Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

đề tài “phân tích mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của việt nam trong giai đoạn hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.04 KB, 70 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
“Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát với
lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
1
Mục lục
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………… 67
2
LỜI MỞ ĐẦU
Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự thay đổi của nền
kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường
hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt, để thu được lợi nhuận cao và đứng
vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải
nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề mới của nền kinh tế mới. Bên
cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong
nền kinh tế. Điển hình là diễn biến của hai chỉ số lạm phát và lãi suất. Trong
khi lãi suất có vai trò quan trọng trong việc quyết định đầu tư thì lạm phát lại là
“kẻ phá hoại” có tác động xấu đến các hoạt động kinh tế. Liệu rằng giữa hai
biến số kinh tế này có mối liên hệ với nhau như thế nào và Chính phủ sẽ hành
động như thế nào trong cuộc chiến chống lạm phát. Tất cả những vấn đề đó đã
thôi thúc chúng em đi vào nghiên cứu đề tài “Phân tích mối quan hệ giữa lạm
phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay”
Do trình độ và thời gian có hạn, trong quá trình nghiên cứu đề tài chắc chắn
còn nhiều thiếu sót, chúng em kính mong sự góp ý chân thành của thầy cô và
bạn đọc để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
3



Lời cảm ơn
“Chúng em xin chân thành cảm ơn phòng Đào tạo, khoa
Kinh tế và bộ môn Kinh tế học vĩ mô đã cho chúng em cơ hội
tiến hành nghiên cứu đề tài khoa học này, qua đó củng cố thêm
kiến thức và kỹ năng phục vụ cho quá trình học tập về sau.
Chúng em cũng xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Vũ Thị Minh
Phương với sự hướng dẫn chu đáo, nhiệt tình đã giúp chúng em
hoàn thành đề tài.”

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ HÌNH VẼ
4

Hình 2.1. Mô hình tổng cung và tổng cầu
Hình 2.2. Mô hình IS - LM
Hình 2.3. Mô hình AD - AS
Hình 3.1. Đồ thị biểu thị mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất
Hình 3. 2. Sự dịch chuyển đường LM
Hình 3.3 . Đồ thị mô tả sự dịch chuyển tổng cung và tổng cầu trong dài hạn
Hình 3.4. CSTT thu hẹp
Hình 3.5. CSTT thắt chặt
Bảng 1. Chỉ số CPI trong những năm gần đây.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
VN : Việt Nam
NHTU : Ngân hàng Trung ương
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
CSTT : Chính sách tiền tệ
CSTK : Chính sách tài khoá
VND : Đơn vị tiền tệ Việt Nam đồng.


Chương 1:Tổng quan nghiên cứu đề tài .
1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài:
5
Lạm phát và lãi suất là hai biến số kinh tế quan trọng của không chỉ của một quốc
gia nào. Lịch sử đã chứng minh sự ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng đến sự phát
triển kinh tế Thế giới. Không những lạm phát và lãi suất có thể tác động đến mọi
hoạt động kinh tế mà chúng còn chiụ sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này
làm cho diễn biến của chúng ngày càng biểu hiện khó lường, gây khó khăn cho
công tác kiểm soát vĩ mô nền kinh tế của Chính Phủ.
Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi như hiện nay thì vấn đề ổn định nền
kinh tế luôn là mục tiêu cấp thiết hàng đầu của các quốc gia. Bởi vậy, nắm bắt
được quy luật về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất sẽ giúp cho chính phủ các
nước có những chính sách kinh tế phù hợp, tạo nên một sự phát triển kinh tế ổn
định và tích cực hơn.
Lạm phát gia tăng là vấn đề cố hữu đối với nền kinh tế mới nổi như Việt Nam.
Kiềm chế lạm phát luôn là mục tiêu được chính phủ ưu tiên. Nên việc nghiên cứu
và tìm ra các biện pháp kiềm chế lạm phát sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát
triển kinh tế Việt Nam.
1.2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu trong đề tài:
Từ tình hình bất ổn của nền kinh tế đòi hỏi chính phủ phải có biện pháp quản
lí hiệu quả hơn đối với công cụ lãi suất và điều chỉnh tỷ lệ lạm phát ở mức thích
hợp, chúng em đã quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Phân tích mối quan
hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay”.
1.3. Các mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất. Biểu hiện cụ thể trong thực
tiễn của mối quan hệ đó.
6
Đánh giá tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây. Đưa ra các

ý kiến, đề xuất về các biện pháp kiềm chế lạm phát sao cho phù hợp với tình hình
thực tế.
1.4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu:
Lạm phát và lãi suất có mối quan hệ như thế nào? Biểu hiện thực tế của mối quan
hệ này trong nền kinh tế ra sao?
Tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây có gì biến động?
Các biện pháp cụ thể để kiềm chế lạm phát là gì?
1.5. Phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: lạm phát và lãi suất
Thời gian nghiên cứu: Trong giai đoạn hiện nay.
Không gian nghiên cứu: nền kinh tế Việt Nam
1.6. Ý nghĩa của nghiên cứu:
Bằng việc đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
cùng với việc đề ra các biện pháp kiềm chế lạm phát, chúng em mong muốn góp
chút công sức để người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về nền kinh tế Việt Nam. Và
nếu được đánh giá cao thì có thể đây là tài liệu tham khảo cho việc quản lí kinh tế
của Nhà nước.
1.7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mục lục, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục từ viết tắt đề tài được chia thành 4 chương:
7
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài
Chương 2: Tóm lược một số vấn đề lý luận về lạm phát và lãi suất, mối quan hệ
giữa lạm phát và lãi suất.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và kết quả phân tích thực trạng mối quan
hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Chương 4: Các kết luận, thảo luận và đề xuất về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi
suất và các biện pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.


