Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Mô hình phát triển kinh tế của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.97 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
1.2 Đối tượng và mục đích nghiên cứu
1.3 Phương pháp nghiên cứu
1.4 Số liệu nghiêm cứu
1.5 Kết quả nghiêm cứu
1.6 Bố cục tiểu luận
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN
3.1 Sơ lược về Nhật Bản
3.1.1 Điều kiện tự nhiên
3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
3.2 Các giai đoạn phát triển của Nhật Bản
CHƯƠNG 4: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN

-1

CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề:
Tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế khách
quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Trong xu thế ấy,sự đổi mới để thích nghi ln là một
trong những tiêu chí ang đầu của các quốc gia. Đối với Việt Nam, trong điều kiện chuyển từ nền
kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường với điểm xuất phát thấp, tốc
độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, công cuộc cải cách phát triển kinh tế đã gặp khơng ít những
khó khăn và thách thức. Đứng trước tình hình đó, để đẩy mạnh sự đi lên của đất nước, Đảng ta
đã đề ra nhiều chính sách phát triển, hội nhập một cách tích cực nhằm học hỏi kinh nghiệm,
những thành công của các quốc gia đi trước.
Nhật Bản là một trong những nước có tầm ảnh hưởng rất lớn trong nền kinh tế thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng. Đất nước được mệnh danh “xứ sở hoa Anh Đào” là một cường


quốc kinh tế đã trải qua nhiều năm phát triển thần kỳ vào trước thập niên 90 của thế kỷ 20
khiến cho cả thế giới khâm phục. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Nhật Bản giai
đoạn “thần kỳ” đã trở thành mơ hình nghiên cứu đối với nhiều quốc gia đang phát triển. Nhiều
nước trong khu vực Châu Á đã học hỏi theo mơ hình phát triển của Nhật Bản, trong đó một số
quốc gia đã nhanh chóng trở thành con rồng, con hổ kinh tế, giải quyết thành công nhiều vấn
đềđời sống kinh tế–xã hội.
Chính vì vậy việc phân tích, học hỏi những chính sách, chiến lược mà chính phủ Nhật Bản đã
áp dụng để so sánh với thời kỳ“đổi mới” của Việt Nam là một việc rất cần thiết nhằm tạo ra sự
tăng trưởng cao và bền vững cho việc phát triển kinh tế-xã hội.
1.2 Đối tượng và mục đích nghiên cứu
-Đối tượng của nghiên cứu:“Mơ hình phát triển của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam”
.-Mục đích nghiên cứu:Tìm hiểu mơ hình kinh tế, các giai đoạn phát triển ở Nhật Bản. Thơng
qua đó, rút ra được những bài học cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam.

-2

1.3 Phương pháp nghiên cứu
Thu thập thông tin, các số liệu xử lý, kết hợp các phương pháp phân tích, so sánh và diễn dịch,
…để làm sáng tỏvấn đề nghiên cứu, về những bài học mà Việt Nam có thể học hỏi từ Nhật Bản.
1.4 Số liệu nghiên cứu
Thu thập các số liệu thứ cấp, đã qua xử lý để áp dụng vào đề tài, góp phần làm tăng tính thuyết
phục cho đề tài nghiên cứu.
1.5 Kết quả nghiên cứu
Sau q trình nghiên cứu, nhóm đã nắm được mơ hình của sự phát triển ở Nhật Bản, và cũng đã
tìm ra được một số bài học kinh nghiệm cho nước ta.
c.1 Bố cục tiểu luận
Bài tiểu luận có bốcục gồm 5 chương:
Chương 1: Mở đầu
Chương 2: Cơ sở lí luận

Chương 3: Thực trạng về đất nước Nhật Bản
Chương 4: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chương 5: Kết luận

-3

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Kinh tế học phát triển là khoa học nghiên cứu cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm một
cách có hiệu quả nhằm giúp các nước đang phát triển nhanh chóng thốt ra khỏi tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu tạo dựng một xã hội có trình độ phát triển kinh tế cao, đời sống tinh thần phong
phú, bảo đảm công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản lượng quốc
gia hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình qn trên đầu người qua một thời gian nhất định.
Nhật Bản hiện là nước đứng ang đầu trên thế giới trong nhiều lĩnh vực, dù có những khó khăn
nhất định trong điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội. Cịn Việt Nam chúng ta thì đang trên tiến
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhìn vào sự phát triển của Nhật Bản, so sánh với
những điều kiện chúng ta đang có, nhận thấy có những mơ hình phát triển đáng đểchúng ta học
hỏi. Cụthểcó đó là mơ hình của:
Harry T.Oshima (1995), ơng cho rằng nên đầu tư cho nông nghiệp phát triển theo chiều rộng
nhằm đa dạng hóa sản xuất, đồng thời đầu tư phát triển theo chiều rộng các ngành nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụvà tiếp tục phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm
nhu cầu lao động.
W.Edwards Deming, Deming cho rằng sẽ xác định chính xác những nguyên nhân sai lỗi
trong quá trình sản xuất để tiến hành khắc phục sai lỗi hoặc cải tiến công việc. Trên cơ sở đó,
năng suất và chất lượng sản phẩm được nâng lên, Deming tin rằng 80-85% chất lượng sản phẩm
dịch vụ có đạt hay khơng là do ở vấn đề quản lý.
Ngồi ra, cịn có lí thuyết “Chương trình cải cách kinh tế”của Thủ tướng Abe và “Chính sách
bình ổn”của Dodge. Ở mỗi giai đoạn có mỗi mơ hình phát triển khác nhau, có thể tương tự,
cũng có thể dựa trên mơ hình cũ hình thành nên mơ hình mới hồn tồn, nói chung vẫn là do sự
biến động của nền kinh tế quyết định. Cơ sở lí luận cho tiểu luận này đó là những mơ hình Nhật
Bản đã áp dụng để phát triển qua từng thời kì và đó là lí thuyết phù hợp với sự phát triển của

Việt Nam.

