạng tranh chấp
giữa các nước có quyền lợi trên Biển Đơng rất gay gắt. Vì vậy, vấn đề chủ
quyền biển đảo tại khu vực này được Đảng, Nhà nước cực kỳ quan tâm. Và
để bảo vệ chủ quyền vùng biển, ngồi sự kết hợp sức mạnh quốc phịng, sức
mạnh đồn kết tồn dân,... cịn có sự đóng góp rất lớn của kinh tế biển đảo.


Việc phát triển kinh tế biển đảo nói chung và ở miền Trung nói riêng là phù

1

hợp với xu thế hiện nay. Điều này sẽ giúp cho miền Trung khai thác hiệu quả
tiềm năng của khu vực; ngày càng giàu mạnh về kinh tế; tăng cường sức
mạnh an ninh - quốc phòng.

Với tư cách là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời
sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội; là
diễn đàn của nhân dân, báo chí có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội cả nước nói chung và miền Trung nói riêng. Vì vậy, thực hiện Chiến
lược biển đến năm 2020, thực thi Luật Biển Việt Nam có hiệu quả, thúc đẩy
kinh tế biển đảo miền Trung phát triển không thể thiếu cơng cụ đắc lực - báo
chí. Báo chí là cơng cụ hữu hiệu nhất giúp người dân nhận thức về vai trò,
tầm quan trọng của biển đảo, phát triển kinh tế biển đảo ở miền Trung hiện
nay.

Đặc biệt, trong tình hình tranh chấp căng thẳng ở Biển Đông hiện nay,
nhất là các hành động khiêu khích, vi phạm chủ quyền vùng biển nước ta của
Trung Quốc thì vai trị báo chí càng thiết thực hơn bao giờ hết. Báo chí là vũ
khí đấu tranh hữu hiệu về mặt chính trị, định hướng dư luận, khơi dậy và
khuyến khích tinh thần sản xuất của các ngành kinh tế biển: đánh bắt, đóng và
sữa chữa tàu biển..., là cơng cụ đồn kết tồn Đảng, tồn dân đấu tranh bảo vệ
chủ quyền vùng biển đảo.

Nhận thức điều đó, tác giả cho rằng, việc nghiên cứu vai trị, thực trạng
thơng tin của báo chí cũng như tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, phát
huy vai trò của báo chí trong phát triển kinh tế biển đảo miền Trung là hết sức
cần thiết và cấp thiết. Đó là nguyên nhân tác giả đã chọn nghiên cứu vấn đề:

“Báo chí với phát triển kinh tế biển đảo miền Trung”.

2. Tình hình nghiên cứu

Hiện nay, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về kinh tế biển đảo nói
chung và kinh tế biển đảo miền Trung nói riêng. Riêng mảng đề tài báo chí

2

thông tin, truyền thông về phát triển kinh tế biển đảo miền Trung vẫn còn rất
mới.

Liên quan đến đề tài, có thể kể đến: Luận văn Truyền hình với vấn đề
tuyên truyền về Biển Đảo của tác giả Hồ Thị Giang; luận văn Tuyên truyền về
biển đảo trên báo điện tử Việt Nam hiên nay (khảo sát Dangcongsan.vn,
Tuoitre.vn và VNexpress.net từ tháng 1-12/2013) của tác giả Vương Thị Hà.
Tuy nhiên, hai luận văn trên chỉ đề cập đến khía cạnh tuyên truyền của truyền
hình, báo điện tử và nội dung tuyên truyền của đề tài rộng hơn so với để tài
chúng tôi đang nghiên cứu.

Liên quan đến đề tài cịn có luận văn Thạc sĩ Vai trị của báo chí ngành
giao thơng vận tải thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước. Vũ Hồng Nhung - tác giả luận văn đánh giá: Những vấn đề như cảng
biển, vận tải biển, dịch vụ hàng hải, pháp luật, an toàn hàng hải là những vấn
đề được báo Giao thông Vận tải quan tâm thường xuyên đăng tải. Bên cạnh
đó, tác giả cũng kiến nghị: Tạp chí Hàng hải Việt Nam phải tập trung vào một
số dự án lớn mang tính chất quyết định bước ngoặt của sự phát triển ngành
hàng hải như: phát triển đội tàu, quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt
Nam…. Tuy nhiên, luận văn chỉ dừng lại đánh giá vai trị báo chí với ngành
hàng hải chứ khơng đi vào nghiên cứu vai trị báo chí với phát triển kinh tế

biển đảo nói chung.

Trong khi đó, luận văn thạc sĩ Đổi mới và nâng cao chất lượng các
chương trình phát thanh kinh tế của Đài Tiếng nói Việt Nam đề cập đến tác
động của các chương trình phát thanh kinh tế trên VOV với vấn đề kinh tế
biển đảo: phản ánh nhanh nhạy, toàn diện từ dự báo thời tiết biển, con nước,
ngư trường đến nuôi trồng, khai thác, tiêu dùng, xuất khẩu thủy sản; phát
hiện, xây dựng các mơ hình, loại hình, các điển hình tiên tiến về ni trồng,
đánh bắt thủy sản; phản ánh quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
biển đảo; tổng kết rút kinh nghiệm để từng bước phát triển kinh tế biển cũng

3

như ngành hải sản. Tuy nhiên, dung lượng luận văn dành cho vấn đề phát
triển kinh tế biển đảo rất khiêm tốn. Trong tổng số 125 trang, luận văn, tác giả
Phạm Nguyên Long dành chưa tới nửa trang để đánh giá vai trị chương trình
Ngư dân và thủy sản trên VOV với phát triển kinh tế biển đảo nói chung và
ngành hải sản nói riêng.