Chương 2. Tóm lược một số vấn đề lí luận về lạm phát và lãi
suất, mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện pháp
kiềm chế lạm phát
2.1. Một số khái niệm định nghĩa cơ bản:
2.1.1. Lạm phát:
2.1.1.1. Khái niệm về lạm phát:
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát.
Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng: lạm phát biểu thị sự tăng lên trong mức giá
cả chung. Theo ông thì lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng-
giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất
tăng.
Milton Friedman cho rằng: lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài.Còn
Mác viết trong bộ tư bản rằng: lạm phát là việc tràn đầy các kênh, các luồng lưu
thông các tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng lạm phát luôn
đồng hành cùng với chủ nghĩa tư bản, ngoài việc bóc lột chủ nghĩa tư bản bằng giá
8
trị thặng dư, chủ nghĩa tư bản còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một
lần nữa, do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống.
Như vậy mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát nhưng các nhà kinh
tế đều thống nhất “lạm phát là một sự tăng lên của giá cả một cách liên tục và khi
lạm phát xảy ra thì có sự dư thừa tiền trong lưu thông”. Tóm lại,, lạm phát là sự
tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
2.1.1.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát.
+) Lạm phát do cầu kéo: lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh
mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Biểu hiện rõ nhất của lạm
phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá
xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15%
so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng.
Trong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không
thể tăng kịp. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số

hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
+) Lạm phát do chi phí đẩy: nếu có một cú sốc về tổng cung (chi phí sản xuất
tăng lên) làm cho đường AS dịch chuyển lên trên dẫn đến giá tăng, sản lượng
giảm.Phổ biến nhất là sự tăng của giá xăng, thép… Giá nguyên liệu, nhiên liệu
( đặc biệt là xăng dầu, các sản phẩm hoá dầu, thép và phôi thép…) trên thế giới
trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc
rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu nhập
tăng làm tăng giá thị trường trong nước.
Đồ thị dưới sẽ minh hoạ cho 2 trường hợp trên.
9
Hình 2.1. Mô hình tổng cung và tổng cầu
+) Lạm phát do cung tiền tăng: Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng
trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với
trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu
của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra
lạm phát.
+) Lạm phát do dự kiến: lạm phát do dự kiến là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà
mọi người dự kiến nó sẽ tiếp tục trong tương lai. Tỷ lệ này thường được đưa vào
các hợp đồng kinh tế, các kế hoạch hay các thoả thuận khác. Và chính vì mọi
người đều đưa tỷ lệ lạm phát vào các hoạt động của mình nên cuối cùng nó trở
thành hiện thực. Một ví dụ cụ thể của hiện tượng lạm phát do quán tính là khi nền
kinh tế có lạm phát cao, mọi người có xu hướng chỉ giữ lại một lượng tiền mặt tối
thiểu để chi tiêu hàng ngày, họ đem tiền đổi lấy các loại tiền mạnh khác, vàng hay
các loại hàng hóa để tích trữ giá trị, làm tăng lượng tiền lưu thông trên thị trường,
càng làm đồng tiền mất giá và tăng lạm phát.

P
AD
0
y

*
y
0
y
1
y

y
1
y
0
y
*
y
E
1
AD
1
E
0
ASLR
AD
E
1
P
0
P
1
E
P

0

P
1
P ASSL
ASLR
ASSR
1
Lạm phát cầu kéo Lạm phát chi phí đẩy
10
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác liên quan đến xuất nhập khẩu, do thiên
tai…
2.1.1.3. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế:
Lạm phát có lợi không và nó có thể gây ra những tác động gì tới nền kinh tế? Có
thể nói lạm phát tác động đến từng cá nhân, từng doanh nghiệp và cả chính phủ.
Lạm phát có thể làm sụp đổ cả một nền kinh thế vững mạnh cũng như có thể giúp
cho một nền kinh tế đi lên nếu biết cách kiềm chế và giữ cho nó ở mức ổn định.
Nói chung lạm phát có cả điểm mạnh và điểm yếu.
+) Ảnh hưởng tích cực: lạm phát ở mức độ vừa phải có tác động tích cực
đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Khi lạm phát vừa phải xảy ra nó làm cho
đồng nội tệ mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ. Đây là một lợi thế để các doanh
nghiệp đẩy mạnh việc xuât khẩu hàng hóa, tăng thu ngoại hối, khuyến khích sản
xuất trong nước phát triển…
Lạm phát ở Việt Nam trong những năm qua, dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước
đã kiềm chế được lạm phát ở mức 1 con số: năm 2003 là 3%, 2004 là 9,5%, 2005
là 8,4%, 2006 là 6%, với mức độ lạm phát như vậy nền kinh tế của nước ta trong
những năm qua đã có những bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng cao.
+) Ảnh hưởng tiêu cực: bên cạnh những tác động tích cực của lạm phát thì
lạm phát cũng có những tác động không tốt nếu lạm phát ở mức độ quá cao (lạm
phát phi mã và siêu lạm phát)