-4

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN
3.1 Sơ lược về Nhật Bản
3.1.1 Điều kiện tự nhiên
Nhật Bản là một quần đảo với trên 3.000 đảo được tạo thành từ các ngọn núi cao nổi lên từ một
dãy núi nằm sâu dưới biển Thái Bình Dương, phía ngồi lục địa châu Á. Các đảo Nhật Bản là
một phần của dải núi ngầm trải dài từ Đơng Nam Á tới Alaska. Nhật Bản có bờ biển dài 37.000
km, có đá lớn và nhiều vịnh nhỏnhưng rất tốt và đẹp. Đồi núi chiếm 73% diện tích tự nhiên cả
nước, trong đó khơng ít núi là núi lửa, có một sốđỉnh núi cao trên 3000 mét, hơn 532 ngọn núi
cao hơn 2000 mét. Ngọn núi cao nhất là núi Phú Sĩ cao 3776 mét. Vì nằm ở tiếp xúc của một số
đĩa lục địa, nên Nhật Bản hay có động đất gây nhiều thiệt hại. Động đất ngồi khơi đơi khi gây
ra những cơn ang thần. Mỗi năm Nhật Bản chịu vào khoảng 1000 trận động đất và người ta cho
rằng cứ 60 năm Tokyo lại gặp một trận động đất khủng khiếp. Nhật Bản có rất ít tài nguyên
thiên nhiên. Các khoáng sản như quặng sắt, đồng đỏ, kẽm, chì và bạc, và các tài nguyên năng
lượng quan trọng như dầu mỏ và than đều phải nhập khẩu. Địa hình và khí hậu Nhật Bản khiến
người nơng dân gặp rất nhiều khó khăn, và vì quốc gia này chỉ trồng cấy được một số cây trồng
như lúa gạo, nên khoảng một nửa số lương thực phải nhập khẩu từ nước ngoài.
3.1.2 Điều kiện kinh tế-xã hội
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân số thì quá
đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh,
nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954) phát
triển cao độ(1955-1973) làm thế giới phải kinh ngạc. Người ta gọi đó là “Thần kì Nhật Bản”.
Từ1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có nền kinh
tế lớn đứng thứ ba trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Trung Quốc). Trước đây Nhật Bản
ln giành vị trí thứ hai về kinh tế và mới bị Trung Quốc vượt qua từ đầu năm 2011.Đến tháng
7, 2010, dân số Nhật Bản hiện nay lên tới gần 127 triệu người, xếp ang thứ 10 trên thế giới.
Phần lớn là đồng nhất về ngôn ngữ và văn hóa ngoại trừ thiểu số những cơng nhân nước ngồi,

tộc người là người Yamato cùng với các nhóm dân tộc thiểu số như Ainu hay Ryukyu.
Văn hóa Nhật Bản là một trong những nền văn hóa đặc sắc nhất thế giới, văn hóa Nhật đã phát
triển mạnh mẽ và là nơi có nhiều tơn giáo.
Những khó khăn đối với sự phát triển kinh tế ở Nhật Bản:
-Lãnh thổ Nhật Bản khơng rộng, tài ngun khống sản rất nghèo nàn, nền công nghiệp của
Nhật Bản hầu như phụ thuộc vào các nguồn nguyên, nhiên liệu nhập khẩu từ bên ngoài.
- Cơ cấu cùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào anghu tâm là Tơkiơ,
Ơxaca và Nagơia, giữa cơng nghiệp và nơng nghiệp cũng có sự mất cân đối.
- Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu, các nước công nghiệp mới, Trung
Quốc…

-5

3.1.3 Mơ hình lý thuyết phát triển và cách áp dụng.
Trong giai đoạn Nhật Bản đã áp dụng một số mơ hình như:
*Đổi mới kỹ thuật:
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật được bắt nguồn từ nước mỹ. Khi chiến tranh kết thúc những
kỹ thuật tiên tiến phát minh ở Mỹ trước và sau chiến tranh được đưa vào Nhật bản và được phát
triển một cách nhanh chóng. Cách mạng trên những lĩnh vục kỹ thuật như: lĩnh vực điện tử, cách
mạng trong lĩnh vực vật liệu, đặc biệt là cách mạng trong lĩnh vực thông tin.
Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, nền kinh tế nước Nhật lâm vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng; thiếu năng lượng, lạm phát kinh tế, vấn nạn thất nghiệp…Đất nước Nhật Bản bị
quân đội Mỹ chiếm đóng.
Hầu hết các cơ sở sản xuất đều được chuyển sang sản xuất phục vụ chiến tranh, trong đó phần
lớn bị phá hủy trong cuộc chiến. 6 triệu lính và người dân Nhật từ khắp các vùng chiến sự ở
Thái Bình Dương quay trở về nước, Chính phủ nước này phải đối diện với gánh nặng – thất
nghiệp.

“Yếu tố” nào đem đến sự phát triển thần kỳ của kinh tế Nhật
Phát huy vai trò của nhân tố con người

Sự phát triển “thần kỳ” của kinh tế Nhật Bản phải để đến yếu tố đầu tiên là con người. Kế thừa
nền giáo dục của thời kỳ trước, từ sau thế chiến thứ hai, Nhật đã phổ cập hệ giáo dục 9 năm.
Trên cơ sở đó, người Nhật chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm
bắt và sử dụng kỹ thuật, cơng nghệ mới.
Thêm đó, đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, có chất lượng cao,
góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất nước.
Các nhà quản lý kinh doanh cũng được đánh giá là những người nhạy bén, biết nắm bắt thị
trường và đổi mới phương pháp kinh doanh, đem đến những thắng lợi của cơng ty Nhật trên
trường quốc tế.
Duy trì mức tích lũy và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả
“Đất nước mặt trời mọc” được angh nước có tỷ lệ tích lũy vốn cao nhất trong những nước tư bản
phát triển. Tỷ lệ tích lũy vốn thường xuyên của giai đoạn 1052-1973 khoảng 30-35% thu nhập
quốc dân.
Trong đó, tỷ lệ đầu tư vào tư bản cố định trong tổng sản phẩm xã hội của Nhật Bản cao. Đây là
một trong những nhân tố quyết định, đảm bảo cho nền kinh tế Nhật phát triển với tốc độ cao.

-6

Về sử dụng vốn, Nhật cũng là một nước sử dụng vốn táo bạo và có hiệu quả. Tại Nhật Bản,
nhiều ngân ang thương mại chấp nhận cho vay đến 95% tổng số vốn. Biện pháp có phần mạo
hiểm này tạo điều kiện tăng nhanh số vốn chuyển vào sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, cịn có những yếu tố khác như:
+Tiếp cận và ứng dụng nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đẩy mạnh hợp tác với các nước
phát triển
+Chú trọng vai trò điều tiết của kinh tế nhà nước, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài
+ +Đẩy mạnh hợp tác với các nước phát triển
2. Giai đoạn phát triển kinh tế “thần kỳ” của Nhật Bản (1951-1973).
a.) Thành tựu:
Trong khoảng 20 năm sau chiến tranh (1951-1973), nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ
rất nhanh chóng. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền

kinh tế Nhật Bản. Từ một nước đứng dậy từ trong đóng tro tàn của chiến tranh, Nhật Bản đã trở
thành cường quốc kinh tế thứ hai trong thế giới tư bản sau Mỹ. Từ 1952-1973, tốc độ tăng tổng
sản phẩm quốc dân thực tế của Nhậ Bản thường ở mức cao nhất trong các nước tư bản. So với
năm 1950, năm 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 20 lần, từ 20 tỷ USD lên 402 tỷ
USD, vượt Anh, Pháp, CHLB Đức.
Tốc độ phát triển công nghiệp hằng năm thời kỳ 1950-1960 là 15,9%; từ 1960-1969 là 13,5%.
Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ USD năm 1969.
Đúng một ang năm sau cải cách Minh Trị (1868-1968), Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về
tàu biển, xe máy, máy khâu, máy ảnh, ti vi; đứng thứ hai về sản lượng thép, ô tô, xi măng, sản
phẩm hóa chất, hàng dệt…
Một số ngành công nghiệp then chốt đã tăng lên với nhịp độ rất nhanh. Mặc dù Nhật Bản hầu
như không có mỏ dầu nhưng đã đứng đầu các nước tư bản về nhập và chế biến dầu thô, riêng
năm 1971 đã nhập tới 186 triệu tấn dầu thô; công nghiệp sản xuất thép năm 1950 là 4,8 triệu tấn;
1973: 117 triệu tấn. Năm 1960, công nghiệp ô tô Nhật Bản còn đứng hàng thứ sáu trong thế giới
tư bản, đến năm 1967 vươn lên hàng thứ hai sau Mỹ. Năm 1968, Nhật Bản sản xuất được 2 triệu
ô tô. Công nghiệp đóng tàu đến những năm 70 chiếm trên 50% tổng số tàu biển và có sáu trong
mười nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản. Sự phát triển nhanh một số ngành kinh tế đã
làm thay đổi nhanh cơ cấu ngành sản xuất của Nhật Bản. Tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp giảm đi đáng kể, các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh.
Ngành nông nghiệp tuy tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân giảm, nhưng sản lượng và năng
suất lao động lại tăng nhanh. Lao động nông nghiệp giảm từ 14,5 triệu năm 1960 xuống còn 8,9
triệu năm 1969. Tổng giá trị sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp năm 1969 là 9 tỷ USD.

-7

Giao thông vận tải, nhất là phương tiện vận chuyển tăng nhanh. Đến đầu thập kỷ 70, Nhật Bản
đứng đầu các nước tư bản về vận tải đường biển.
Ngoại thương được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 đến năm 1971 kim
ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 1,7 tỷ USD lên 43,6 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu tăng 30
lần, nhập khẩu tăng 21 lần.

b.) Nguyên nhân:
Sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn 1952-1973 bắt nguồn từ một số
nguyên nhân cơ bản sau:
– Thứ nhất, phát huy vai trò nhân tố con người
Trước hết, phải nói rằng chế độ giáo dục ở Nhật Bản khá phát triển và hoàn thiện. Kế thừa nền
giáo dục của thời kỳ trước, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã phổ cập giáo dục hệ
9 năm. Trên cơ sở trình độ văn hóa chung khá cao đó, người Nhật Bản rất chú trọng đào tạo đội
ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật, công nghệ mới.
Công nhân được đào tạo không chỉ trong các trường dạy nghề mà có thể đào tạo ngay tại các xí
nghiệp.
Đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, có chất lượng cao đã góp phần
đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất nước. Giới quản lý và
kinh doanh của Nhật Bản được đánh giá là những người sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt
thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh, đem lại thắng lợi cho các công ty Nhật Bản trên thị
trường quốc tế.
Từ lâu, người Nhật được giáo dục theo những luân lý của đạo Khổng. Trong thời kỳ hiện đại,
những đức tính cần kiệm, kiên trì, lòng trung thành, tính phục tùng… vẫn được đề cao. Những
tinh hoa văn hóa của quá khứ được tôn trọng và kế thừa là nền tảng để người Nhật nắm bắt
những tri thức mới của thời đại. Do đó, giới quản lý đã đặc biệt thành công trong việc củng cố
kỷ luật lao động, lợi dụng và khai thác sự tận tụy và trung thành của người lao động. Các công
ty của Nhật Bản thường được bao trùm bởi một bầu không khí thấm đậm tình “gia tộc”, “gia
đình”. Không ít nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng sự thành công trong phát triển kinh tế của
Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo giữa “công nghệ phương Tây” và “tính cách Nhật
Bản”.
– Thứ hai, duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử dung vốn đầu tư có hiệu quả cao
+Tích lũy vốn:
Nhật Bản thời kỳ này được coi là một nước có tỷ lệ tích lũy vốn cao nhất trong các nước tư bản
phát triển. Tỷ lệ tích lũy vốn thường xuyên của thời kỳ 1952-1973 vào khoảng từ 30 đến 35%

-8


thu nhập quốc dân, gấp hơn hai lần so với Mỹ, Anh. Trong đó, tỷ lệ đầu tư vào tư bản cố định
trong tổng sản phẩm xã hội của Nhật Bản cao hơn tất cả. Năm 1966, tổng số vốn đầu tư vào tư
bản cố định của Nhật Bản là 30,6 tỷ USD. Đây là một trong những nhân tố quyết định nhất, bảo
đảm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển với tốc độ cao.
Những giải pháp duy trì mức tích lũy cao của Nhật Bản là:
¯ Tận dụng triệt để nguồn lao động trong nước, áp dụng chế độ tiền lương thấp.
Tiền lương công nhân Nhật Bản những năm 50, 60 rất thấp so với các nước tư bản phát triển.
Trong các xí nghiệp lớn của ngành công nghiệp chế biến ở Nhật Bản, tiền lương công nhân chỉ
bằng 1/3 tiền lương của công nhân Anh và 1/7 tiền lương công nhân Mỹ. Tư bản độc quyền
Nhật Bản một mặt lợi dụng mức sống thấp của nhân dân và tình trạng thất nghiệp sau chiến
tranh, mặt khác tuyên truyền cho “lối sống cổ truyền”. Bằng phương pháp quản lý tinh vi, chế
độ thuê mướn suốt đời kết hợp với các hình thức khác, các ông chủ đã buộc công nhân phải tận
tâm, trung thành với xí nghiệp, vì quyền lợi của xí nghiệp. Chế độ tiền lương thấp là nhân tố
quan trọng nhất để đạt mức tích lũy vốn anghu hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên
thị trường nước ngoài.
Để tạo vốn cho phát triển kinh tế, Nhật Bản đã chú ý khai thác và sử dụng tốt nguồn tiết kiệm cá
nhân. Từ 1961-1967, tỷ lệ gửi tiết kiệm trong thu nhập quốc dân là 18,6% cao gấp hơn hai lần
của Mỹ (6,2%) và Anh (7,7%). Năm 1968-1969, tổng số tiền tiết kiệm lên tới 157,5 tỷ USD.
Tính trung bình mỗi người dân Nhật có số tiền tiết kiệm là 1.550 USD.
Ngoài ra, mức tích lũy cao ở Nhật Bản còn là kết quả của việc giảm chi phí quân sự xuống mức
dưới 1% tổng sản phẩm quốc dân (ở Mỹ là 9-10%). Do nhu cầu của phát triển kinh tế thời kỳ
này Chính phủ Nhật Bản đã hạn chế các khoản chi tiêu cho phúc lợi xã hội, y tế, nhà ở… Bộ
máy hành chính cũng được chú ý giảm tới mức tối thiểu, số người phục vụ trong các cơ quan
Nhà nước và quân đội chỉ khoảng 1,3 triệu. Trong khi đó ở Pháp, dân số chỉ bằng một nửa Nhật
Bản nhưng con số này là 3 triệu người.
Có thể khẳng định rằng người Nhật Bản đã rất thành công trong việc huy động nguồn vốn nội bộ
cho phát triển kinh tế thời kỳ sau chiến tranh.
Tuy vậy, nguồn vốn từ bên ngoài cũng đóng vai trò khá quan trọng đối với nền kinh tế Nhật,
nhất là nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) chủ yếu được dành cho việc cải tạo, hiện đại

