Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phát triển kinh tế Hàn Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.98 KB, 13 trang )

MỤC lỤC

Mở

đầu .................................................................................

...........

1.1 Lý do trọng dề

tài ..............................................................................

1.2 Mứu đích và nhiệm vụ nghiên

cứu...................................................

1.3 Đối tương nghiên cứu ...................................................................
1.4 Phương pháp nghiên cứu ...............................................................
1.5 Ý nghĩa đề tài .................................................................................
1.6 Cấu trúc của đề tài .........................................................................

Chương1 : Cơ sở lý luận................................................................................
Chương2 : Thực trạng về đát nước Hàn Quốc ............................................

2.1 Sơ lược về đất nước Hàn Quốc ....................................................
2.1.1 Điều tự nhiên ...........................................................................
2.1.2 Điều kiện kinh tế .....................................................................

2.2 Các giai đoạn phát triển của Hàn Quốc .............................................
Chương 3Bài học cho Việt Nam ...................................................................
3.1 Tổng quát về kinh tế Việt Nam ...........................................................................


3.2 Bài học cho Việt Nam ........................................................................................
Kết luận ........................................................................................

MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài :
- Trong nền kinh tế phát triển hiện nay , vấn đề kinh tế phát triển luôn là một yếu tố
quan trọng đượcquan tâm và chú ý . Kinh tế phát triển được xem như một thước đo
đánh giá về đất nươc đang phát triển , hay chưa phát triển , đã phát triển
1.2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng của kinh tế phát triển hiện nay và làm rõ các vấn đề liên quan
1.3 Đối tượng nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cưu là : Mơ hình phát triển của Hần Quốc và kinh nghiệm đối
với Việt Nam
- đề tài tập trung nghiên cứu về lý luận kinh tế phát triển của Hàn Quốc hiện nay
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích , tổng hợp
- Phương pháp thống kê Xã hội học
1.5 ý nghĩa đề tài
1.6 Cấu trúc đề tài
Chương1 : Cơ sở lý luận
Chương2 : Thực trạng về đát nước Hàn Quốc
Chương 3:Bài học cho Việt Nam

Chương1 : Cơ sở lý luận
Chương 2 : Thực trạng về đát nước Hàn Quốc
2.1 Điều kiện tự nhiên
Núi non chiếm khoảng 70% diện tích bán đảo Triều Tiên, trong đó đỉnh núi
cao nhất ở Hàn Quốc là Hallasan. Ngọn này sở hữu độ cao 1,950m, là
đỉnh núi lửa tạo thành đảo Jeji. Hàn Quốc sở hữu 3 dãy núi lớn, đó là dãy
núi Teabeak, dãy Sobeak và núi Jiri.


Về mặt địa hình, khoảng 30% lãnh thổ Hàn Quốc là các vùng đất thấp –
đây là sản phẩm của hoạt động xói mòn núi. Phần còn lại bao gồm vùng
cao và những ngọn núi. Phần lớn các vùng đất thấp nằm dọc theo bờ biển,
đặc biệt là bờ biển phía tây và dọc theo các con sông lớn. Đồng bằng quan
trọng nhất là đồng bằng Sông Hán nằm xung quanh Seoul, Pyeong và
Honam ở phía Tây Nam. Hệ thống sơng suối chằng chịt, các tuyến giao
thơng đường thủy đóng vai trị rất quan trọng trong việc hình thành lối sống
của con người Hàn Quốc và trong q trình cơng nghiệp hóa đất nước.

2.1 Điều kiện kinh tế
Hàn Quốc có nền kinh tế phát triển đứng thứ tư ở Châu Á và đứng thứ 11
trên thế giới theo GDP năm 2016. Đơn vị tiền tệ của Hàn Quốc là KRW
(Korean Won), tỷ giá là 1020 KRW = 1 USD. Khi nhắc đến Hàn Quốc,
chúng ta đều nghĩ ngay tới ngành điện tử, ô tơ, máy móc, hóa dầu. Ngồi
ra, Hàn Quốc cũng là quốc gia đi đầu trong ngành dịch vụ, du lịch, giải trí.

Hiện nay, Hàn Quốc là thành viên của nhiều tổ chức lớn trên thế giới như
Liên Hợp Quốc, WTO, OECD, Tổ chức Y tế thế giới (WHO), UNESCO,
Khối APEC,…. Đồng thời quốc gia này còn là thành viên sáng lập của diễn
đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB) và là một đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ.