Ảnh hưởng đến đời sống của các tầng lớp dân cư: Người dân nhất là những
người làm công ăn lương, những hộ nghèo phải chiụ sự tác động trực tiếp nhất của
lạm phát trong cơn bão tăng giá. Lạm phát cũng làm giảm việc làm cho người dân
trong trung và dài hạn. Đời sống dân cư ngày càng trở nên khó khăn. Ảnh hưởng
đến sự phân phối lại thu nhập và của cải: do tác động của lạm phát làm mất cân
đối giữa nợ và tài sản mà những người lao động sống bằng tiền lương thì tiền
lương thực tế giảm trong khi mức giá cả tăng lên làm cho nền kinh tế suy giảm.
11
Ảnh hưởng nhiều đến khối doanh nghiệp: Lạm phát cũng gây ra tình trạng thiếu
tiền vì các doanh nghiệp không khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì sản
xuất của mình. Do đó, số lượng công việc cho người dân làm cũng giảm thiểu
trong trung và dài hạn.
Ảnh hưởng đến lĩnh vực tài chính Nhà nước: lạm phát làm cho nguồn thu ngân
sách Nhà nước ngày càng bị thu hẹp dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách ngày
càng tăng.
2.1.2.Lãi suất
2.1.2.1.Khái niệm lãi suất
Lãi suất là tỷ lệ tổng số tiền phải trả so với số tiền cho vay trong một khoảng
thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để sử dụng tiền không
thuộc sở hữu của họ vì lợi tức người cho vay có được do việc trì hoãn chi tiêu.
Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế :
Lãi suất danh nghĩa (với hàm ý chưa điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát ) là lãi
suất đã bao gồm cả những tổn thất do lạm phát gây ra do sự gia tăng của mức giá
chung. Quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế được biểu thị bằng các
công thức sau:
• (1 + r)(1 + i) = (1 + R) trong đó: r là lãi suất thực tế, i là tỷ lệ lạm phát và R
là lãi suất danh nghĩa.
Trên thực tế, tỷ lệ lạm phát sau đó có thể khác với tỷ lệ lạm phát dự kiến nên
không thể biết trước một cách chắc chắn được lãi suất thực tế còn lãi suất danh
nghĩa thì có thể biết trước được một cách chắc chắn khi công bố.

Lãi suất danh nghĩa (với hàm ý chưa điều chỉnh ảnh hưởng của việc tính lãi gộp
là lãi suất được công bố cho một kỳ nào đó của đơn vị thời gian cơ sở (đơn vị thời
12
gian cơ sở thường là năm). Lãi suất được công bố sẽ không có ý nghĩa đầy đủ nếu
không đi kèm với số kỳ được tính gộp lãi. Hai mức lãi suất danh nghĩa được công
bố với kỳ hạn khác nhau sẽ không thể so sánh được với nhau nếu không quy về
cùng một kỳ được tính gộp lãi. Lãi suất hiệu quả cho phép làm điều đó bằng cách
quy đổi lãi suất danh nghĩa về lãi suất kép của một năm theo công thức sau:
Trong đó: r là lãi suất hiệu quả, i là lãi suất danh nghĩa và n là số kỳ được tính
gộp lãi trong năm.
Cách tính toán này khác về căn bản với cách tính lãi suất đơn giản hay thường
được gọi là lãi suất đơn ở chỗ nó tính gộp cả lãi suất tính trên phần lãi được hưởng
(lãi mẹ đẻ lãi con). Công thức trên cũng cho thấy khi số kỳ được tính gộp lãi lớn
thì sự khác biệt giữa lãi suất hiệu quả và lãi suất danh nghĩa sẽ rất lớn. Về bản
chất, lãi suất hiệu quả cho biết tỷ lệ lãi thực tế trên một khoản cho vay hoặc đầu tư
mà người cho vay hoặc nhà đầu tư thu được trên giá trị của khoản vay hoặc đầu tư
đó. Trong thực tế, các ngân hàng đều công bố lãi suất danh nghĩa và tính toán lãi
suất hiệu quả dựa trên số kỳ tính gộp lãi.
2.1.2.2.Một số loại lãi suất
Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản prime rate, còn gọi là prime được các ngân hàng thương mại tầm
cỡ tại các trung tâm tài chính chủ lực của một nền kinh tế công bố và áp dụng đối
với các khoản nợ dành cho các doanh nghiệp là khách hàng lớn.
Lãi suất cơ bản được xem là một loại lãi suất tham khảo quan trọng trong thị
trường. Nhìn chung nó thay đổi chậm hơn hầu hết các lãi suất khác, do nó nằm
trong tầm kiểm soát của các tổ chức cho vay.
Lãi suất tiết kiệm
Lãi suất tiết kiệm là lãi suất được xác lập bởi hoạt động tiết kiệm giữa khách hàng
ký thác với ngân hàng hoặc các tổ chức phát triển gia cư. Các định chế tài chính
13

này được lập ra chủ yếu huy động vốn để cho vay phục vụ cho mục đích phát triển
bất động sản.