hóa cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp nặng. Trong thời kỳ từ 1944 đến 1955, số vốn của
bên ngoài vào Nhật Bản là 230 triệu USD và đã tăng lên rất nhanh trong thời kỳ 1956-1973 với
24 tỷ USD, trong đó vay trực tiếp và tiếp nhận đầu tư cổ phiếu nước ngoài chiếm 89%. Trong
các nguồn tín dụng của nước ngoài, tín dụng Mỹ giữ vai trò quan trọng thông qua các tổ chức
như Ngân hàng Xuất-Nhập khẩu Mỹ, Ngân hàng Phát triển Quốc tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)


-9

Có thể nói rằng trong thời kỳ sau chiến tranh, Nhật Bản không phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn
bên ngoài. Chính phủ giao anghu Bộ Tài chính quản lý và kiểm soát rất chặt chẽ việc sử dụng
các nguồn vốn đó. Đầu tư trực tiếp chỉ được khuyến khích cho mục tiêu tìm kiếm công nghệ và
bí quyết sản xuất.
+ Sử dụng vốn
Nhật Bản được coi là một nước sử dụng vốn một cách táo bạo và có hiệu quả.
Ở Nhật Bản nhiều ngân hàng thương mại chấp nhận cho vay tới 95% tổng số vốn. Biện pháp
mạo hiểm này đã tạo điều kiện tăng nhanh số vốn chuyển vào sản xuất kinh doanh.
Trong sử dụng vốn, Nhật Bản trước hết tập trung vào những ngành sản xuất lớn, hiện đại và có
hiệu quả cao. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra rất nhanh chóng, đạt trình độ và quy
mô quốc tế. Năm 1969, ở Nhật Bản có hơn 10 công ty độc quyền với doanh số trên 1 tỷ USD,
một số công ty như Mitsubisi, Mitsui… có doanh số khoảng 10 tỷ USD. Do đó, Nhật Bản đã có
ang những điều kiện thuận lợi để nhanh chóng áp dụng khoa học-kỹ thuật hiện đại, hợp lý hóa
quy trình sản xuất, nâng cao hiệu quả của tư bản đầu tư.
Về đầu tư trong nước, phần lớn số vốn được tập trung vào các ngành then chốt như luyện kim,
đóng tàu, chế tạo máy, hóa chất, điện tử và vi điện tử… Vốn đầu tư cũng được tập trung vào đổi
mới thiết bị sản xuất. Sau hơn 20 năm, Nhật Bản hầu như đã đổi mới toàn bộ tư bản cố định.
Trong một số ngành như chế tạo máy, luyện kim, đóng tàu biển, điện tử… trình độ trang bị kỹ
thuật vào loại cao nhất thế giới.
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, một số công ty của Nhật Bản đã chú ý tới
việc đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, trong thập kỷ 50 và nửa đầu thập kỷ 60, hoạt động đầu tư

nước ngoài còn chậm vì thiếu ngoại tệ và ít có nguồn tư bản dài hạn nước ngoài. Ở giai đoạn đầu
này, Nhật Bản chủ yếu đầu tư ở khu vực Đông Nam Á với những kỹ nghệ sử dụng nhiều lao
động, thích hợp với trình độ của các nước này. Từ nửa cuối thập kỷ 60, Nhật Bản đã chú ý nhiều
hơn vào đầu tư khai thác tài nguyên, đồng thời đa dạng hóa khu vực đầu tư. Tổng số vốn đầu tư
nước ngoài tăng nhanh qua các năm. Nếu vào thời kỳ 1955-1957, mức bình quân là 50 triệu
USD thì đến thời kỳ 1963-1965 lên 130 triệu USD và năm 1970 lên tới 900 triệu USD.
Cho đến năm 1973, tổng số vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản đạt khoảng 19,3 tỷ
USD. Mặt khác, cơ cấu đầu tư theo khu vực cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào
Mỹ và châu Âu, giảm tỷ trọng đầu tư vào Trung và Nam Mỹ (Mỹ: 26,4%, châu Âu: 26,1%, châu
Á: 23%, Trung Nam Mỹ: 13%).
Có thể nói đầu tư nước ngoài là một yếu tố góp phần vào sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế
trong nước, tăng vị thế và sức cạnh tranh của các công ty của Nhật Bản trong nền kinh tế thế
giới.