Đặc biệt, luận văn Thạc sĩ Nâng cao chất lượng chương trình về biển
đảo trên sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam đã đề cập một cách khái
qt vai trị các chương trình về biển đảo trên VOV1: ngồi việc tun truyền
vị trị, vai trị của biển, đảo; thông tin về vấn đề chủ quyền lãnh hải còn tuyên
truyền, giới thiệu những thành tựu phát triển kinh tế biển, đảo của Tổ quốc,
từng địa phương với các ngành và cả nước, các thành phần kinh tế tham gia
phát triển kinh tế biển. Bên cạnh đó, Nguyễn Thị Hòa - tác giả luận văn cũng
kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả của chương trình về biển đảo Việt
Nam: tuyên truyền về những định hướng cơ bản phát triển kinh tế biển gắn
liền với việc bảo vệ môi trường – hệ sinh thái biển; chú trọng nhân rộng các
điển hình tiên tiến, các nhân tố mới trong phát triển kinh tế, an sinh – xã hội,

các mơ hình, cách làm hiệu quả, các ngành kinh tế tổng hợp trên biển…; nâng
cao nhận thức của nhân dân về khó khăn và lợi thế của biển đảo để cổ vũ tinh
thần vượt khó, quyết chí làm giàu. Tuy nhiên, luận văn chỉ dừng lại ở mức độ
điểm qua nội dung chứ khơng đi vào phân tích vai trị của các chương trình về
biển đảo trên hệ VOV1 với phát triển kinh tế biển đảo.

Trong khi đó, Bùi Ngọc Tồn - tác giả luận văn thạc sĩ Tuyên truyền
phát triển kinh tế biển của các kênh truyền hình khu vực Bắc Trung Bộ đã đề
cập cụ thể vai trị của các kênh truyền hình địa phương ở khu vực Bắc Trung
Bộ trong việc tuyên truyền chính sách phát triển kinh tế biển. Tác giả đã rút ra
được những thành công, hạn chế và đề xuất các giải pháp để phát huy vai trò
của các kênh truyền hình trên trong hoạt động tuyên truyền phát triển kinh tế
biển. Tuy nhiên, luận văn chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá vai trò tuyên truyền

4

của các 3 kênh truyền hình địa phương: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở khu
vực Bắc Trung bộ chứ chưa đề cập hết các chức năng của kênh truyền hình
nói chung và các kênh truyền hình địa phương trên nói riêng.

Thực trạng trên cho thấy, có rất ít cơng trình nghiên cứu liên quan đến
vai trị của báo chí với phát triển kinh tế biển đảo. Những cơng trình có liên
quan cũng chỉ dừng lại ở mức độ đề cập, đánh giá một cách sơ lược vai trị
của các chương trình phát thanh, truyền hình, các tờ báo và tạp chí với phát
triển kinh tế biển đảo nói chung và một số ngành kinh tế biển đảo nói riêng
trên cấp độ cả nước hoặc ở khu vực nhỏ. Từ đây có thể khẳng định, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách cụ thể và sâu sắc về thực tế thực hiện
nhiệm vụ thơng tin, truyền thơng của báo chí (báo in) với phát triển kinh tế
biển đảo miền Trung. Vì vậy, luận văn Báo chí với phát triển kinh tế biển đảo
miền Trung là một cơng trình nghiên cứu bước đầu, độc lập và có tính thời sự.


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu thực tế báo chí (báo in) thực hiện nhiệm vụ thơng tin,
truyền thông đối với phát triển kinh tế biển đảo miền Trung; tìm ra những
thành cơng, hạn chế; đề xuất giải pháp phát huy vai trị của báo chí (báo in)
trong phát triển kinh tế biển đảo miền Trung.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn:

- Tìm hiểu lý luận về vai trị, chức năng, tác động của báo chí đến phát
triển kinh tế nói chung và kinh tế biển đảo nói riêng.

- Tìm hiểu vấn đề phát triển kinh tế biển đảo hiện nay ở miền Trung.
Trong đó, luận văn sẽ tập trung làm rõ tiềm năng, lợi thế của biển đảo miền
Trung trong phát triển kinh tế biển đảo; đường lối, quan điểm, chính sách của
Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế biển đảo miền Trung.

5

- Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức thơng tin tun truyền về
phát triển kinh tế biển đảo miền Trung qua khảo sát tin, bài trên Báo Nhân
Dân (BND), Báo Thanh Niên (BTN), Báo Tuổi Trẻ (BTT), Tạp chí Biển Việt
Nam (TCBVN), Báo Nghệ An (BNA), Báo Đà Nẵng (BĐN) và Báo Khánh
Hịa (BKH). Từ đó, tìm ra ưu, nhược điểm nội dung, hình thức thơng tin cũng
như đánh giá thành cơng và hạn chế về vai trị, chức năng báo chí (báo in)

trong hoạt động thơng tin về phát triển kinh tế biển đảo miền Trung.

