Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận xã hội học đại cương nêu đối tượng nghiên cứu xã hội học mối quan hệ giữa xã hội học với các ngành khoa học khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.5 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN
KẾT THÚC MÔN: XÃ HỘI HỌC

Mục lục
Câu 1..................................................................................................................3

Câu 2...............................................................................................................7
Tài liệu tham khảo........................................................................................19

2

Câu 1: Nêu đối tượng nghiên cứu Xã hội học? Mối quan hệ giữa Xã
hội học với các ngành khoa học khác?

1.Xã hội học là gì
Về mặt thuật ngữ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Xã hội học là học
thuyết về xã hội, nghiên cứu xã hội
Về mặt lịch sử, Auguste Comte đã nhận thấy các khoa học xã hội
đương thời có nhiều hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội,
không trả lời được những vấn đề bức thiết do xã hội đặt ra. Ông xây dựng
khoa học mới-xã hội học, vào năm 1839, một khoa học nghiên cứu các quá
trình xã hội vừa trên cơ sở định tính vừa trên cơ sở định lượng
Theo đó xã hội được mơ tả như một hệ thống hồn chỉnh có cấu trúc
xác định (các tập hợp, nhóm, tầng lớp...) được tổ chức, vận hành theo các
thiết chế, luôn vận động, biến đổi theo tính quy luật
Về sau các nhà nghiên cứu xã hội khác như C.Mac đã phát triển, nghiên
cứu các vấn đề mới trong đời sống xã hội làm cho xã hội học phát triển,
phong phú hơn
Hiện nay có nhiều trường phái xã hội học, với các quan điểm khác nhau
nhưng các định nghĩa về xã hội học mà họ đưa ra có nhiều tương đồng. Xã
hội học là một khoa học thuộc các khoa học xã hội, nghiên cứu các tương tác


xã hội, đặc biệt đi sâu một cách hệ thống sự phát triển, cấu trúc, mối tương
quan xã hội và hành vi hoạt động của con người trong các tổ chức, nhóm xã
hội
2.Đối tượng nghiên cứu của Xã hội học
Cũng như các khoa học xã hội khác, xã hội học cũng có đối tượng
nghiên cứu độc lập của nó. Nhấn mạnh tính tương đối vì những gì xã hội học
nghiên cứu cũng liên quan đến các môn khoa học khác. Trong lịch sử phát
triển của xã hội học đã diễn ra các cuộc tranh luận về đối tượng nghiên cứu
của xã hội học

3

Xã hội loài người là khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội,
trong đó có xã hội. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là các quan hệ,
tương tác xã hội được biểu hiện thông qua các hành vi xã hội giữa người và
người, trong các nhóm, các hệ thống xã hội...

Xét trong tiến trình phát triển của xã hội học, các vấn đề kép “con
người-xã hội”, “hành động xã hội-cơ cấu xã hội” và “vĩ mô-vi mô”... là chủ
đề trung tâm trong nghiên cứu xã hội học. Nói một cách khái quát, đối tượng
nghiên cứu của xã hội học là hành vi xã hội của con người: mối quan hệ hữu
cơ, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa con người với tư cách là cá nhân, nhóm... với
một bên là xã hội với tư cách là hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội

Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là các cộng đồng xã hội,
hình thức xã hội của sự tồn tại và phát triển của con người, đó là tính chất xã
hội của hoạt động cua đời sống con người, nó bao gồm các hình thức tổ chức
gia đình, dân cư, cộng đồng giai cấp và xã hội, thành phần dân tộc, nghề
nghiệp, xã hội, nhân khẩu xã hội. như vậy đối tượng nghiên cứu của xã hội
học là tất cả các quá trình và hiện tượng xã hội. Trong các q trình ấy, dù ở

cấp độ vi mơ hay vĩ mô xã hội học cũng cần tập trung nghiên cứu về mức độ
biểu hiện, nguyên nhân, động lực và xu hướng phát triển của chúng.