Lãi suất huy động nóng
Lãi suất huy động nóng hay có thể gọi là lãi suất qua đêm (federal funds rate) là
loại lãi suất được xác lập bởi thị trường cho vay tạm thời các khoản nợ để đáp ứng
cân đối dự trữ theo luật định mà các ngân hàng thương mại phải duy trì tại Ngân
hàng Trung ương. Những ngân hàng có cân đối dự trữ vượt yêu cầu có thể sử dụng
khoản vượt này để cho các ngân hàng bị hụt vay tạm.
Lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương
Lãi suất chiết khấu discount rate là lãi suất được thu trên các khoản tiền mà
Ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng thành viên trong hệ thống vay. Đây là
công cụ điều tiết vĩ mô thường được Mỹ và các nước phương tây sử dụng rất hiệu
quả. Các khoản vay đó được cầm cố bằng các chứng khoán của chính phủ hoặc
các giấy tờ có giá đủ hiệu lực khác theo quy định. Thỉnh thoảng Ngân hàng Trung
ương có thể điều chỉnh lãi suất chiết khấu để khuyến khích hoặc hạn chế các ngân
hàng thành viên vay mượn. .
(Lãi suất tái cấp vốn là lãi suất mà ngân hàng nhà nước áp dụng khi cấp vốn cho
các ngân hàng thương mại.)
Một số loại lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước VN.
- Lãi suất cơ bản: 8.25%/năm
- Lãi suất tái cấp vốn: 6.5%/năm
- Lãi suất chiết khấu: 4.5%/năm
2.1.2.3.Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
Vậy lãi suất ảnh hưởng đến tình hình của một nền kinh tế nói chung như thế
nào? Lãi suất cho vay thể hiện tình trạng của nền kinh tế bằng cách ảnh hưởng
đến nguồn và nguồn cầu về số lượng tiền gửi ngân hàng.
14
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm
thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng

như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động
nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) đã rất
coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách
tiền tệ (CSTT) là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết kinh tế học đã chứng minh, lãi suất thực tác động đến:
- Chi tiêu dùng và đầu tư: Một sự tăng lãi suất làm giảm sức hấp dẫn trong
việc chi tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương lai của cá nhân và công ty. Tín
dụng trong nước, tổng lượng tiền và cầu thực tế đều giảm (nếu lãi suất giảm sẽ có
tác động ngược lại): Khi lãi suất thực tăng lên, đối với hộ gia đình sẽ giảm nhu
cầu mua sắm nhà ở hoặc các hàng tiêu dùng lâu bền do chi phí tín dụng để mua
các hàng hoá này tăng lên. Cùng với lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi thực cũng
tăng lên. Sự gia tăng lãi suất này tác động tới quyết định tiêu dùng của khu vực hộ
gia đình theo hướng giảm tiêu dùng hiện tại và tăng tiết kiệm để cho tiêu dùng
trong tương lai. Đối với khu vực doanh nghiệp, sự gia tăng lãi suất làm tăng chi
phí vốn vay ngân hàng. Điều này đòi hỏi dự án đầu tư sử dụng vốn vay ngân hàng
phải có tỷ lệ lợi nhuận lớn hơn và kết quả là số dự án đầu tư có thể thực hiện với
mức lãi suất cao hơn này có thể giảm hay nói cách khác, đầu tư cố định có thể
giảm. Ngoài ra, lãi suất cao cũng làm tăng chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví dụ như
hàng trong kho) và do vậy, tạo sức ép các doanh nghiệp phải giảm đầu tư dưới
dạng vốn lưu động.
- Phân phối lại thu nhập: Lãi suất tăng cao hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ
người vay tiền sang người gửi tiền. Điều này làm tăng sức chi tiêu của người tiết
kiệm, nhưng sự chi tiêu này bị hạn chế bởi mức tiêu dùng cận biên (phần chi tăng
thêm cho tiêu dùng trong mỗi giá trị thu nhập tăng thêm), do vậy người tiết kiệm
có xu hướng tăng chi tiêu dùng thấp hơn sự hạn chế chi tiêu đầu tư của người đi
15
vay, nhất là khi lãi suất tăng cao vượt tỷ suất lợi nhuận đầu tư và các danh mục
đầu tư và dự án, làm thu nhập của người đi vay giảm. Do vậy, dẫn đến tổng chi
tiêu giảm, GDP giảm. Mặt khác, đối với các hộ gia đình nắm giữ nhiều cổ phiếu,
trái phiếu, lãi suất tăng sẽ làm giảm giá tài sản tài chính, do đó, giảm thu nhập, từ