2.2 Các giai đoạn phát triển của Hàn Quốc

Giai đoạn 1953 - 1979: Khôi phục đất nước sau chiến tranh

Sau chiến tranh, các nhà hoạch định chính sách của Hàn Quốc đã kích

thích tăng trưởng kinh tế bằng cách thúc đẩy các cơng ty cơng nghiệp trong


nước. Chính phủ Hàn Quốc chọn các công ty trong các ngành công nghiệp

mục tiêu và cho họ đặc quyền mua ngoại tệ và vay vốn ngân hàng với lãi

suất ưu đãi; đồng thời, dựng lên các hàng rào thuế quan với hy vọng rằng

sự bảo hộ này sẽ mang lại cho các doanh nghiệp trong nước cơ hội cải
thiện năng suất. Tuy nhiên, chính sách này đã tác đợng mạnh mẽ đến nền
kinh tế Hàn Quốc và sự sụp đổ của nền Cộng hòa thứ nhất vào tháng
4/1960.

Dưới thời Tổng thống Park Chung Hee, Hàn Quốc chuyển sang chiến lược
kích thích tăng trưởng thơng qua xúc tiến xuất khẩu (EP) và khơng hồn
tồn từ bỏ chính sách cơng nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI). Để theo
đuổi EP, nhiều loại ưu đãi được đưa ra cho các công ty xuất khẩu theo hiệu
suất xuất khẩu của họ, trong đó cho vay lãi suất thấp là quan trọng nhất.
Một lợi thế khác của EP so với ISI là năng suất được nâng cao thông qua
cách buộc các doanh nghiệp tuân theo quy luật của thị trường xuất khẩu và
mở rộng liên hệ với các nước phát triển; dẫn đến hiệu quả tăng trưởng
nhanh hơn đáng kể trong các ngành xuất khẩu. Sau khi chuyển sang EP,
GDP bình qn đầu người tăng gấp đơi và Hàn Quốc đã trở thành mợt
nước cơng nghiệp hóa. Từ giai đoạn 1960-1962 đến giai đoạn 1973-1975,
tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm tương ứng từ 45% xuống 25%, trong
khi tỷ trọng chế biến chế tạo tăng từ 9% lên 27% (Cha, 2004).

Trong thời kỳ những năm 1970, chính quyền Park Chung Hee giảm phụ
thuộc vào sự hỗ trợ vũ trang của Hoa Kỳ bằng cách mở rộng khả năng sản
xuất đạn dược. Điều này địi hỏi chính quyền Park Chung Hee phải quay lại
mơ hình ISI để xây dựng các ngành cơng nghiệp nặng và hóa chất. Người

dân Hàn Quốc được hưởng lợi nhiều hơn khi xu hướng tăng trong hệ số
Gini (đo lường sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) đảo ngược. Tốc
độ tăng trưởng này đạt được chủ yếu thông qua tăng cường sử dụng đầu
vào sản xuất thay vì cải thiện năng suất. Tích lũy vốn nhanh chóng được
thúc đẩy bởi tỷ lệ tiết kiệm ngày càng cao do tỷ lệ phụ thuộc giảm.

Giai đoạn 1980 -1997: Dân chủ hóa và tồn cầu hóa

Hàn Quốc rơi vào hỗn loạn sau khi Tổng thống Park Chung-Hee bị ám sát
năm 1979. Chun Doo-whan, xuất thân là một lãnh đạo quân đội, đã lên
nắm quyền và đắc cử tổng thống thông qua bầu cử vào năm 1981, Hiến

pháp Hàn Quốc đã sửa đổi để giới hạn mỗi tổng thống chỉ được tại vị một
nhiệm kỳ duy nhất với thời hạn 5 năm và không được tái tuyển cử.

Chính quyền tổng thống Chun phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế lúc bấy
giờ do cuộc Khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 với tỷ lệ lạm phát cao và các
kết quả bất lợi từ chính sách tập trung cơng nghiệp nặng và hóa chất. Cơ
cấu kinh tế dựa trên các đại tập đồn kinh tế gia đình (chaebol) dẫn tới sự
bất bình đẳng thu nhập và tài sản. Chính phủ đã ban hành các chính sách
để giữ nền kinh tế tiếp tục đà tăng trưởng.