Nghiên cứu các vấn đề trên, xã hội học phát hiện ra quy luật, tính quy
luật chi phối các quan hệ, các mối liên hệ tạo thành hệ thống tổng thể, hoàn
chỉnh của xã hội

3. Mối quan hệ giữa Xã hội học với các ngành khoa học khác
Các khoa học xã hội học cùng nghiên cứu xã hội, tuy có tính độc lập
tương đối, nhưng nó có mối quan hệ với nhau. Do đó đối với các nhà xã hội
học, kiến thức tâm lí học rất cần thiết trong tâm lí học xã hội. Xã hội học cũng
có liên hệ chặt chẽ với chính trị kinh tế học. Với nhà xã hội học, các kiến thức
pháp lí, pháp quyền cũng rất quan trọng. Thực vậy xã hội học phát triển như
là một khoa học về sự phát sinh tự phát, về các lực lượng tự phát nên trong
giới xã hội học ln có phần nào xem thường khoa học pháp lí và ngược lại,

4

khoa học pháp lí cũng vững tin ở sức mạnh điều hịa của các hành động chuẩn
mực nên cũng có xu hướng coi nghe công tác nghiên cứu của các nhà xã hội
học. Tuy nhiên hiện nay cả hai lĩnh vực này đã xích lại gần nhau, các nhà xã
hội học và nhà pháp lí đều kết luận rằng việc mơ tả, giải thích đầy đủ các q
trình xã hội đã diễn ra yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ với nhau. Ngoài ra, các
nhà xã hội học cũng rất quan tâm đến kết quả nghiên cứu của các nhà nhân
chủng học, sử học, đặc biệt là lịch sử văn hóa

Quan hệ giữa xã hội học với các khoa học cụ thể khác
- Xã hội học và triết học: Trước khi xã hội học trở thành mơn khoa học
độc lập thì nó đã tồn tại, gắn liền với triết học. Triết học là hệ thống các ý
tưởng, giá trị, là hệ thống các tư tưởng suy tư, con người phải kết hợp với

nhau và hành động thế nào. Xã hội học thì nghiên cứu cách thức con người
ứng xử với nhau thế nào, hậu quả của lối ứng xử này ra sao? Triết học cung
cấp cho xã hội học phương pháp luận khoa học khi xem xét các sự kiện xã
hội, còn xã hội học đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu sự tương tác của con
người trong xã hội, đặc biệt là nó chú trọng nghiên cứu sự hình thành và kết
cấu trong xã hội, các phong tục, tập quán, giá trị... xã hội học đi tìm những
điều kiện xã hội, logic đằng sau chi phối các ứng xử của con người. Xã hội
học cũng tác động trở lại triết học, nó cung cấp cho triết học tư liệu, sự kiện,
hiện tượng xã hội để xã hội học xem xét
- Xã hội học và tâm lí học: tâm lí học nghiên cứu sự phát triển tinh thần
cảm xúc của con người trong đời sống xã hội, còn xã hội học nghiên cứu về
các nhóm người, cộng đồng người. Tâm lí học hành vi và tâm lí học ứng dụng
cũng đều chú ý đến hành vi, tình cảm, trí nhớ của con người ở đó nó biểu hiện
sự tương tác giữa các cá nhân và nhóm xã hội. Xã hội học nghiên cứu mối
quan hệ, tâm lí xã hội, nghiên cứu đời sống trong các nhóm xã hội chi phối
thế nào đến nhận thức, ứng xử của con người
- Xã hội học và nhân chủng học: xã hội học và nhân chủng học có mối
quan hệ gần gũi với nhau và các nhà xã hội học và nhân chủng học đều nhận

5

ra 2 ngành đều có nhiều điểm chung. Cả hai đều là ngành khoa học mói so với
những ngành khoa học xã hội khác. Cả hai đều muốn tìm hiểu đời sống của
con người ở các nền văn hóa khác nhau. Hai ngành đều có sự vay mượn lẫn
nhau về lí thuyết, phương pháp nghiên cứu, cùng quan tâm đến nghiên cứu
các vấn đề xã hội đặc biệt là gia tăng dân số, suy thối mơi trường, đói nghèo,
ơ nhiễm mơi trường

Có một sự khác nhau nhỏ về phương pháp nghiên cứu. Việc sử dụng
mẫu và khảo sát mẫu là thông dụng với nhà xã hội học. Nhà nhân chủng học

lại sử dụng cách tiếp cận chính thể luận, quan sát có sự tham gia

Trong quan hệ với các khoa học cụ thể khác, xã hội học “nhận” nhiều
hơn “cho”. Điều đó chứng tỏ xã hội học không ngừng tiếp thu các thành tựu
của các khoa học khác để tiếp tục hoàn thiện hệ thống khái niệm, phạm trù,
ngun lí, phương pháp nghiên cứu của mình. Ngồi ra nghiên cứu xã hội học
cịn địi hỏi phải có kiến thức rộng, có kiến thức liên ngành

6

Câu 2: Bằng kiến thức đã học về Xã hội học gia đình, hãy lập đề
cương nghiên cứu với chủ đề: Gia đình Việt Nam trong bối cảnh covid