đó tạo sức ép giảm tiêu dùng của các hộ gia đình.
Tuy nhiên, tác động của lãi suất đến hành vi tiêu dùng và sản xuất của xã hội
nhiều hay ít, nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi quốc
gia, trong từng quốc gia thì mỗi giai đoạn phát triển của thị trường tài chính thì
mức độ tác động của lãi suất cũng khác nhau.
Đối với Việt Nam từ năm 2000-2007, tác động của lãi suất đến tăng trưởng và
lạm phát có thể thấy được qua việc xem xét ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường
tiền tệ Việt Nam đối với hành vi của cá nhân và các doanh nghiệp, từ đó đánh giá
ảnh hưởng của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
2.2. Một số lí thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và các biện
pháp kiềm chế lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1. Các lí thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
2.2.1.1.Hiệu ứng Fisher
Hiệu ứng Fischer do nhà kinh tế học người Mỹ Irving Fisher đưa ra vào thời kì
đại khủng hoảng 1930-1939. Đây là một nội dung quan trọng trong thuyết số
lượng tiền tệ của ông, nhằm mục đích lí giải hiện tượng khủng hoảng của nền kinh
tế. Ông cho rằng nguyên nhân chủ chốt gây ra Đại khủng hoảng là tín dụng dễ dãi
dẫn đến sự nợ nần quá mức, gây ra nận đầu cơ và các bong bong tài sản, và khi
bong bong tài sản vỡ dẫn đến tài sản giảm giá trị, đói tín dụng, ảnh hưởng đến các
ngành sản xuất, dẫn đến giảm phát.
16
Hiệu ứng Fisher mô tả mối quan hệ giữa tỉ lệ lạm phát và hai loại lãi suất là lãi
suất danh nghĩa và lãi suất thực tế: Khi tỉ lệ lạm phát tăng lên thì tỉ lệ lãi suất danh
nghĩa cũng tăng lên cùng một tỉ lệ, trong khi tỉ lệ lãi suất thực tế không thay đổi.
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát.
Ví dụ, nếu ngân hàng trả cho khoản tiền tiết kiệm mà bạn gửi trong một năm với
lãi suất danh nghĩa là 8%, và tỉ lệ lạm phát trong thời gian đó là 6% thì lãi suất
thực tế mà bạn nhận được sẽ chỉ là 2%. Bởi vì theo hiệu ứng Fisher 8%- 6%=2%
Như vậy khi mà tỷ lệ lạm phát tăng 1% thì lãi suất danh nghĩa cũng tăng 1%, mối
tương quan một- một giữa tỷ lệ lạm phát với lãi suất danh nghĩa được gọi là hiệu

ứng Fisher.
2.2.1.2 Sự ảnh hưởng của lãi suất đến tỷ lệ lạm phát thông qua cơ chế lan
truyền tiền tệ
Lãi suất là một công cụ quan trọng bậc nhất của chính sách tiền tệ. Nó được áp
dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được ngân hàng nhà nước điều hành chặt
chẽ và mềm dẻo tuỳ theo từng thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và
cung ứng vốn . Như vậy chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tác động làm thay đổi
cầu tiền tệ trong dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi có lạm phát
Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công
ty sẽ đầu tư vào ngân hàng ( gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản
xuất kinh doanh. Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu
giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng theo hiệu ứng Fisher, chúng ta biết rằng :
Tỷ lệ lãi suất danh nghĩa = tỷ lệ lãi suất thực tế + tỷ lệ lạm phát
Do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính là việc tăng tỷ
lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực dương )
qua đó mới tạo được cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm lại
khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào Ngân hàng
thương mại ( NHTM ) và ngược lại NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất kinh
doanh có lãi thì sẽ giảm được khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền cho vay cao
17
thì sẽ làm nản lòng người đi vay vì kinh doanh bằng vốn vay NHTM không có lợi
nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng
của NHTM để đạt mục đích của chính sách tiền tệ - ổn định lạm phát. Ở Việt Nam
đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suẩt vào những năm cuối thập kỷ 80
trong việc giảm tỉ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở
nước ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ có tác
động trong nước bằng đầu tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính
sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến
mối quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất thế giới. Trong việc kiểm soát lạm
phát đây là công cụ phổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một

công cụ rất quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát, huy động vốn và cung cấp
vốn.
2.2.1.3. Tác động gián tiếp của lạm phát đối với lãi suất thông qua lĩnh vực tín
dụng và tiền tệ .
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng , thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số tiền
gửi vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị giảm xuống. Về phía hệ
thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng bị giảm mạnh nên không đáp
ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá quá nhanh của đồng
tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi sao cho phù hợp với tỷ lệ lạm không làm an
tâm những cá những cá nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong
tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, hệ thống ngân
hàng phải cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Mà lãi suất thưc = lãi suất danh
nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lãi suất thực ổn định thì
lãi suất danh nghiã phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát.
Trong khi đó người đi vay là những có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền nhanh
chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống của ngân hàng không còn bình thường nữa.
Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm
phát thì chẳng có ai tích trữ tài sản dưới hình thức tiền mặt.
18
2.2.2.Lý thuyết về kiềm chế lạm phát.
Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây nên những hậu quả lớn trong đời sống
của nhân dân lao động và cho tăng trưởng kinh tế, Chính phủ các quốc gia cần
phải có những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và khắc phục lạm phát. Lịch sử
chống lạm phát của các nước cho thấy: Trong hoàn cảnh cụ thể, Chính phủ phải
cần thiết áp dụng những biện pháp mang tính chiến lược.
2.2.2.1. Kiềm chế lạm phát bằng cách giảm tổng cầu.
a) Chính sách tài khoá thu hẹp:
Có hai cách thức áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp là giảm tiêu dùng Chính
phủ hay tăng thuế trực thu. Nếu áp dụng chính sách giảm tiêu dùng Chính phủ thì
sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ; còn việc tăng thuế trực