- Nghiên cứu các chiến lược, chiến thuật truyền thông về phát triển
kinh tế biển đảo miền Trung trên báo chí (báo in).

- Từ thực tiễn nghiên cứu hoạt động thông tin, truyền thông, luận văn đi
đến đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trị báo chí (báo in)
trong phát triển kinh tế biển đảo miền Trung.

4. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế biển đảo miền Trung thể
hiện qua các tin, bài trên BND, BTN, BTT, TCBVN, BNA, BĐN, BKH.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát những tin, bài liên quan đến đề tài phát triển kinh tế biển đảo
miền Trung được đăng tải trên BND, BTN, BTT, BNA, BĐN, BKH, từ
01/2013 – 06/2014.
5. Cơ sở uận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tối sử dụng cơ sở lý luận
và phương pháp nghiên cứu như sau:
5.1 Cơ sở lý luận
- Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và Nhà nước về sự nghiệp thơng tin báo chí.

6

- Sử dụng những kiến thức cơ bản về cơ sở lý luận báo chí – truyền
thơng.

5.2 Phương pháp nghiên cứu


- Phân tích nội dung: Tác giả sử phương pháp này phục vụ việc nghiên
cứu nội dung thông tin phát triển kinh tế biển đảo miền Trung trên báo chí
(báo in); nghiên cứu lý luận báo chí cũng như chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế biển đảo miền Trung.

- Phương pháp định lượng: điều tra bằng bảng hỏi (anket), tiến hành tại
3/14 tỉnh thành miền Trung (Đà Nẵng, Nghệ An, Thừa Thiên Huế) với 300
phiếu: đối tượng điều tra: cán bộ, công chức, người lao động; mục đích: đánh
giá, đo các chỉ báo như bao nhiêu người biết thông tin về kinh tế biển đảo;
biết từ những nguồn nào; mức độ quan tâm,…. Từ đó, xây dựng giải pháp đẩy
mạnh công tác truyền thông để phát huy vai trò báo in với phát triển kinh tế
biển đảo miền Trung.

- Phương pháp định tính: tiến hành phỏng vấn sâu một số người đứng
đầu cơ quan báo in; các nhà báo có kinh nghiệm viết về đề tài kinh tế biển đảo
miền Trung. Phương pháp này giúp tác giả tiếp cận những quan điểm, chính
sách, định hướng thơng tin về phát triển kinh tế biển đảo ở các cơ quan báo
chí; tiếp cận những khó khăn, thuận lợi, kinh nghiệm, phương pháp khai thác
đề tài của các nhà báo. Từ đó, rút ra những kết luận về thực tiễn hoạt động
thông tin phát triển kinh tế biển đảo miền Trung của các cơ quan báo chí, nhà
báo; đề xuất giải pháp phát huy vai trị của báo chí với phát triển kinh tế biển
đảo miền Trung phù hợp và sát với thực tiễn.

- Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng một số phương pháp khác như tổng hợp,
thống kê, so sánh, phân loại...Tác giả sử dụng các phương pháp này phục vụ
cho việc thống kê số lượng tin, bài; phân loại các tin, bài theo nội dung và
hình thức; so sánh đối chiếu việc thực hiện thông tin, truyền thông về phát
triển kinh tế biển đảo miền Trung giữa các báo.


7

6. Ý nghĩa uận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận: Luận văn góp phần củng cố lý luận về vai trị báo chí đối
với kinh tế - xã hội; kết quả khảo sát thực trạng tin, bài về kinh tế biển đảo
miền Trung trên BND, BTN, BTT, TCBVN, BNA, BĐN, BKH là nguồn tài
liệu tham khảo cho các cơng trình nghiên cứu tiếp theo về vai trị báo chí với
các lĩnh vực kinh tế - xã hội, kinh tế biển đảo.
Về thực tiễn: Luận văn làm rõ cách thức vận dụng các học thuyết
truyền thông qua các tình huống, vấn đề cụ thể mà các tờ báo đã sử dụng
trong hoạt động thông tin về phát triển kinh tế biển đảo miền Trung; cung cấp
cái nhìn khái qt về vai trị và thực trạng thơng tin của báo in với phát triển
kinh tế biển đảo miền trung cho các cơ quan báo in, nhà báo để khắc phục
những tồn tại, khái thác, phát huy tốt hơn vai trò báo in trong phát triển kinh
tế biển đảo miền Trung.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
có 3 chương:
Chương 1: Quan hệ truyền thơng giữa báo chí và phát triển kinh tế biển
đảo.
Chương 2: Thực trạng thông tin của báo in với phát triển kinh tế biển
đảo miền Trung.
Chương 3: Giải pháp báo in về phát triển kinh tế biển đảo miền Trung.