- Đặt tên đề tài
- Lí do lựa chọn đề tài
- Xác định mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
- Xác định phương pháp nghiên cứu
Dựa trên thông tin thu thập được, hãy đánh giá về thực trạng của vấn đề
TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN TRONG GIA ĐÌNH VIỆT
TRONG BỐI CẢNH COVID (KHẢO SÁT TẠI QUẬN BA ĐÌNH, TÂY
HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI, KHẢO SÁT TỪ THÁNG 1 ĐẾN THÁNG
6/2021)
1.Lí do chọn đề tài
Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa trong
lịch sử nhân loại và đã tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, loại
hình tín ngưỡng này theo nhiều người phỏng đốn thì nó xuất hiện từ thời
Hùng Vương. Cho đến nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn ln giữ một vai
trị quan trọng trong đời sống tinh thần của nhiều tộc người (đặc biệt là ở khu
vực Á đơng). Tuy nhiên, sự nhìn nhận đánh giá vai trị và ý nghĩa của tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn nhiều ý kiến khác nhau. Trước xu hướng tồn
cầu hóa hiện nay, các hoạt động tơn giáo, tín ngưỡng đang ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Đặc biệt là sự xâm nhập của các tôn giáo ngoại sinh, đang là
mối lo ngại của nhiều quốc gia trong đó Việt Nam. Trước bối cảnh đó, nhiều
quốc gia, dân tộc đã có những động thái tích cực bằng cách chấn hưng tín
ngưỡng văn hóa dân tộc, khơi phục lại các giá trị truyền thống đã từng bị mai
một hoặc có thời kỳ bị thờ ơ, xem nhẹ. Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng dân gian trong đó có tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một việc cấp thiết hiện nay, bởi nó góp phần tăng
sức đề kháng cho văn hóa dân tộc.

7

Hiện nay, tình hình đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị ln xác định “chống dịch như chống
giặc”; mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi ngơi nhà, thơn bản, xóm làng… khu
phố là một pháo đài chống dịch; do vậy gia đình chính là điểm tựa quan trọng
trong phòng chống dịch COVID-19. Gia đình là tế bào của xã hội, là nền tảng
để xây dựng xã hội hạnh phúc do vậy vào lúc này cần xây dựng gia đình trở
thành pháo đài vững chắc, điểm tựa quan trọng trong phòng chống đại dịch
COVID-19. Trong đó, sự chia sẻ, thấu hiểu và động viên lẫn nhau của từng
thành viên gia đình, đồng thời động viên các chiến sĩ, y, bác sĩ ở tuyến đầu
yên tâm, nỗ lực chống dịch bệnh cho cộng đồng là rất quan trọng.

Nửa đầu năm 2021 cũng là thời gian có nhiều nghi lễ thờ cúng tổ tiên
trong mỗi gia đình như: Tết Nguyên đán, Lễ Tảo mộ, Các ngày Rằm, Mùng 1,
Tết Hàn thực... Trong năm 2021, dịch covid-19 diễn biến vẫn phức tạp, các
biện pháp hạn chế đi lại, di chuyển, tụ tập đông người vẫn được thực hiện
nghiêm ngặt khiến các nghi lễ, phong tục cổ truyền trong thờ cúng Tổ tiên bị
ảnh hưởng


Quận Tây Hồ và Ba Đình là hai quận trung tâm của Thủ đơ, hội tụ nhiều
gia đình với những hoàn cảnh, ngành nghề khác nhau. Đây cũng là hai quận có
nhiều di tích lịch sử, nhiều nơi thờ tự, du lịch tâm linh nổi tiếng. Nên sinh hoạt
văn hóa tâm linh và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của các gia đình ở hai quận này
được thực hiện với nhiều nét văn minh, giữ gìn các truyền thống tốt đẹp. Từ
thực trạng trên và với mong muốn đem lại giải pháp để giữ gìn, phát triển tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt thời kì covid tác giả chọn đề tài
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt thời kì Covid (Khảo sát tại
quận Ba Đình, Tây Hồ, thành phố Hà Nội, từ tháng 1 đến tháng 6/2021)

2.Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt trong thời kì Covid nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị
của thờ cúng tổ tiên trong xã hội hiện nay.