Tổng thống Chun công bố Chính sách hạn chế tập trung kinh tế vào năm
1980 nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào chaebol và các ngành cơng nghiệp
nặng và hóa chất. Chính sách này có mục đích tái cấu trúc nền kinh tế Hàn
Quốc và tái phân bổ nguồn lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngồi
ra, Chính phủ cịn tiến hành đánh giá lại hiệu quả chung của nền kinh tế và
mạnh dạn loại bỏ các công ty thua lỗ. Sự can thiệp của Nhà nước giảm dần
sau khi cải cách chính sách thuế để hỗ trợ các ngành công nghiệp xuất
khẩu. Các chaebol bị hạn chế mức trần tín dụng. Chính sách này giúp cân

bằng mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ (Lee, 1997).

Các chính sách trên đã đưa nền kinh tế Hàn Quốc trở lại với đà phát triển.
Trung bình tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hằng năm dưới thời tổng thống Chun
(1981 - 1987) là 8,7% (gia tăng đáng kể so với tốc độ tăng trưởng 1,5% vào
năm 1980), GDP quốc nội đạt 100 tỷ USD.

Năm 1988, chính quyền Roh Tae-woo kế nhiệm tập trung phát triển hệ
thống phúc lợi xã hợi thơng qua chính sách nhà ở và kế hoạch sức khỏe
quốc gia với trung bình 200 ngàn căn nhà mới được xây dựng mỗi năm. Để
giảm khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội, Chính phủ của Roh Tae-woo
đã ban hành luật về lương tối thiểu. Tuy vậy, những chính sách trên đã làm
gia tăng gánh nặng lên ngân sách quốc gia, cũng như số lượng các liên
đồn lao đợng và mâu th̃n giữa lao động và quản lý. Trong thời kỳ này,
các liên đồn lao đợng tổ chức đình cơng địi tăng lương, giảm giờ làm và
cải thiện điều kiện lao động. Trong khi đó, các chủ doanh nghiệp khơng

chấp nhận những yêu cầu này, dẫn tới tranh chấp kéo dài và ngưng trệ
hoạt đợng sản xuất.

Do chính quyền Roh Tae-woo quyết định không tham gia vào vấn đề lao
động trong thời kỳ 1987-1989, giới chủ lao động đã đáp ứng yêu cầu tăng
lương của các liên đoàn để tiếp tục các hoạt động kinh tế. Hệ quả của hành
động này là sự leo thang của lạm phát, dẫn đến việc mất đi lợi thế cạnh
tranh và làm chậm đà tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, môi trường quốc tế giai đoạn này biến đợng theo hướng có lợi
cho nền kinh tế Hàn Quốc với quyết định mở cửa thị trường của Trung
Quốc. Các doanh nghiệp Hàn Quốc nhanh chóng nắm bắt cơ hợi của thời
kỳ tồn cầu hóa để gia nhập các thị trường mới giàu tiềm năng. Chính phủ

Hàn Quốc lúc này đã thông qua dự luật tái cơ cấu lao đợng với các điểm
chính như: Hợp pháp hóa việc sa thải nhân viên, chính sách giờ làm linh
hoạt và cải thiện cơ cấu lao động. Tái cơ cấu lao đợng đã giúp chính phủ
Hàn Quốc lúc đó giải quyết các mâu thuẫn đương thời. Sau này, chính
quyền của Tổng thống Kim Young-sam tiếp tục thúc đẩy hội nhập kinh tế
quốc tế của Hàn Quốc trong suốt thập niêm 1990. Chính sách giao dịch tài
chính và đứng tên sở hữu bằng tên thật để nhằm tránh mượn tên trốn thuế
đã được ban hành. Bên cạnh đó, Chính phủ của Kim Young-sam cũng ban
hành chính sách về tự do hóa tỷ giá ngoại hối, đầu tư trực tiếp nước ngồi
và bảo hiểm. Các chính sách này đánh dấu Hàn Quốc bắt đầu tham gia
tiến trình tồn cầu hóa (Kim, 2013).

Giai đoạn 1997 - 2007: Khủng hoảng tài chính châu Á và phục hồi

Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX, những dấu hiệu của khủng hoảng tài
chính đã xuất hiện tại Hàn Quốc. Đến năm 1997, nợ nước ngoài của các
ngân hàng Hàn Quốc đã đạt 24% GNP. Trong đó, nợ ngắn hạn đạt đỉnh
cao 350% dự trữ ngoại hối. Các chaebol có tỷ lệ nợ trên tổng vốn sở hữu
trung bình là 400%, lớn hơn gần 60 lần so với con số 70% của các tập
đoàn tại Mỹ. Vào cuối năm 1997, 5 tập đoàn kinh doanh lớn với khoảng
100 ngàn nhân viên tuyên bố phá sản dẫn tới sự rút vốn của các nhà đầu

tư. Trong vòng sáu tháng, gần 15 ngàn doanh nghiệp giải thể và nửa triệu
người thất nghiệp (Song, 2003).