8

Chương 1: QUAN HỆ TRUYỀN THƠNG GIỮA BÁO CHÍ VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ BIỂN ĐẢO MIỀN TRUNG

1.1 Khái niệm


1.1.1 Báo chí

Ở nước ta, thuật ngữ báo chí có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo từ
điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, báo chí là “báo và tạp chí; xuất bản
phẩm định kỳ (nói khái quát)”.[26, tr. 56]

Trong khi đó, tác giả Dương Xuân Sơn quan niệm báo chí là phương
tiện thơng đại chúng truyền tải thông tin các sự kiện, sự việc, hiện tượng đang
diễn ra trong hiện thực khách quan một cách nhanh chóng, chính xác và trung
thực đến đơng đảo cơng chúng, nhằm tích cực hóa đời sống thực tiễn.

Qua các định nghĩa trên về thuật ngữ báo chí, có thể thấy quan niệm
thứ nhất báo chí có thể hiểu là loại hình báo in; quan niệm thứ hai báo chí có
thể hiểu là bao gồm các loại hình báo chí.

Tổng hợp hai nhận định trên, tác giả Nguyễn Văn Dững cho rằng, báo
chí có thể hiểu theo 2 nghĩa. Theo nghĩa hẹp, báo chí được hiểu là những ấn
phẩm báo và tạp chí. Theo nghĩa rộng, báo chí bao gồm các loại hình: báo in
(báo giấy), phát thanh (báo nói), truyền hình (báo hình), báo điện tử (báo
mạng). Trong cuộc sống hàng ngày người ta hay đồng nhất báo chí với truyền
thơng đại chúng (TTĐC) nhưng thực ra báo chí chỉ là một phần mà thơi. Vì
vậy, chúng ta có thể hiểu báo chí là một bộ phận của TTĐC, nhưng là bộ phận
chiếm vị trí trung tâm, vai trị nền tảng và có khả năng quyết định tính chất,
khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động của TTĐC. Do đó,
trong nhiều trường hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền thơng đại chúng; và
ngược lại, nói đến TTĐC - trước hết phải nói đến báo chí.

Trong khuôn khổ luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu thực tế thực
hiện nhiệm vụ thông tin, truyền thông của báo in (chủ yếu là báo) với phát


9

triển kinh tế biển đảo miền Trung. Cụ thể, tác giả nghiên cứu 6 tờ báo: BND,
BTN, BTT, BNA, BĐN, BKH và một tạp chí là TCBVN.

1.1.2 Biển đảo

Trong từ điển tiếng Việt, biển là vùng nước mặn rộng lớn nói chung
trên bề mặt trái đất; phần đại dương ở ven đại lục, ít nhiều bị ngăn ra bởi đất
liền hoặc bởi những đảo. Trong khi đó, đại dương được hiểu là “biển lớn, tiếp
giáp với cả một châu hoặc một vùng lớn hơn”.[26, tr.300] Như vậy, biển chỉ
là một phần nhỏ của đại dương bị giới hạn bởi mép lục địa, các đảo và các
vùng cao của đáy.

Theo Luật Biển Việt Nam, Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh
hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác
định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước
của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, cụ thể:

- Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở
và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.

- Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra
phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của
Việt Nam.

- Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngồi lãnh hải

Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngồi của lãnh hải.

- Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và
nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ
đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngồi của rìa lục địa.
Trong trường hợp mép ngồi của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ
200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường

10

cơ sở. Cịn nếu mép ngồi của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ
đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài khơng q 350 hải lý tính từ
đường cơ sở hoặc khơng quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.

- Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải
Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính
từ đường cơ sở.

Trong khi đó, tại điều 121 của Cơng ước 1982 của Liên Hợp Quốc về
biển: “Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng
đất này vẫn ở trên mặt nước”.[ 50, tr.53] Còn quần đảo là một tập hợp các
đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần
tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.

Để được coi là đảo thì cần phải hội tụ các điều kiện sau đây:
- Nền nổi này phải gắn với đáy biển;
- Nền nổi này phải là nền đất và như đất liền (tàu thuyền bị thả trôi, các
vật thể tự nhiên di chuyển như các tảng băng...không được coi là đảo. Tuy
nhiên, cấu tạo từ bùn, san hô, cát, đất rắn, đá...khơng ảnh hưởng đến việc xác
định đó là đảo hay không).

- Đảo phải có nước bao bọc. Vì vậy, một đảo nối liền với bán đảo khi
thủy triều xuống thấp có thể làm mất tính đảo trong khi một đảo nối liền bởi
một cây cầu hay một đường hầm không làm mất tính đảo.
- Khi thủy triều lên, vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Điều này có
nghĩa loại bỏ tất cả các bãi cạn nửa chìm nửa nổi khỏi các định nghĩa về đảo.
1.1.3 Phát triển kinh tế biển đảo miền Trung
* Kinh tế biển đảo
Kinh tế biển là một lĩnh vực kinh tế đa ngành. Xã hội càng hiện đại thì
các ngành kinh tế biển càng đa dạng. Ở Việt Nam thời kỳ chưa có nhà nước