8

Để thực hiện mục đích nói trên, đề tài có những nhiệm vụ sau đây:
Làm rõ khái niệm tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, nguồn gốc bản chất tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Trình bày những biểu hiện của giá trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt. Từ thực trạng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong thời kì Covid,
đề xuất một số giải pháp nhằm định hướng đúng, hiểu rõ và phát huy những
giá trị của thờ cúng tổ tiên.
3.Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và giá
trị tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Phạm vi nghiên cứu : Đề tài tập trung nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt, đánh giá xu hướng biến động của tín ngưỡng thờ cúng

tổ tiên hiện nay.
Khách thể nghiên cứu: Các hộ gia đình cư trú trong phạm vi hai quận
Ba Đình và Tây Hồ tại thành phố Hà Nội
4.Phương pháp nghiên cứu
Điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu: Đây là phương pháp nghiên cứu
địa lý truyền thống để khảo sát thực tế, trên cơ sở đó áp dụng việc nghiên cứu
lý luận gắn liền với thực tiễn để bổ sung cho lý luận ngày càng hồn chỉnh.
Qua khảo sát cịn cho phép thu thập được nguồn tài liệu quý giá phục vụ cho
q trình nghiên cứu. Từ đó có những nhận xét, đánh giá ban đầu để đưa ra
một số đề xuất nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những
ảnh hưởng tiêu cực, nhằm bảo tồn và phát huy bán sắc văn hóa truyền thống
tốt đẹp của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt.
Phương pháp thống kê và phân tích
Phương pháp so sánh đối chiếu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
như phân tích, tổng hợp, lô gich - lịch sử, so sánh, quy nạp, diễn dịch.
Một số thực trạng của vấn đề

9

Một số kết quả tốt
Các nghi lễ được thực hiện online, giúp người dân tiết kiệm thời gian,
cơng sức, đảm bảo an tồn
Vào lễ Thanh minh, nhiều gia đình đã hỗn kế hoạch tảo mộ, sửa sang
mộ phần ơng bà tổ tiên, hạn chế tụ tập, thăm hỏi họ hàng nhằm đảm bảo
phòng chống dịch covid-19. Đây cũng là hành động chung tay ủng hộ cơng
tác phịng chống dịch của nhà nước. Một số gia đình vẫn sắm sửa lễ nhỏ để
“khấn vọng” từ gia đình mình. Điều này đã đem lại sự văn minh, hiện đại
nhưng vẫn thể hiện được sự hiếu thảo, chu toàn của người dân trong dịp lễ
này

Một số dịp lễ được chuyển thành hình thức online. Như lễ dâng sao giải
hạn, Rằm tháng Giêng tại một số chùa, đền nổi tiếng đã tổ chức hình thức
livestream trên các trang mạng xã hội. Để người dân tiện theo dõi và vẫn cảm
nhận được khơng khí thiêng liêng, thanh tịnh của nghi lễ. Đây là hình thức
hiện đại, tiết kiệm giúp hạn chế tập trung đông người, phục vụ nhu cầu tâm
linh của các gia đình
Việc trẻ em bị hạn chế các hoạt động vui chơi, đến trường cũng là cơ
hội để cha mẹ hướng dẫn, phổ biến đến các em các nghi thức về thờ cúng tổ
tiên
Việc hạn chế các hoạt động vui chơi giải trí, và đóng cửa trường học đã
ảnh hưởng nhiều đến tâm lí, chất lượng học tập, sức khỏe của trẻ em. Những
dịp lễ như Tết Hàn thực, Tết Đoan ngọ... nhiều gia đình đã hướng dẫn con em
mình làm những loại đồ ăn cổ truyền như bánh trôi, bánh chay, rượu nếp. Qua
đó, các em cũng sẽ được truyền đạt những hiểu biết về các tín ngưỡng cố
truyền, các thức quà cổ truyền. Kĩ năng sống, hiểu biết về văn hóa của các em
cũng được cải thiện, gia tăng nhiều trong những dịp này
Các dịp lễ như ngày Rằm, Mùng Một hàng tháng, lễ giỗ người thân
trong gia đình. Đây cũng là dịp để kể về công lao, thành tựu của người đã
khuất, tỏ lịng thành kính, biết ơn, phát huy truyền thống “uống nước nhớ

10

nguồn” trong gia đình và truyền đạt những giá trị tốt đẹp này cho trẻ em. Các
ngày Rằm, Mùng một hàng tháng, nhiều gia đình cũng tổ chức ăn chay, làm
việc thiện như phóng sinh, trồng cây, từ thiện... đây là những hành động đẹp,
lan tỏa lòng nhân ái, yêu thương mn lồi đến trẻ em

Những ngày lễ lớn được tổ chức online như mùa Vu lan, Xá tội vong
nhân đều trong thời gian giãn cách xã hội toàn thành phố. Nên các gia đình sẽ
có xu hướng gói gọn, đơn giản hóa trong chuẩn bị, thực hiện các nghi lễ này.