thu thì sẽ làm giảm thu nhập khả dụng, gián tiếp làm giảm tiêu dùng và kết quả là
giảm tổng cầu
b) Chính sách tiển tệ thu hẹp:
Thực hiện chính sách này bằng cách bán các loại giấy tờ có giá, tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu.
Khi chính phủ bán các loại giấy tờ có giá như trái phiếu Chính phủ, thì một lượng
tiền trên thị trường được rút về, làm giảm lượng cung tiền, qua đó làm giảm tiêu
dùng và đầu tư, hạn chế lạm phát. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, việc bán trái
phiếu Chính phủ để hút tiền trong lưu thông về rồi lại đầu tư vào các dự án, các
doanh nghiệp nhà nước rất lâu thu hồi vốn và kém hiệu quả, mặt khác rất có thể
biến Ngân hàng nhà nước thành con nợ của các Ngân hàng trung gian và phải trả
lãi.
Khi Ngân hàng trung ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc tăng tỷ suất chiết khấu
sẽ làm giảm lượng cung tiền trong các ngân hàng trung gian, từ đó làm giảm đầu
tư, hạn chế lạm phát. Mặt khác, nếu áp dụng chính sách này một cách cứng nhắc
sẽ làm ảnh hưỏng xấu đến sản xuất và xuất khẩu, có thể làm giảm đáng kể tốc độ
tăng trưởng.
19
2.2.2.2. Chống lạm phát bằng cách tác động lên cung:
a) Phương pháp cắt giảm chi phí sản xuất:
Thực hiện phương pháp này tức là tìm mọi cách để giảm chi phí bỏ ra cho các yếu
tố đầu vào nhằm hạ giá thành sản phẩm. Ví dụ như cắt giảm số lao động, sử dụng
một cách tiết kiệm và có hiệu quả nguyên nhiên vật liệu dùng trong sản xuất…giá
cả thị trường sản xuất giảm xuống sẽ kiềm chế có hiệu quả lạm phát.
b) Phương pháp gia tăng năng lực sản xuất trên cơ sỏ nâng cao hiệu quả sản
xuất:
Thực hiện phương pháp này tức là tiến hành đầu tư nâng cao khoa học công nghệ,
ứng dụng trong sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất…nhằm tăng sản
lượng sản phẩm trong khi không tăng giá thành sản phẩm.
Cả hai biện pháp này đang có ý nghĩa hết sức quan trọng trong các biện pháp kiềm

chế lạm phát ở nước ta hiện nay, nhất là trong tình trạng giá xăng dầu trên thị
trường thế giới tăng cao, nhưng tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC quyết
định không tăng sản lượng làm giá hầu hết các yếu tố đầu vào đều tăng. Đối với
một số nước như Trung Quốc, Singapore…, năng lượng của họ không phụ thuộc
vào nhiều vào dầu, bởi họ có nguồn năng lượng thay thế như năng lượng hạt nhân,
năng lượng mặt trời, năng lượng sức gió…trong khi đó ở Việt Nam không có,
cộng với ý thức sử dụng năng lượng chưa cao gây lãng phí. Mặt khác, trình độ ứng
dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế, chính là nguyên nhân đẩy
giá thành lên cao. Chính vì thế, đầu tư trang thiết bị hiện đại, học tập cách quản lý
từ các nước tiên tiến, chính là cách giảm tác động của lạm phát tới nền kinh tế.
2.2.2.3. Chống lạm phát do quán tính:
Sử dụng các thông tin đại chúng, các động thái của Chính phủ đúng lúc, và đúng
mức nhằm chấn an các thành phần kinh tế, làm cho họ tin tưởng vào sự phát triển
bền vững của nền kinh tế, tin rằng lạm phát sẽ được khống chế có hiệu quả trong
tương lai gần. Do đó, họ loại bỏ trong kế hoạch của mình các yếu tố liên quan đến
tốc độ lạm phát cao, và hạn chế được phần nào lạm phát. Tất nhiên, việc sử dụng
20
biện pháp này phải dựa trên những thành công của công tác phòng chống lạm phát
bằng cách làm giảm cầu hay tác động lên cung.
2.3.Tổng quan tình hình khách thể và những nghiên cứu có liên quan ở Việt
Nam và trên thế giới.
Liên quan đến vấn đề lãi suất, lạm phát đã có không ít các học giả, các cơ quan
ban ngành quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu. Thông thường khía cạnh thu hút
được nhiều sự quan tâm nhất là cơ chế điều hành lãi suất và tình hình lạm phát
cũng như nguyên nhân, biện pháp kiềm chế lạm phát.
Bàn về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất thì chỉ có số ít công trình được công
bố. Hầu hết các nghiên cứu liên quan đưa ra cách phân tích ít mang tính lí luận mà
chú trọng vào tình hình thực tế thông qua nghiên cứu các số liệu về tỉ lệ lạm phát
và lãi suất cụ thể.
2.3.1. Tình hình khách thể nghiên cứu trong nước.