11

phong kiến độc lập tự chủ (đến 938), kinh tế biển “với hình thức săn bắt và
hái lượm, người Việt cổ đã sử dụng một số loại tài nguyên biển trong cuộc
sống của mình”;“lợi dụng thuỷ triều để trồng lúa hay giao thơng thương
mại”.[35, tr.179] Thời kỳ có nhà nước phong kiến độc lập tự chủ (938 -
1945): “Phát triển kinh tế biển của Việt Nam được phát triển chủ yếu vẫn là
khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có vừa phục vụ cho cuộc
sống, vừa để cúng tiến các bậc vua chúa, cống nạp và một phần cho thương
mại”.[35;tr.179] Thời kỳ này chủ yếu là đánh bắt hải sản, làm nước mắm,
nghề làm muối và nhất là việc giao thương đường biển được các triều phong
kiến chú trọng nhất là thời các chúa Nguyễn. Từ 1945 đến trước đổi mới
ngoài các ngành nghề lâu đời lúc này chú trọng đánh bắt hải sản tuy nhiên
phương tiện lạc hậu nên chủ yếu đánh bắt gần bờ. Từ đổi mới cho đến nay
“kinh tế biển đã được xây dựng với đầy đủ các lĩnh vực, bao gồm: 1) nghề cá
(đánh bắt, nuôi trồng và chế biến); 2) khai thác khống sản; 3) hàng hải
(đóng tàu, chun chở, xây dựng cảng); 4) du lịch và giải trí biển; 5) dịch vụ
biển (sản xuất các thiết bị, phương tiện làm việc trong biển); 6) an ninh -
quốc phòng (quản lý vùng biển)”. [35, tr.181]


Theo tác giả Phan Thị Yến Tuyết: “Kinh tế biển là khái niệm bao gồm
các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động liên quan trực tiếp
đến khai thác biển. Chủ thể của những hoạt động kinh tế, khai thác tài
nguyên trên biển, trên đất liền ven biển vùng biển - đảo là những cộng đồng
ngư dân và cư dân ven biển”. [ 36, tr.119]

Còn theo PGS.TS. Hồ Tấn Sang, kinh tế biển hiểu theo hai nghĩa rộng
và hẹp. Theo nghĩa hẹp, kinh tế biển bao gồm “Toàn bộ các hoạt động kinh tế
diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: 1. Kinh tế Hàng hải (vận tải biển và dịch vụ
cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. Khai thác Dầu khí
ngồi khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối; 6. Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu
nạn; và 7. Kinh tế đảo”. [29, tr.8] Trong khi đó, theo nghĩa rộng, kinh tế biển

12

bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và “các hoạt động
kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển đảo tuy không phải diễn ra trên
biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp
phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: 1. Đóng
và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực kinh
tế hàng hải); 2. Cơng nghiệp khai thác khống sản biển và chế biến dầu khí;
3. Cơng nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5. Thông tin
liên lạc (biển); 6. Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực
phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường
biển”. [29, tr.8] Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi quy ước khái niệm kinh
tế biển đảo hiểu theo nghĩa rộng, là lĩnh vực kinh tế biển bao gồm cả các hoạt
động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến
khai thác biển ở dải đất liền ven biển.

* Phát triển kinh tế biển đảo


Ngày nay, thuật ngữ phát triển được sử dụng rất phổ biến cho hầu hết
lĩnh vực, ngành nghề. Theo từ điển Tiếng Việt, phát triển là “Biến đổi hoặc
làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến
phức tạp”. [26;tr.797]

Từ khái niệm về phát triển và kinh tế biển đảo, có thể hiểu phát triển
kinh tế biển đảo là quá trình vận động theo hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hoạt kinh tế trên
biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dãi đất
liền ven biển trong một chu kỳ hay một giai đoạn nhất định của thực tiễn.

* Phát triển kinh tế biển đảo miền Trung

Miền trung bao gồm 14 tỉnh, thành từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, có
vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
và an ninh - quốc phòng đối với nước ta. Các tỉnh, thành miền Trung đều có
biển đảo ở phía đơng, đồng bằng nhỏ hẹp và trung du miền núi ở phía tây.

13

Vì vậy, nói phát triển kinh tế biển đảo miền trung có nghĩa là quá trình
vận động theo hướng tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hoạt kinh tế trên biển và các hoạt động kinh
tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dãi đất liền ven biển trong một chu
kỳ hay một giai đoạn nhất định của thực tiễn ở khu vực miền Trung gồm 14
tỉnh, thành từ Thanh Hóa đến Bình Thuận.

1.2 Vai trị của báo chí trong việc thơng tin về miền Trung


1.2.1 Đối với chính trị - kinh tế - văn hóa

Báo chí có tầm quan trọng, tác động rất lớn đối với chính trị - kinh tế -
văn hóa xã hội của nước ta. Miền Trung - “khúc ruột” của cả nước cũng chịu
những tác động ấy từ báo chí.

Trước hết, vai trị của báo chí là những gì báo chí có thể làm được, tức
là nói tới chức năng báo chí: thơng tin - giao tiếp; quản lý, giám sát và phản
biện xã hội...Báo chí thực hiện được các vai trò, chức năng trên la do báo chí
có những ưu điểm, đặc trưng riêng biệt mà các loại truyền thơng khác khơng
thể thay thế được: tính đại chúng, tính thời sự, ý nghĩa vơ cùng to lớn của
thơng tin…Chính những ưu điểm, đặc trưng riêng này mà báo chí có vai trị
rất quan trọng: là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận; công cụ
hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải cách xã hội; phương tiện cung cấp
thông tin, kiến thức và giải trí cho người dân;…