-10

Nhật Bản đã nhanh chóng xây dựng nên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ thuật công
nghệ hiện đại. Tới đầu thập kỷ 70, sức cạnh tranh và vị thế của các công ty của Nhật Bản đã tăng
lên nhanh chóng. Nhật Bản đã đuổi kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tư bản phát triển
phương Tây.
– Thứ ba, tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước lạc hậu so với các nước tư bản
khác. Nhưng cũng ngay trong những năm tháng khó khăn đó, Nhật Bản đã giành một số vốn lớn
cho việc nghiên cứu, phát triển khoa học-kỹ thuật.
Chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật Bản năm 1955 còn ở mức 40,1 tỷ yên (0,84% thu nhập
quốc dân) đã tăng lên nhanh chóng đạt gần 1.200 tỷ yên (1,96% thu nhập quốc dân) vào năm
1970. Năm 1955, ở Nhật Bản chỉ có 1.445 phòng thí nghiệm tham gia nghiên cứu khoa học-kỹ
thuật thì năm 1970 đã tăng lên đến 12.594, gấp 9 lần trong 15 năm. Ngoái ra, các công ty, các
trường đại học cũng tham gia tích cực vào việc nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học-kỹ thuật.
Nhật Ba3b đã phát huy được sức mạnh của cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân trong lĩnh

vực nghiên cứu và đào tạo khoa học-kỹ thuật. Năm 1970, ở Nhật Bản có tới 419.000 các nhà
khoa học và các chuyên gia khoa học-kỹ thuật. Song thành công hơn cả của người Nhật Bản vẫn
là lĩnh vực khoa học ứng dụng.
Nhật Bản đã chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật mới nhất của Âu-Mỹ bằng
cách nhập khẩu công nghệ, kỷ thuật, mua các phát minh sáng chế. Từ năm 1950 đến năm 1971,
tổng số vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhật là 15.289 vụ, gần 70% là của Mỹ, hơn 10% của Tây
Đức. Nhờ đó đã cải tạo căn bản tài sản cố định và góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội.
Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hằng năm của Nhật Bản thời kỳ 1955-1965 là 9,4%.
Việc mua các phát minh cho phép Nhật Bản tiếp cận với thành tựu mới nhất của khoa học-kỹ
thuật. Tính đến năm 1968, tổng giá trị những phát minh mà Nhật Bản mua của nước ngoài vào
khoảng 6 tỷ USD. Để có những phát minh đó, các nước khác phải tốn tới khoảng 120-130 tỷ
USD, như vậy Nhật Bản đã tiết kiệm được khoảng 100 tỷ USD, bằng 1/3 tổng tài sản cố định
tích lũy trong thời gian này.
Bằng cách đi khôn ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học-kỹ thuật của Nhật Bản
có bước phát triển nhảy vọt. Đến đầu những năm 1970, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về tự động
hóa, trình độ sử dụng máy vi tính trong một số ngành sản xuất… Đó là những nhân tố tác động
rất mạnh đến tốc độ phát triển kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh.
– Thứ tư, chú trọng vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước
Ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt
biện pháp để đẩy mạnh tự do hóa nền kinh tế, kích thích kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường
kết hợp với sự điều tiết của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã tạo

-11

ra môi trường kinh tế thuận lợi cho tăng trưởng bằng hệ thống pháp luật và khả năng duy trì trật
tự xã hội bằng pháp luật và sự đầu tư trực tiếp vào kinh tế.
Từ năm 1955 đến 1973, Nhà nước đã thông qua 7 kế hoạch, đa số là kế hoạch 5 năm, nhưng thời
gian thực hiện trung bình là hai năm rưỡi vì các dự kiến kế hoạch đều thấp hơn mức tăng trưởng
thực tế. Các kế hoạch kinh tế đều có ba nội dung cơ bản: phương hướng kinh tế-xã hội, phương
hướng chính sách của Chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu trên, những chỉ dẫn hoạt động

cho các cơ sở kinh doanh, các ngành công nghiệp. Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế
(MITI) và Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) có vị trí quan trọng trong việc phát huy vai trò của Nhà
nước đối với phát triển kinh tế. Thông qua các hệ thống này, các chính sách về tài chính, tiền tệ,
đối ngoại… của Nhà nước được thực thi có hiệu quả.
Vai trò nổi bật của Nhà nước thời kỳ này là cải cách hệ thống thuế để thúc đẩy tích lũy vốn, thúc
đẩy nhập khẩu kỹ thuật mới và khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích tích lũy cá nhân,
Chính phủ đã không đánh thuế thu nhập có tính thuế lũy tiến cao như ở một số nước. Thuế công
ty ở mức thấp, các loại thuế trực thu tăng nhưng thuế gián thu lại giảm. Do vậy thuế trong thu
nhập quốc dân ở Nhật Bản thời kỳ này nhìn chung thấp hơn các nước tư bản khác.
Nhà nước Nhật Bản còn đóng vai trò hướng dẫn và kiểm tra hoạt động đầu tư cũng như việc hỗ
trợ về tài chính cho hoạt động đó. Nhà nước Nhật Bản nắm khoảng 1/3 tổng số đầu tư tư bản cố
định trong nước. Đầu tư của Nhà nước thường tập trung vào cơ cấu hạ tầng, xây dựng các ngành
công nghiệp mới và nghiên cứu khoa học. Những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, chu chuyển
chậm, lợi nhuận thấp nhưng hết sức quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển lực lượng sản xuất
xã hội.
Sự can thiệp và tham gia trực tiếp của Nhà nước vào c1c hoạt động kinh tế đã có tác dụng chống
đỡ khủng hoảng, tạo ra những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế tăng trưởng cao.
– Thứ năm, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài
+ Mở rộng thị trường trong nước
Nhờ cải cách ruộng đất, hình thành chủ trang trại kinh doanh nhỏ đã mở rộng sản xuất, cải tiến
kỹ thuật, sử dụng máy móc công nghệ tiên tiến. Do đó, nông nghiệp nông thôn tạo anghu trường
rộng lớn cho sản xuất phát triển.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các công ty luôn cố gắng giữ uy tín bằng việc đưa anghu
trường những sản phẩm đảm bảo chất lượng. Trên thực tế, khoảng 80% sản phẩm quốc dân của
Nhật Bản là phục vụ cho thị trường nội địa. Vì vậy, phương châm của các công ty Nhật Bản là
hàng hóa dù bán ở thị trường nội địa hay nước ngoài đều phải có chất lượng cao. Mặt khác, để
bảo vệ các ngành cọng nghiệp non trẻ và thị trường nội địa, Nhật Bản đã kết hợp khéo léo giữa
chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu với chiến lược hướng về xuất khẩu. Lộ
trình tự do hóa thương mại và hội nhập được thực hiện một cách thận trọng, được quản lý thống