Nói đến mối quan hệ giữa lạm phát với lãi suất có lẽ không có nhiều ý kiến khác
nhau và cũng không phải tranh luận nhiều nếu tất cả đều hiểu lãi suất là giá danh
nghĩa của tiền tệ, nhưng sẽ có quy luật vận động ngược chiều với lạm phát. Hiện
nay các nhà nghiên cứu trong nước thường chỉ đưa ra các nhìn nhận đánh giá về
diễn biến của hai biến số kinh tế quan trọng này trong thực tế chứ hầu như không
đi sâu vào nghiên cứu lí luận.Các báo cáo, nghiên cứu được liên tục cập nhật trên
các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc được xuất bản dưới dạng sách, báo, tạp
chí tham khảo. Ngoài ra một số nghiên cứu được công bố từ các tổ chức nghiên
cứu khác nhau như tổng cục thống kê; ngân hàng Nhà nước hay bộ kế hoạch và
đầu tư
2.3.2. Tình hình khách thể nghiên cứu trên thế giới.
Lạm phát và lãi suất không còn là vấn đề mới mẻ trên thế giới nữa mà nó đã thu
hút được sự quan tâm của các học giả từ nhiều thế kỷ trước. Nhận thấy tầm quan
trọng và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hai chỉ số này đến nền kinh tế, đã có không ít
21
các nhà kinh tế học, các nhà khoa học và các nhà triết học đi sâu vào nghiên cứu
và chuyển thành các trường phái, các tư tưởng nổi tiếng.
Người đầu tiên khái quát mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất một cách có hệ
thống và đặt tiền đề cho các nghiên cứu về sau, đó là Irving Fisher với hiệu ứng
Fisher mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Qua hiệu ứng Fisher, ta có thể thấy mối
quan hệ tuyến tính giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ lãi suất. Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên
thì lãi suất cũng tăng lên với cùng tỷ lệ.
Bước tiếp theo tư tưởng của Irving Fisher, John Maynard Keynes, đã tiếp tục
nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất. Nhưng ông lại trình bày mối
quan hệ này một cách gián tiếp khi cho rằng lãi suất là một công cụ quan trọng của
chính sách tiền tệ và thông qua chính sách tiền tệ , Chính phủ sẽ tác động đến tổng
cầu từ đó ảnh hưởng đến mức giá chung của nền kinh tế, tức là điều chỉnh tỷ lệ
lạm phát.
Ngoài các tư tưởng chủ đạo kể trên thì còn không ít các nhà kinh tế học tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện lý luận về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất, như

Milton Friedman với việc hoàn thiện lý thuyết tiền tệ hay các đóng góp lớn về học
thuật trong các lý luận về chính sách tiền tệ và tài chính của James Tobin
Còn về nội dung kiềm chế lạm phát, có thể nói đây là lĩnh vực thu hút được
không ít sự quan tâm của các các chuyên gia kinh tế.
Theo John Maynard Keynes thì Chính phủ có vai trò quan trọng hàng đầu trong
việc điều tiết lạm phát thông qua các chính sách tiền tệ và tài khoá của mình.
Trước Keynes thì người thầy của ông Alfred Marshall cũng đã đề cập đến vai trò
của Chính Phủ trong việc điều tiết lạm phát. Có thể nói chính Marshall đã chỉ dẫn
cho Keynes phát triển tư tưởng trọng cầu của mình.
Cuối cùng phải kể đến nghiên cứu của nhà kinh tế học hiện đại David Begg. Ông
là người đúc kết các tư tưởng kinh tế và chuyển hoá thành tác phẩm “ Kinh tế học”
nổi tiếng. Trong tác phẩm ấy ông đã chỉ ra các nguyên nhân gây ra lạm phát, chi
phí của lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát. Đây thực sự là tài liệu chính
thống cho các nhà nghiên cứu sau này
22
2.4. Các nghiên cứu có liên quan.
2.4.1. Các ngiên cứu có liên quan về mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất.
Nếu đề cập đến các vấn đề liên quan đến lạm phát và lãi suất nói chung thì có thể
nói đây là vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu và rộng khắp.
Trong nước, đã có không ít sách chuyên khảo, tham khảo bàn về lạm phát với lãi
suất được xuất bản. Đó là các công trình nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế
đầu ngành trong nước nhằm đem lại một cách nhìn tổng quan và sâu sắc hơn về
hai biến số kinh tế quan trọng này. Nhưng nhìn chung chủ đề liên quan đến mối
quan hệ giữa lạm phát với lãi suất thì không có nhiều. Các nghiên cứu thường chỉ
xuất hiện dưới dạng một bài viết, chưa thật sự phản ánh hết được mọi mặt của tình
hình. Ví dụ như các chuyên gia thường nhận xét về chính sách điều hành CSTT
trong nước, các giải pháp kiềm chế lạm phát bằng con đường lãi suất, hay rộng
hơn nữa là mối quan hệ giữa lãi suất với các biến số kinh tế khác như tỷ giá hối
đoái, hay lạm phát với tăng trưởng
Còn trên thế giới phạm trù lãi suất đã được các nhà kinh tế thời tiểu tư sản đã đề