Ở nước ta, có nhiều quan niệm về vai trị, chức năng báo chí. Trong
cuốn Truyền thơng đại chúng, tác giả Tạ Ngọc Tấn khẳng định: vai trò, chức
năng xã hội của truyền thơng đại chúng gồm có chức năng tư tưởng; chức
năng giám sát và quản lý xã hội; chức năng văn hóa; các chức năng khác của
truyền thơng đại chúng (kinh doanh, giải trí). Trong khi đó, tác giả Dương
Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang lại quan niệm báo chí có 3 chức
năng cơ bản: chức năng giáo dục tư tưởng; chức năng quản lý và giám sát xã
hội; chức năng phát triển văn hóa và giải trí. Thể hiện một cách đầy đủ và phù

14

hợp với thực tiễn báo chí nước ta hiện nay, tác giả Nguyễn Văn Dững cho
rằng, báo chí có 5 chức năng: chức năng thông tin - giao tiếp; chức năng tư
tưởng; chức năng khai sáng, giải trí; chức năng quản lý, giám sát và phản biện

xã hội; chức năng kinh tế - dịch vụ.

Dựa trên chức năng, khả năng mà báo chí có thể thực hiện được, những
nhà quản lý đề ra nhiệm vụ cho báo chí với nguyên tắc: giữa nhiệm vụ đặt ra
và chức năng báo chí phải phù hợp với nhau; tránh trường hợp đề ra nhiệm vụ
một cách áp đặt với báo chí, trong khi báo chí khơng có khả năng, khơng đủ
điều kiện để thực hiện những nhiệm vụ đó. Dựa trên những ưu điểm vốn có
của báo chí chúng ta có thể xác định nhiệm vụ của báo chí đối với chính trị -
kinh tế - văn hóa cả nước nói chung và miền Trung nói riêng như sau:

- Về chính trị: Hướng dẫn nhận thức và hành động cho cơng chúng;
củng cố, phục vụ duy trì chế độ; cơng cụ, vũ khí quan trọng trên mặt trận tư
tưởng – văn hóa...

- Về kinh tế: Đưa thông tin sản phẩm đến với người tiêu dùng, doanh
nghiệp; thúc đẩy tiêu dùng sản xuất; thông tin kịp thời tạo nên sức mạnh cạnh
tranh; hướng dẫn thị trường; hướng dẫn việc áp dụng khoa học kỹ thuật; giới
thiệu mơ hình sản xuất tiến tiến....

- Về văn hóa xã hội: Tiếp thu làm giàu vốn tri thức văn hóa; tiếp nhận
nhiều tri thức văn hóa trên thế giới; làm cho mọi người ngày càng hiểu nhau,
xích lại gần nhau hơn, học tập tiếp thu, làm giàu cho văn hóa mình; nâng cao
nhận thức thẩm mỹ, giáo dục, giải trí đơi với nhân dân; tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; giữ gìn phát huy bản sắc truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc; truyền bá những tiêu chuẩn và các giá trị tinh thần đã được xã hội công
nhận; xây dựng ý thức công dân, chống lại những quan niệm và hành động
lệch lạc; đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực và tệ nạn xã hội;...

1.2.2 Đối với phát triển kinh tế biển đảo


15

Kinh tế biển đảo Việt Nam nói chung và kinh tế biển đảo miền Trung
nói riêng là một bộ phận của nền kinh tế. Vì vậy, báo chí với các chức năng
và vai trị rất lớn đối với chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội là cơng cụ đắc
lực thúc đẩy phát triển kinh tế biển đảo miền Trung. Tuy nhiên, hiện nay chưa
có các bài viết đề cập vai trị báo chí với phát triển kinh tế biển đảo. Vì vậy,
việc nhận định vai trị của báo chí với phát triển kinh tế biển đảo miền Trung
chúng tôi dựa trên cơ sở các quan điểm về báo chí với phát triển kinh tế để
suy rộng ra vai trò của báo chí với phát triển kinh tế biển đảo miền Trung.
Bên cạnh đó, chúng tơi cịn dựa trên các nhận định của các nhà báo đứng đầu
các cơ quan báo chí về vai trị báo chí trong lĩnh vực này.

Trước hết, báo chí là cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa
doanh nghiệp và người tiêu dùng. Nguyễn Thị Thoa - tác giả luận văn thạc sĩ
Báo chí tham gia tích cực đấu tranh bảo vệ chủ quyền kinh tế đất nước nhận
định về vai trị báo chí trong q trình đổi mới: báo chí đã kịp thời phản ánh
các vấn đề và các kiến nghị của các doanh nghiệp để các cơ quan hoạch định
chính sách vĩ mơ của Đảng và Nhà nước xem xét điều chỉnh, đổi mới hệ
thống chính sách và cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt
động; đồng thời, báo chí cũng phổ biến kịp thời các quyết sách của các cơ
quan quản lý tới các doanh nghiệp. Còn tác giả Đinh Văn

Hường, trong bài“ Hoạt động và đóng góp kinh tế của báo in đối với
kinh tế - xã hội Việt Nam trong nền kinh tế thị trường” cho rằng: một nền
kinh tế nếu thiếu thơng tin hoặc thơng tin sai, chậm, khơng chính xác và minh
bạch sẽ dẫn đến lạc hậu, trì trệ, sản xuất đình đốn, lưu thơng ách tắc, cung cầu
khơng ăn nhập…Bên cạnh đó, báo chí có thể phát hiện, cổ vũ một ý tưởng
kinh doanh, là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu thụ.