-12

nhất từ Trung ương đến địa phương. Mở rộng và đứng vững trên thị trường nội địa tạo tiền đề
cho các công ty Nhật Bản vươn ra chiếm lĩnh các thị trường nước ngoài.
Thời kỳ này, thị trường trong nước còn được mở rộng do sự gia tăng dân số, sự tăng nhanh số
người làm công ăn lương, tốc độ tăng thu nhập thực tế của người lao động… Do đó đã làm tăng
khối lượng tiêu dùng cá nhân ở trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản.
+ Mở rộng thị trường nước ngoài
Là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản phải phụ thuộc vào thị trường cung cấp vật
tư, nguyên liệu, năng lượng và thị trường tiêu thụ hàng hóa, do đó thị trường nước ngoài được
coi là điều kiện sống còn của nền kinh tế Nhật Bản.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã tìm mọi cách để xâm nhập vào thị trường thế giới
như tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa nhờ giảm chi phí sản xuất và chú trọng chất lượng sản
phẩm, xây dựng đội ngũ thương nhân có năng lực, nhiều kinh nghiệm, thực hiện chính sách đối
ngoại linh hoạt…
Đối với các nước đang phát triển, Nhật Bản dùng cách lôi kéo về chính trị kết hợp với thâm
nhập kinh tế, viện trợ, tăng cường quan hệ mậu dịch thương mại… được sử dụng một cách rộng
rãi. Đối với các nước châu Á, Nhật Bản còn sử dụng các chính sách như bồi thường chiến tranh,
xây dựng khu vực thịnh vượng chung… nhằm thâm nhập sâu vào thị trường các nước này. Từ
những năm 70, Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về đầu tư và quan hệ mậu dịch với nhiều
nước và lãnh thổ Đông và Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Hồng Kong, Philippines,
Đài Loan… Ngoài ra hàng Nhật Bản còn thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với các nước tư bản
phát triển ngay trên thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ và các khu vực khác. Từ năm 1965 trở đi, Nhật
Bản thường xuyên là nước xuất siêu trong quan hệ thương mại với thế giới bên ngoài. Điều đó
đã giúp cải thiện căn bản cán cân thanh toán của Nhật Bản. Có thể thấy rằng ngoại thương nói
riêng và kinh tế đối ngoại nói chung là một nhân tố quan trọng đem lại sự thành công của người
Nhật thời kỳ sau chiến tranh. Vì vậy, có nhà nghiên cứu đã cho rằng ngoại thương chính là “nhịp
thở” của nền kinh tế Nhật Bản.
– Thứ sáu, kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng
Cấu trúc kinh tế hai tầng là đặc điểm nổi bật của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ

hai. Đó là sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực kinh tế hiện đại và khu vực truyền thống.
Khu vực kinh tế hiện đại bao gồm các công ty lớn với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, lượng vốn
đầu tư lớn, sử dụng lao động suốt đời, tiền lương cao theo thâm niên, điều kiện làm việc tốt. Khu
vực truyền thống chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, sử dụng kỹ thuật công nghệ lạc hậu, lao
động hợp đồng hoặc theo thời vụ, tiền lương và điều kiện làm việc thấp kém. Ở Nhật Bản thời
kỳ này số doanh nghiệp sử dụng dưới 100 công nhân chiếm 99% tổng số xí nghiệp và 76% tổng
số công nhân. Các doanh nghiệp nhỏ thường là các cơ sở gia công phụ tùng máy móc hoặc nhận
thầu khoán cho các công ty lớn, đồng thời nhận sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật công nghệ từ các

-13

công ty lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ trở thành vệ tinh của một công ty lớn. Khi nền kinh tế lâm
vào khó khăn, khu vực truyền thống sẽ trở thành những “đệm giảm xóc” cho khu vực hiện đại.
Với cấu trúc kinh tế hai tầng, nguồn lao động dư thừa và công nghệ lạc hậu thời kỳ sau chiến
tranh được sự dụng hợp lý và có hiệu quả.
– Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác với Mỹ và các nước khác
Sau 3 năm chiếm đóng và kiểm soát Nhật Bản, tháng 10/1948 Mỹ chuyển giao quyền quản lý
kinh tế-xã hội cho Chính phủ Nhật Bản. Bắt đầu từ đây mối quan hệ kinh tế Mỹ-Nhật đã phục
hồi và phát triển nhanh chóng. Việc thực hiện đường lối kinh tế của Joseph Dodge đã giúp Nhật
Bản ổn định nền tài chính tiền tệ. Mức tỷ giá 360 yên/1 USD được duy trì suốt 22 năm đã tạo
điều kiện cho các ngành công nghiệp xuất khẩu cạnh tranh được trên các thị trường quốc tế. Sau
khi hiệp ước hòa bình San Francisco được ký kết vào năm 1951, Nhật Bản và Mỹ trở thành bạn
hàng của nhau. Trong các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên và Việt Nam, Chính phủ Mỹ
đã có hàng loạt đơn đặt hàng với các công ty của Nhật Bản về vũ khí, khí tài và các đồ quân
dụng khác. Trong khoảng thời gian năm 1950 đến 1969, Nhật Bản đã thu được 10,2 tỷ USD do
đơn đặt hàng của Mỹ. Trong cơ cấu ngoại thương của Nhật Bản thời kỳ này có tới 34% tổng giá
trị hàng xuất khẩu sang Mỹ và 30% giá trị hàng nhập của Nhật là từ thị trường Mỹ. Có thể nói
nhu cầu về hàng hóa của Mỹ cho các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên và Việt Nam là
hai “ngọn gió thần” đối với nền kinh tế Nhật Bản.
Ngoài ra, một số nhân tố khác cũng có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế Nhật Bản thời

kỳ này như xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác và nhất thể hóa kinh tế tư bản chủ nghĩa, xu thế hòa
hoãn và hợp tác của các công ty độc quyền quốc tế… Năm 1955, Nhật Bản xin gia nhập GATT,
tháng 4/1964 trở thành thành viên của IMF và OECD. Đó là những cơ hội để các công ty Nhật
Bản mở rộng thị trường, tăng cường tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế.
c.) Hạn chế.
Tuy nhiên, ngay trong giai. Đoạn phát triển nhanh chóng này, nền kinh tế Nhật Bản đã phải đối
mặt với những mâu thuẫn kinh tế-xã hội gay gắt.
+ Đó là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế, giữa khả năng sản xuất hiện đại với
cơ sở hạ tầng lạc hậu, giữa tài chính và tín dụng, giữa tiềm lực của công nghiệp và nông nghiệp.
Phần lớn công nghiệp tập trung ở vùng phía Đông nước Nhật. Riêng anghu tâm công nghiệp là
Tokyo- Osaka- Nayoga chỉ chiếm 1,25% diện tích cả nước nhưng tập trung tới 60 triệu dân và
hơn 50% sản lượng công nghiệp. Trong khi đó các vùng phía Tây còn trong tình trạng lạc hậu.
Nhiều nhà kinh tế phương Tây nhận xét rằng có hai nước Nhật: nước Nhật rất hiện đại và nước
Nhật cũ “khuất sau bóng núi”. Nông nghiệp lạc hậu so với công nghiệp, trong nông nghiệp, sản
xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế. Năm 1968, số hộ nông dân có dưới 2 ha chiếm 68% tổng số hộ..
Nông nghiệp vẫn chưa đảm bảo được nhu cầu trong nước. Mặc dù nền sản xuất công nghiệp đã

-14

đạt đến trình độ cao nhưng cơ sở hạ tầng ở Nhật Bản vẫn bị coi là loại lạc hậu trong các nước tư
bản phát triển.