cập đến từ những thế kỷ XVII-XVIII. Khi đó lãi suất mới chỉ được đề cập bằng cái
tên “ lợi tức” đó là “khoản tiền thưởng cho việc nhịn chi tiêu ở hiện tại”. Trải qua
chiều dài lịch sử, các vấn đề liên quan đến lãi suất ngày càng thu hút được sự quan
tâm của các nhà kinh tế học và dần được khái quát thành hệ thống lý luận phục vụ
cho việc vận dụng vai trò của lãi suất vào nền kinh tế. Một đại biểu xuất sắc trong
việc nghiên cứu lãi suất là John Maynard Keynes thông qua tác phẩm nổi tiếng “
Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”- xuất bản 1936. Ông cho rằng “
lãi suất là khoản thù lao cho việc mất khả năng chuyển hoán trong một thời hạn
nhất định, là việc đo lường sự tự nguyện của người có tiền không sử dụng tiền mặt
của họ.” Ông đã đi sâu vào nghiên cứu lý thuyết số lượng tiền tệ. Keynes cho rằng
“Lãi suất tỷ lệ nghịch với lượng tiền đưa vào lưu thông”. Và việc đưa ra lý thuyết
sử dụng công cụ lãi suất để thực hiện các chính sách tiền tệ là một thành tựu đáng
kể của ông.
2.4.2. Các nghiên cứu có liên quan về kiềm chế lạm phát.
23
Lạm phát mới thực sự được mọi người quan tâm kể từ khi xảy ra cuộc đại khủng
hoảng 1929-1933. Sau thời kỳ đen tối ấy, các nước đã đề cao vai trò của việc kiểm
soát lạm phát và do đó các nhà kinh tế học bắt đầu đi sâu vào nghiên cứu lạm phát
cũng như các vấn đề liên quan đến lạm phát. Nhưng từ trước đó, phạm trù lạm
phát đã xuất hiện trong tư tưởng của các nhà khoa học. Có thể kể nghiên cứu của
Karl Marx, ông cho rằng “Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu
thông, vượt quá nhu cầu của lưu thông hàng hoá, dẫn tới sự mất giá của đồng tiền
và phân lại thu nhập quốc dân.” Nhưng vì điều kiện lịch sử lúc đó chưa cho phép
Ông hiểu được hết nhưng diễn biến phức tạp của lạm phát nên ông mới chỉ dừng
lại ở việc nghiên cứu một cách tổng quan. Đỉnh cao về nghiên cứu lạm phát thuộc
về nhà kinh tế học Paul A.Samuelson. Ông đã phân tích được đầy đủ các khía
cạnh khác nhau của lạm phát như các loại lạm phát, các chi phí của lạm phát ,
nguyên nhân gây ra lạm phát và các biện pháp kiềm chế lạm phát. Về sau mọi
nghiên cứu có liên quan đều xuất phát dựa trên lý thuyết về lạm phát của ông.
2.4. Mô hình nội dung nghiên cứu của đề tài.

Để nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất chúng tôi sử dụng mô hình
IS – LM, trong đó đường LM là đường cân bằng thị trường tiền tệ, là tập hợp các
kết hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập sao cho cầu tiền thực tế bằng với cung
tiền thực tế; đường IS là tập hợp các kết hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập
sao cho tổng chi tiêu kế hoạch đúng bằng thu nhập.
Lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ. Khi chính phủ sử dụng chính sách
tiền tệ nới lòng tổng cung tiền tăng, lãi suất giảm và qua đó kích thích đầu tư.
Ngược lại Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt khi giảm cung tiền, tăng
lãi suất .Thông qua mô hình IS-LM mục đích của chúng tôi là làm rõ được vai trò
của lãi suất trong việc điều chỉnh tổng cầu qua đó có thể làm thay đổi tỷ lệ lạm
phát.
24
Hình 2.2. Mô hình IS - LM
Một mô hình nữa được sử dụng nghiên cứu đó là mô hình tổng cung và tổng cầu.
AD và AS. Trong đó tổng cầu AD= C+ I + G + NX với C là chi tiêu của hộ gia
đình; I là tổng đầu tư của các doanh nghiệp; G là chi tiêu của chính phủ và NX là
xuất khẩu ròng.
Tổng cung biểu thị cho khả năng sản xuất của đất nước trong một giai đoạn nhất
định. Trong dài hạn đường tổng cung là thẳng đứng còn trong ngắn hạn đường
tổng cung dốc lên. Thông qua mô hình tổng cung và tổng cầu chúng tôi muốn chỉ
ra nguyên nhân gây ra lạm phát và dựa vào nguyên nhân đó để tìm cách kiềm chế
lạm phát.
0
Y
LM
IS
r
ro
P0
Yo

25

×