Thứ hai, báo chí là kênh quảng bá, nhân rộng các mơ hình kinh tế hiệu
quả. Trong luận văn Báo chí tham gia tích cực đấu tranh bảo vệ chủ quyền
kinh tế đất nước, tác giả Nguyễn Thị Thoa cho rằng, một trong những vai trò

16

quan trọng của báo chí trong q trình đổi mới đất nước là báo chí đã góp
phần phát hiện, tổng kết và phổ biến các mơ hình đổi mới ra phạm vi tồn
quốc. Cịn Nhà báo Nguyễn Thế Thịnh - Trưởng ban Đại diện BTN tại khu
vực miền Trung cho rằng (phụ lục phỏng vấn sâu 1.1): Báo chí có vài trò rất
quan trọng đối với phát triển kinh tế biển đảo miền Trung, ở chỗ phát hiện mơ
hình tổ chức tốt, từ đó phản ánh lên mặt báo để các nơi khác học tập, nhân
rộng; ngược lại, phát hiện những vấn đề bất cập, từ đó để các nơi rút kinh
nghiệm.

Thứ ba, báo chí là cơng cụ đấu tranh chống tiêu cực, tư vấn cho các cơ
quan quản lý biện pháp tháo gỡ những tồn tài bất cập trong lĩnh vực kinh tế.
Trong bài “Báo chí và các vấn đề thời sự kinh tế chủ yếu trong giai đoạn
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”( trong cuốn Báo chí truyền thơng và
kinh tế, văn hóa, xã hội - cơng trình tập hợp nhiều bài viết của tác giả Lê
Thanh Bình về vai trị báo chí với kinh tế, văn hóa, xã hội), tác giả nhấn
mạnh: báo chí khơng chỉ thơng tin, phân tích các chính sách kinh tế - xã hội
cả nước, báo chí viết về kinh tế phải thể hiện những điểm chưa phù hợp giữa
chính sách và thực tiễn để bổ sung hồn thiện các chính sách; báo chí cịn có
nhiệm vụ góp phần hồn chỉnh luật pháp (đặc biệt là luật pháp liên quan đến
kinh tế). Còn Nhà báo Uông Thái Biểu - Trưởng ban Đại diện BND tại khu
vực miền Trung - Tây Nguyên cho rằng (phụ lục phỏng vấn sâu 1.2): Vai trị
của báo chí đối với sự nghiệp phát triển kinh tế biển đảo là phát hiện những
vấn đề nan giải, nổi cộm, tiêu cực hay những bất cập trong hệ thống chính
sách. Từ đó, giúp cơ quan chức năng, tham mưu cập nhật thông tin, đúc kết

thực tiễn, tìm biện pháp tháo gỡ, xử lý…Hay trong Tài liệu Hội thảo quốc tế:
Đóng góp của Khoa học xã hội nhân văn trong phát triển kinh tế (2011), tác
giả Đinh Văn Hường với bài“ Hoạt động và đóng góp kinh tế của báo in đối
với kinh tế - xã hội Việt Nam trong nền kinh tế thị trường”, tác giả Đinh Văn
Hường nhận định: Báo chí đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực trong kinh

17

tế như: tham ơ, lãng phí, tham nhũng, đầu cơ, hối lộ, trốn thuế, làm hàng giả,
hàng nhái, gian lận thương mại…

Thứ tư, báo chí là cơng cụ tun truyền chính sách, cổ vũ, khuyến
khích các hoạt động kinh tế biển đảo miền Trung. Nhận định về vai trị này,
Nhà báo ng Thái Biểu - Trưởng ban Đại diện BND tại khu vực miền Trung
- Tây Nguyên cho rằng (phụ lục phỏng vấn sâu 1.2): Vai trị của báo chí đối
với sự nghiệp phát triển kinh tế biển đảo là công cụ cổ vũ, động viên các địa
phương, đơn vị, các doanh nghiệp liên quan đến kinh tế biển đảo và bà con
ngư dân trong việc phát huy tiềm năng, thế mạnh, phát triển bền vững kinh tế
biển đảo; tuyên truyền sâu, rộng, đúng đối tượng về những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với kinh tế biển đảo.

Trên đây là những tác động cơ bản của báo chí đối với phát triển kinh
tế nói chung và kinh tế biển đảo miền Trung nói riêng. Với tư cách là một bộ
phận của nền kinh tế nước ta hiện nay, để thúc đẩy kinh tế biển đảo nói chung
và kinh tế biển đảo miền Trung nói riêng khơng thể thiếu cơng cụ hỗ trợ đắc
lực - báo chí.

1.2.3 Báo in - một trong bốn loại hình báo chí thơng tin về phát triển
kinh tế biển đảo


Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ nghiên cứu báo in ( chủ yếu là
báo). Vì vậy, tác giả giới thiệu đặc điểm của báo in để làm cơ sở lý luận cho
đề tài.

Báo in là một trong 4 loại hình báo chí hiện nay ở nước ta (báo phát
thanh, báo truyền hình, báo mạng). Đây là loại hình báo chí ra đời sớm nhất
và có nhiều cách gọi: báo in, báo giấy, báo viết.