+ Là một nền kinh tế bấp bênh, không ổn định về thị trường và nguồn nguyên liệu. Sự phát triển
của nền kinh tế Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào bên ngoài cả về thị trường tiêu thụ hàng anghu
nguồn cung cấp nguyên liệu. Sự biến động của thị trường quốc tế, cũng như cạnh tranh gay gắt
của Mỹ và Tây Âu có ảnh hưởng nghiêm trọng, hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật
Bản.

+ Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt do các công ty mãi chạy theo lợi nhuận nên đã hạn chế
những chi phí cho phúc lợi xã hội, duy trì mức sống thấp hơn so với các nước tư bản phát triển,

vấn đề nhà ở, tai nạn giao thông trầm trọng…

Do chạy theo tốc độ tăng trưởng cao, vấn đề môi trường không được chú ý đúng mức. Kết quả
là cuối thập kỉ 60 đầu thập kỉ 70, mơi trường bị xuống cấp nhanh chóng, một số vùng cơng
nghiệp bị ơ nhiễm nặng nề. Đó là mặt trái, là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng “thần kì” của
Nhật Bản thời kì 1951-1973.

 Giai đoạn phục hồi và tăng trưởng với tốc độ vừa phải (2000 – 2005)

Trải qua một thập kỷ đầy khó khăn với đất nước Nhật Bản thì bước sang một thập kỷ mới và
cũng là khỏi đầu của một thiên niên kỷ mới, mặc dù nền kinh tế Nhật Bản trong thời điểm này
vẫn đang rơi vào tình trạng suy thối kéo dài.

Chủ yếu khó khăn của thời kỳ này là những khoản nợ khó địi và sự khủng hoảng trong mơ hình
phát triển của Nhật. Vào năm 2001, thủ tướng Nhật Bản là Koizumi đã lập tức tiến hành việc
giải quyết những khoản nợ khó địi này bằng rất nhiều những biện pháp khác nhau. Có thể nêu
ra một số những biện pháp mà chính phủ Nhật sử dụng như: xóa nợ, sáp nhập và mua lại các
ngân ang cũng như những tổ chức tài chính làm ăn thua lỗ. Thực hiện chủ trương cải cách cơ
cấu kinh tế mạnh mẽ. Để thực hiện được cuộc cải cách này, Nhật Bản đã áp dụng 7 chương trình
cơ bản:

– Đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa, đồng thời giảm sự can thiệp của nhà nước vào các
lĩnh vực của nền kinh tế. Thực hiện tấn cơng mạnh mẽ vào tam giác quyền lực: chính trị gia –
quan chức – giới chủ. Đặc biệt là chủ trương tư nhân hóa tiết kiệm bưu điện và giảm chi tiêu
cơng.

– Khuyến khích đầu tư tư nhân trong nước

– Tăng bảo hiểm và phúc lợi xã hội


– Phát triển nguồn nhân lực nhu cầu của nền kinh tế quốc gia

– Cải thiện điều kiện sống và làm việc cho mọi người

-15

– Tăng cường sự tự chủ của chính quyền địa phương

– Cải cách hành chính nhằm tạo ra một bộ máy chính phủ đơn giản và hiệu quả.

 Giai đoạn phục hồi của tình hình kinh tế Nhật Bản (từ 2010 đến nay)

Nhờ nỗ lực thực hiện những biện pháp chống khủng hoảng nên đến tháng 4 năm 2009, kinh tế
Nhật Bản bắt đầu nhìn thấy được sự dừng lại của suy thoái. Các hoạt động sản xuất và xuất khẩu
được trở lại đặc biệt phải để đến thành cơng và vai trị của ngành điện máy và ô tô. Nhật Bản
nhận được các đơn đặt hàng của nước ngoài cho các sản phẩm linh kiện và phụ tùng.

Sự hồi phục kinh tế Nhật Bản đã được phản ánh rõ nét thông qua sự tăng trưởng thị giá chứng
khốn Nhật Bản. Theo đó, bước sang đầu năm 2018, giá cổ phiếu đã lên đến mức 24.000 Yên,
đây cũng là lần đầu tiên trong khoảng 26 năm giá chứng khoán Nhật tăng đến mức cao như vậy.
Chứng tỏ đây chính là dấu hiệu của sự thốt khỏi giảm phát ngày càng rõ nét. Trước hiệu quả
hoạt động khả quan của các công ty Nhật Bản, bắt đầu xuất hiện những nhận xét cho rằng,
dường như giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao độ của Nhật Bản đang một lần nữa được tái hiện
lại.

Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài nguyên nhất là tài nguyên cho ngành nông nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi nhưng người Nhật luôn biết cách để biến đổi và áp dụng mang lại hiệu quả cao
nhất. Họ luôn áp dụng kỹ thuật, công nghệ hàng đầu cho ra năng suất cao và đảm bảo an tồn.

Chúng ta có thể kể đến những ngành kinh tế mũi nhọn của Nhật Bản như: nông-lâm-ngư nghiệp,

công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế tạo, ngoại thương xuất nhập khẩu, hoạt động đầu tư,
giao thông vận tải, tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thơng, du lịch giải trí…

CHƯƠNG 4: BÀI HỌC RÚT RA KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
*Tổng quan về kinh tế Việt Nam:
-Việt Nam là nước có dân số đơng thứ 13 trên thế giới sau Trung Quốc, mật độ dân số đứng thứ
5. Việt Nam đang trên con đường xây dựng lại nền kinh tế sau hơn 30 năm kết thúc chiến tranh.
Sau nhiều năm với cuộc chiến tranh kéo dài, trong hoàn cảnh bị cơ lập về chính trị và trì trệ về
kinh tế, Việt Nam đang nhanh chóng hịa mình vào dịng chảy chung của kinh tế thế giới. Từ
năm 1986 Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới, hướng tới một nền kinh tế thị trường.
-Nền kinh tế Việt Nam tập trung vào sản xuất nông nghiệp, quy mô sản suất nhỏ lẻ, trình độ
canh tác cịn thấp, khoa học kỹ thuật cịn hạn chế, cơng nghiệp địa phương chỉ thỏa mãn nhu cầu
nội địa nên khơng có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Điều đó đã tác động xấu đến

-16

tích lũy và mở rộng sản xuất, cán cân thanh tốn khơng được cải thiện, đã kìm hãm sự phát triển
và mở rộng kỹ thuật dẫn đến kìm hãm sản suất. Tóm lại nền kinh tế Việt Nam ở tình trạng trì trệ
so với thế giới.