Với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế 6% và tỷ lệ thất nghiệp 8% thì khoản vay lớn từ
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã không thể cứu vãn nền kinh tế Hàn Quốc.
Chính quyền Kim Dae-jung ḅc phải đưa ra các chính sách mới dựa trên
tư vấn của IMF để thỏa mãn điều kiện nhận được các khoản vay tiếp theo
gồm: cắt giảm chi tiêu, tăng lãi suất tiết kiệm và thuế. Những chính sách

này càng gây thêm hậu quả nặng nề cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
trong khi vẫn khơng giúp giảm tình trạng thất nghiệp. Chính phủ Hàn Quốc
thể chế hóa các giao dịch tài chính và loại bỏ giới hạn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) ở Hàn Quốc để thu hút đầu tư nước ngoài. Tổng thống Kim
Dae-jung cũng cho phép mua bán và sáp nhập các chaebol yếu để tạo
thành các công ty mới. Điển hình như: Kia Motors được Huyndai Motors
mua lại, Huyndai mua lại bộ phận bán dẫn của LG, bộ phận năng lượng
của Samsung Heavy Industries và Huyndai Industries bị sáp nhập vào
Hansung (Heo and Woo, 2006). Đạo luật Kiểm tốn đợc lập của các cơng
ty chứng khốn được thơng qua ḅc các chaebol phải gửi báo cáo tài
chính hàng năm và bị kiểm tốn bởi mợt cơng ty được cơng nhận hai lần
mợt năm.

Sau đó, Tổng thống Roh Moo-hyun đắc cử vào năm 2003 đã giúp Hàn
Quốc nhanh chóng thanh tốn hết các khoản nợ IMF. Dưới thời Tổng thống
Roh Moo-hyun, Hàn Quốc nhanh chóng gia tăng dự trữ ngoại hối từ 20,4 tỷ
USD vào năm 1997 lên 206,1 tỷ USD vào năm 2006, đứng thứ năm trên
thế giới. Mặc dù đã nhanh chóng phục hời, nền kinh tế Hàn Quốc vẫn tiềm
ẩn những rủi ro do chính sách ngắn hạn đem lại. Do Hiến pháp Hàn Quốc
giới hạn tổng thống chỉ có duy nhất 1 nhiệm kỳ 7 năm đã khiến cho các
tổng thống tại vị chú trọng hiệu quả tức thời và để lại nhiều vấn đề cho
người kế nhiệm. Chính việc khuyến khích tín dụng trong các đời tổng thống
trước là ngun nhân gây ra tình trạng tín dụng xấu. Đi kèm với tín dụng
xấu là sự rời bỏ của các nhà đầu tư trong nước khi chi phí lao đợng tăng
cao cùng với đình cơng liên tục. Từ thời Tổng thống Kim Dae-jung đến

Tổng thống Roh Moo-hyun, kinh tế Hàn Quốc có tốc độ tăng trưởng trong
khoảng 4,4% đến 4,6%. Các con số này chỉ bằng một nửa so với các đời
tổng thống trước.


Giai đoạn 2008- nay: Hậu suy thoái kinh tế thế giới

Suy thoái kinh tế thế giới 2008 đã khiến cho kinh tế Hàn Quốc bị ảnh
hưởng nặng nề. Xét về các điều kiện bên trong như dự trữ ngoại hối lớn,
khung chính sách tốt, ít tài sản xuất xứ từ ngân hàng phương Tây thì Hàn
Quốc đáng ra sẽ trụ vững qua đại khủng hoảng tài chính trong giai đoạn
này. Tuy nhiên, nền kinh tế trọng thương của Hàn Quốc và q trình tồn
cầu hóa mạnh mẽ đã ảnh hưởng lớn đến tất cả các thị trường không trừ
Hàn Quốc. Tính đến cuối năm 2008, đờng won đã mất giá hơn 25,4% so
với USD. Ngồi ra, thị trường chứng khốn Hàn Quốc cũng tụt dốc với giá
cổ phiếu giảm 27,2% (Kim, 2014).