Theo Luật Báo chí Việt Nam năm 1999, báo in gồm: báo, tạp chí, bản
tin thời sự, bản tin thông tấn.

18

Còn theo tác giả Dương Xuân Sơn: “Báo in là ấn phẩm định kỳ chuyển
tải nội dung thơng tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã
hội thông qua các công cụ như máy in, mực in và giấy in”. [32, tr. 77]

Mỗi loại hình báo chí đều có những ưu nhược điểm. Với những đặc
trưng, ưu điểm của báo in dưới đây là một trong những lý do tác giả nghiên
cứu thực tế thực hiện nhiệm vụ thông tin, truyền thông của báo in về phát
triển kinh tế biển đảo miền Trung.

Thứ nhất, báo in có khả năng lưu giữ văn bản, thơng tin tốt hơn rất
nhiều so với báo truyền hình, báo phát thanh và báo mạng. Nội dung thông tin
của báo in được thể hiện thơng qua những con chữ, ảnh, hình vẽ và được nhân
bản trên giấy và mực. Hay nói cách khác, sản phẩm báo in tồn tại dưới dạng
vật thể cụ thể (văn bản giấy), tiện cho việc lưu giữ. Có thể nói đây là một đặc
điểm - ưu điểm của báo in so với các loại hình báo chí khác.

Thứ hai, báo in phân tích, lý giải sâu rộng. Đây là ưu điểm của báo in

so với ba loại hình báo chí cịn lại. Điều này xuất phát từ việc báo phát thanh,
báo truyền hình, báo mạng chuyển tải thơng tin nhanh, trực tiếp nên chỉ dừng
lại ở mức độ mô tả sự kiện, hiện tượng. Muốn phân tích, bình luận một cách
sâu sắc thì các loại hình này cần quỹ thời gian khá lớn (đi ngược cới lợi thế
của các loại hình này). Vì vậy, một sự kiện xảy ra, báo phát thanh, báo mạng
đưa tin, truyền hình minh họa, báo in phân tích, bình luận lý giải.

Thứ ba, báo in đa dạng về chủng loại. Báo in có nhiều chủng loại: các
loại nhật báo; các loại tuần báo; các loại báo thừa kỳ; các loại tạp chí; các loại
ấn phẩm báo chí như đặc san, phụ san, chuyên san, tập san, nội san....Điều
này báo phát thanh, truyền hình, báo mạng khó có thể so sánh.

Thứ tư, công chúng báo in chủ động trong tiếp nhận thơng tin. Đối với
báo phát thanh, báo truyền hình, báo mạng muốn tiếp nhận thông tin công
chúng phải tuân thủ các quy tắc tiếp nhận tuần tự theo tính tuyến tính về thời
gian, khơng gian, góc cảnh trên radio, màn hình TV hoặc sự liên kết (link)

19

thông tin trên giao diện trang chủ của báo mạng...Trong khi, cơng chúng báo
in có thể chủ động chọn các bài báo, trang báo, số báo. Đặc biệt, do tiếp nhận
thông tin bằng thị giác trên văn bản giấy nên công chúng chủ động thời điểm
đọc, tốc độ đọc và có thể đọc đi đọc lại. Điều này giúp thơng tin lưu giữ lâu
dài trong trong trí não độc giả.

Thứ năm, sản phẩm báo in dễ sử dụng, dễ vận chuyển. Công chúng báo
in có thể dễ dàng đọc, tiếp nhận thơng tin trên các phương tiện giao thơng, có
thể mang đến bất cứ đâu mà không phải lo cồng kềnh và hay phải sử dụng các
thiết bị phụ trợ. Trong khi, với báo phát thanh, báo mạng cần phải có sóng và
các thiết bị thu. Cơng chúng các loại hình khác khó hoặc khơng thể tiếp nhận

thơng tin tại các vùng sóng yếu hoặc khơng có dịch vụ phát sóng internet
khơng dây.

Ngoài ra, báo in cịn có một số đặc điểm khác như khả năng phát tán
thông tin chậm, phương tiện chuyển tải thông điệp đơn điệu hơn so với các
loại hình báo chí khác.

1.3 Miền Trung - vùng trọng điểm phát triển kinh tế biển đảo

1.3.1 Tiềm năng phát triển kinh tế biển đảo

Miền Trung có đường bờ biển dài và diện tích lãnh hải rộng. Tất cả 14
tỉnh, thành từ Thanh Hóa đến Bình Thuận đều có bờ biển (cả nước chỉ có 28
tỉnh có bờ biển) với tổng chiều dài hơn 1800km. So với chiều dài bờ biển Việt
Nam 3.260km thì miền Trung chiếm hơn 50%. Bờ biển ở đây phần lớn cịn
hoang sơ chưa được khai thác. Diện tích vùng lãnh hải khu vực này vào
khoảng hơn 300.000km2, nghĩa là rộng hơn diện tích lãnh thổ trên đất liền
của Việt Nam.

Có nhiều quần đảo và đảo: Trên lãnh hải có hàng chục đảo, trong đó có
nhiều đảo lớn như Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn
(Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận), quần đảo Hồng Sa (Đà Nẵng) và

20


×