*Bài học cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam:
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có nhiều chuyển biến tích cực, Việt Nam cũng không
ngoại lệ. Nền kinh tế Việt Nam đang đan xen giữa cơ hội và thách thức, thể hiện rất rõ qua các
diễn biến kinh tế ở từng giai đoạn khác nhau. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, nền
kinh tế Việt Nam hiện vẫn còn non trẻ so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, nền kinh tế
cịn bị chi phối và lệ thuộc nhiều vào các yếu tố môi trường cũng như những ngun nhân khác.
Do đó, việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá các chính sách kinh tế ở những nước phát triển là
rất quan trọng. Đây sẽ là tiền đề, để đưa ra những hoạch định đúng đắn cho việc phát triển kinh
tế lâu dài và bền vững. Nhìn lại các nước phát triển và có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng, có
thể đúc kết lại những bài học như sau:

Một là, cần chuyển đổi mơ hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều hẹp.
Cần xác định rõ việc áp dụng các lý thuyết vào trong phát triển và quản lý kinh tế. Áp dụng các
hình thức đo lường GDP thơng qua tính tốn đầy đủ lợi ích, chi phí, phát triển năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo. Lên kế hoạch xây dựng chiến lược phát triển tăng trưởng xanh, sử dụng hiệu
quả các năng lượng hiện có, đồng thời tái tạo để đảm bảo an ninh năng lượng cho quốc gia. Quá
trình phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Tập trung phát
triển vào các vùng kinh tế tiềm năng, tạo môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp nước ngồi,
ngồi ra cần đảm bảo đến yếu tố mơi trường trong quá trình sản xuất…
Hai là, tiếp tục đổi mới trong chính sách tài khóa - tiền tệ.
Hệ thống Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng, chủ động triển khai quyết liệt các chính sách
nhằm tạo nên bộ giải pháp vĩ mơ đồng bộ, tồn diện và hiệu quả. Tổ chức bộ máy cần thực hiện
linh hoạt, đồng bộ các cơng cụ chính sách tài khóa để đảm bảo các dây chuyền được thông suốt
ổn định,… Cần đẩy mạnh hơn nữa trong q trình quản lý tài khóa - tiền tệ, đưa ra những chính
sách ưu đãi và tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn.
Tiếp tục duy trì các chính sách tăng cường thu hút FDI để ngăn chặn rủi ro trong phát triển kinh
tế. Thường xun lên dự báo về tình hình tài chính của thế giới và trong khu vực, từ đó có sự
điều chỉnh kịp thời.
Thứ ba, tăng cường kiểm soát lạm phát.
Vấn đề lạm phát luôn thu hút sự quan tâm lớn nhất của dư luận xã hội, bởi đây là vấn đề lớn mà
các nước đang đối mặt, trong đó có Việt Nam. Sự tác động của lạm phát đã gây ra những hệ quả
tiêu cực, thậm chí dẫn đến nền kinh tế gặp nhiều bất ổn và rủi ro. Lạm phát luôn len lỏi và hiện
diện trong nền kinh tế, vấn đề đặt ra là chúng ta cần tăng cường hơn nữa cơng tác quản lý, kiểm
sốt một cách chặt chẽ trong mọi quá trình thực hiện. Đồng thời, cần đưa ra những chính sách
thúc đẩy nền kinh tế theo hướng xã hội hóa, tạo mơi trường đầu tư lành mạnh, công bằng cho

-17

các doanh nghiệp phát triển, đồng thời áp dụng những chế tài, quy định vào quá trình đầu tư phát
triển kinh tế.

Thứ tư, thiết lập môi trường đầu tư kinh doanh.
Nhà nước cần đưa ra những chính sách bình đẳng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, cần chọn
những nhà đầu tư giỏi, kinh doanh hiệu quả. Ngoài ra, cịn có chế tài đối với những doanh
nghiệp kém phát triển, không đảm bảo về môi trường, đồng thời loại bỏ những tổ chức kinh
doanh yếu kém.
Thường xuyên tham gia các diễn đàn kinh tế của thế giới tổ chức, từ đó đưa ra những tiêu chí và
đường hướng trong phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, cần đồng hành với doanh nghiệp trong suốt
quá trình họ đầu tư và đảm bảo đủ các điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài phát
triển.
Năm là, đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ.
Cần đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong sản xuất kinh
tế. Sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên,…
Dành nguồn lực để đầu tư phát triển mạnh doanh nghiệp khoa học - công nghệ, đổi mới cơ chế
quản lý khoa học và tranh thủ khai thác, ứng dụng công nghệ từ các quốc gia phát triển.

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN

*Rút ra kết luận:
- Đối với một đất nước bị tàn phá nặng nề do chiến tranh, lại vừa bị đè nặng bởi những tàn dư
của xã hội cũ kìm hang sự năng động và sáng tạo, sẽ khơng thể phát triển được nếu khơng có
những cải cách căn bản nhằm loại bỏ hoàn tàn tàn dư cũ, trì trệ và bảo thủ, chuyển hẳn sang một
xã hội dân chủ và cạnh tranh trong hịa bình, một nền kinh tế theo hướng thị trường mở, tạo điều
kiện cho mọi khả năng sáng tạo có mơi trường tốt để nảy sinh và phát triển.
-Từ bài học của Nhật Bản trong phát triển kinh tế có thể rút ra kinh nghiệm cho các nước trên
thế giới trong đó có Việt Nam, đó là cần thiết kế thể chế để tăng cường năng lực xã hội, tránh
tham nhũng. Đó là những năng lực với những tố chất cần thiết của các thành phần lãnh đạo. Thể
chế phải phát huy được vai trị của nhà nước, trí tuệ của nhân dân, vạch ra phương hướng phát
triển của đất nước, xây dựng bộ máy hành chính hiệu quả gồm đội ngũ quan chức có năng lực và
phẩm chất.
-Nêu cao tinh thần dân tộc Việt Nam tự lực tự cường, cần cù chăm chỉ luôn phấn đấu cống hiến

xây dựng một nền kinh tế tự lực tự cường vững mạnh. Phát triển khoa học kỹ thuật, áp dụng vào

-18

thực tế nhằm thúc đẩy và phát triển kinh tế. góp phần giúp cho nền kinh tế của Việt Nam đi lên
sánh vai với các cường quốc trong khu vực và cả trên thế giới, khẳng định vị thế nền kinh tế
Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
----------------------------------------------------HẾT--------------------------------------------------------

-19


×