Đứng trước những khó khăn trên, Chính phủ Lee Myung-bak đã phản ứng
với các chính sách tài khóa và tiền tệ chủ đợng. Chính phủ đưa ra gói kích
thích tài chính trị giá 4% GNP Hàn Quốc, lãi suất giảm từ 5,25% xuống 2%.
Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rợng với việc tăng chi tiêu tài
chính và hỗ trợ thuế, ngồi ra cịn mở rợng thủ tục miễn thuế để thúc đẩy
đầu tư và tiêu dùng quốc nợi (Kim, 2014). Cùng với cải cách tài chính, Nhà
nước còn thực hiện tái cơ cấu kinh doanh với các ngân hàng làm đợng cơ
chính. Ngân hàng phân loại các cơng ty thành bốn nhóm thơng qua q
trình đánh giá khách quan, và tiến hành tái cấu trúc các cơng ty bị xếp
hạng kém (Kim, 2014).

Các chính sách hiệu quả này đã đưa nền kinh tế Hàn Quốc hồi phục nhanh
chóng. Tốc đợ tăng trưởng kinh tế từ chỉ 0,7% vào năm 2009 tăng lên 6,5%
vào năm 2010 (World Bank). Tuy nhiên, phục hời kinh tế nhanh chóng
khiến đờng won tăng giá mạnh. Điều này đe dọa nghiêm trọng nền kinh tế
trọng xuất khẩu và đã khiến chính quyền Tổng thống Lee áp mức trần
125% cho giao dịch ngoại hối. Đồng thời, các ngân hàng lúc này buộc phải
sở hữu một số trái phiếu được xếp hạng cao bởi các tổ chức quốc tế như


Standard & Poor’s hay Moody’s Investors Service. Các quy định thanh
khoản ngoại tệ bị thắt chặt, Chính phủ bắt đầu áp dụng quy trình kiểm sốt
vốn.

Chương 3: Bài học cho Việt Nam

3.1 Tổng quát về kinh tế Việt Nam

Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới
kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng
đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng
2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ
lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức
mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu
số, chiếm 86%.

Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề
bởi đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tăng
trưởng GDP ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia
trên thế giới tăng trưởng kinh tế dương, nhưng đại dịch đã để lại những tác
động dài hạn đối với các hộ gia đình - thu nhập của khoảng 45% hộ gia đình
được khảo sát giảm trong tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm 2020. Nền
kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng 6,6% năm 2021 nếu Việt Nam kiểm soát
tốt sự lây lan của vi-rút đồng thời các ngành sản xuất hướng xuất khẩu hoạt
động tốt và nhu cầu nội địa phục hồi mạnh mẽ.

Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội. Dân số
Việt Nam đã lên đến 96,5 triệu vào năm 2019 (từ khoảng 60 triệu năm 1986)

và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Theo kết quả Tổng điều
tra dân số Việt Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ
trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhập tương đương trong
khu vực. Nhưng dân số đang bị già hóa nhanh. Tầng lớp trung lưu đang hình
thành – hiện chiếm 13% dân số và dự kiến sẽ lên đến 26% vào năm 2026.

Chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam là 0.69. Điều đó có nghĩa là một em bé
Việt Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức năng suất
bằng 69% so với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy
đủ. Đây là mức cao hơn mức trung bình của khu vực Đơng Á - Thái Bình
Dương và các nước có thu nhập trung bình thấp hơn. Mặc dù chỉ số Vốn
nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69 từ năm 2010 đến 2020 Việt
Nam, còn tồn tại sự chênh lệch trong nội bội quốc gia, đặc biệt là đối với
nhóm các dân tộc thiểu số.

Y tế cũng đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Từ năm
1993 đến 2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7

(trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong thời
gian từ năm 1990 đến 2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe tồn dân là
73 - cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới – với 87% dân số có
bảo hiểm y tế. Tuy nhiên tỉ lệ chênh lệch giới tính khi sinh vẫn ở mức cao và
ngày một tăng (115 trong năm 2018) cho thấy tình trạng phân biệt giới tính
vẫn cịn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ
già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên 65 sẽ tăng
gấp 2,5 lần.

Trong vòng 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản có nhiều thay đổi
tích cực. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện đáng kể.
Tính đến năm 2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14%

năm 1993. Tỉ lệ tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17%
năm 1993 lên 70% năm 2016, trong khi tỉ lệ ở thành thị là trên 95%. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm
GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều
này tạo ra những thách thức đối với sự phát triển liên tục của các dịch vụ cơ
sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam
xếp thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).

Tăng trưởng và cơng nghiệp hóa nhanh của Việt Nam đã để lại nhiều tác
động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Tổng mức tiêu thụ
điện tăng gấp ba lần trong vòng mười năm qua, nhanh hơn mức tăng sản
lượng điện. Với sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nhiên liệu hóa thạch, ngành
năng lượng phát thải gần hai phần ba tổng phát thải khí nhà kính của cả
nước. Nhu cầu cấp thiết là phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng
sạch. Trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã nổi lên là quốc gia phát thải khí nhà
kính bình qn đầu người tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới – với mức
tăng khoảng 5% mỗi năm. Nhu cầu sử dụng nước ngày một tăng cao, trong
khi năng suất nước vẫn còn ở mức thấp, chỉ đạt 12% so với chuẩn thể giới.
Tình trạng khai thác thiếu bền vững tài nguyên thiên nhiên như cát, thủy sản
và gỗ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng dài hạn. Bên
cạnh đó, đại đa số người dân và nền kinh tế Việt Nam đều dễ bị tổn thương
trước tác động của biến đổi khí hậu.

3.2 Bài học cho Việt Nam

- Việt Nam có nhiều điều để học hỏi từ mơ hình phát triển của Hàn

Quốc. Về giáo dục, Việt Nam nên thực hiện một hệ thống giáo dục gắn kết

kỹ năng của một sinh viên tốt nghiệp đại học với nhu cầu của thị trường lao


động. Việt Nam đứng thứ 28 trong tổng số các nước có chi tiêu công về

giáo dục nhiều nhất (World Bank Data, 2018) nhưng tỷ lệ thất nghiệp trong
số các sinh viên mới tốt nghiệp là 7,43% so với trung bình cả nước 2,3%
vào năm 2016 và tỷ lệ sinh viên có việc làm trái ngành học là khoảng 60%,
năm 2017. Điều này cho thấy, Việt Nam đang không tận dụng tối đa lực
lượng lao động mới cũng như các kiến thức giáo dục chuyên môn không
được áp dụng, khiến cho năng suất lao động giảm sút. Giáo trình giảng dạy
cần phải được thay đổi cũng như cập nhật các tiêu chuẩn đầu ra đại học.
Hệ thống giáo dục nên được xây dựng dựa trên mục đích cân bằng ng̀n
cung và nhu cầu lực lượng lao đợng.

Q trình tuyển dụng phải dựa trên các tiêu chí rõ ràng để góp phần xây
dựng mợt chính phủ có đủ năng lực để hoạch định chính sách. Việt Nam
cũng nên đảm bảo điều kiện tối đa cho những con người tài năng tham gia
xây dựng các chiến lược quốc gia. Chính phủ cũng nên thay đổi để có
được những con người giúp nắm bắt tình hình và xu hướng quốc tế. Với
việc chính quyền Việt Nam đã ghi nhận tầm quan trọng của khu vực tư
nhân, các quy trình pháp lý cũng cần được tinh chỉnh để kiến tạo mơi
trường thuận lợi.

Việt Nam cịn có thể học tập Hàn Quốc trong cách sử dụng ng̀n hỗ trợ
nước ngồi. Chính phủ nên đóng vai trị chủ đợng phân phối nguồn vốn
dựa trên các mục tiêu quốc gia. Với một nền kinh tế dựa vào xuất khẩu,
Việt Nam có thể học tập cách phân phối theo khu vực kinh tế, quản lý dòng
vốn và giám sát các dự án thực hiện dựa trên nguồn vốn viện trợ. Là quốc
gia đứng thứ 2 về tổng số vốn ODA và đứng thứ nhất về giá trị FDI tại Việt
Nam, Hàn Quốc có thể chuyển giao kinh nghiệm của mình qua nhiều kênh
khác nhau: các hợi thảo, đề án nghiên cứu, q trình chuyển giao cơng

nghệ.

Từ mơ hình các tập đồn kinh tế như cheabol của Hàn Quốc, Việt Nam đã
đúc rút được nhiều kinh nghiệm để xây dựng những tập đoàn kinh tế quốc
doanh. Bản chất các chaebol chính là các tập đồn tư nhân nhưng có vai
trị lớn trong nền kinh tế quốc gia và được hưởng nhiều ưu đãi từ Chính

phủ. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy, việc tái cơ cấu lại và mạnh mẽ
loại bỏ những mắt xích yếu kém thông qua mua bán và sáp nhập các tập
đoàn này là cần thiết.


×