Việc phụ giúp cha mẹ chuẩn bị, bài trí mâm cỗ, lễ phần các ngày lễ là hoạt
động bổ ích, rèn luyện tính tỉ mỉ, sống có tình có nghĩa cho trẻ em

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của các gia đình gắn với đời thường, gắn
với sinh hoạt văn hóa cộng đồng, được chú trọng nhiều hơn

Xuất phát từ quan niệm “trần sao, âm vậy”, việc thắp hương thờ cúng
tổ tiên đã trở thành quen thuộc, phổ biến trong mỗi gia đình người dân Việt.

Thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên ngoài trách nhiệm đạo lý vốn là
truyền thống có hình thức giản dị, khơng mất nhiều thời gian, lại thiết thực
trước là thờ cúng tổ tiên, sau là con cháu được thụ lộc, con cháu nhớ tổ tiên
thì cúng bái cũng là tỏ lịng hiếu thảo của mình đối với tổ tiên. Vì thế truyền
thống này dễ đời thường hóa trong mọi gia đình, dù nơng dân hay trí thức, dù
con trưởng hay con thứ, giàu hay nghèo, trai hay gái…phù hợp với quy luật
tình cảm và bản chất tự nhiên của con người. Do đó, khi làm bất cứ việc gì
người ta cũng thường xuyên thắp hương khấn vái tổ tiên phù hộ như: ốm đau,
bệnh tật, sinh nở, bn bán, học hành, thi cử, gia đình nề nếp, con cái ngoan
ngoãn…

Đời thường hóa khơng chỉ ở mỗi gia đình mà cịn gắn với sinh hoạt văn
hóa cộng đồng. Ở nhiều nơi, đã có việc làm thiết thực, nhiều phong trào quần
chúng như: phát huy đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa, xây
dựng gia đình, làng, xã văn hóa khu dân cư kiểu mẫu”…

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay vận động theo xu hướng phục hồi
lại truyền thống.

11


Với người Việt hiện nay, việc thờ cúng tổ tiên ở các cấp độ được biểu
hiện như một hoạt động văn hóa mang tính xã hội và giáo dục. Nó được thể
hiện xu hướng chủ đạo trong sự vận động của các nghi lễ thờ cúng tổ tiên của
người Việt hiện nay. Người tham gia nghi lễ thờ cúng tổ tiên càng có điều
kiện để bình tâm, thư thái, thăm hỏi động viên nhau, chăm lo cho gia đình
dịng họ, làng xã và cao hơn là dân tộc.

Người Việt xưa nay thờ cúng tổ tiên biểu hiện khơng cốt ở lễ vật nhiều
hay ít mà cốt ở lịng thành, lịng hiếu thảo, biết ơn thành kính. Vì vậy, nó đã
đáp ứng được phần nào nhu cầu tâm lý tinh thần tâm linh của các cá nhân và
cộng đồng người Việt.

Kính hiếu, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ và phấn đấu học tập rèn
luyện để làm rạng rỡ truyền thống gia đình họ tộc, quê hương là một truyền
thống lẽ sống của thế hệ trẻ. Và với thế hệ trẻ hiện nay lịng hiếu thảo đó
khơng chỉ dừng lại ở việc trở thành con ngoan hiếu thảo mà còn trở thành một
cơng dân tốt. Chính vì vậy, thế hệ trẻ phải tự học tập, rèn luyện, để nắm bắt
những tri thức mới, dám nghĩ dám làm, dám phá bỏ định kiến, vượt lên những
hạn chế truyền thống để kết hợp những tinh hoa của thời đại với dân tộc. Từ
đó, thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
một xã hội giàu mạnh, cơng bằng, dân chủ, văn minh.

Thờ cúng tổ tiên trong các gia đình, dịng họ hiện nay đã có phần giản
đơn, song phần ý thức tâm linh vẫn được đề cao. Qua đây có thể thấy xuất
phát từ những quan niệm đúng đắn, từ mối liên hệ huyết thống sâu nặng trong
gia đình cũng như trong họ tộc, các nghi lễ thờ cúng tổ tiên đã góp phần làm
phong phú đời sống tinh thần của người Việt. Đó cũng là việc bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống chống lại làn sóng xâm lăng về văn
hóa khi đất nước vận hành cơ chế thị trường.


Hình thức thực dụng, phơ trương lãng phí của các hoạt động thờ cúng
tổ tiên.

12

Hiện tượng đốt vàng mã tràn lan, nhất là dịp lễ tết, ma chay, giỗ chạp.
Vào dịp tháng bảy (âm lịch) hàng năm, người ta sẵn sàng mua nhiều đồ vàng
mã gồm nhiều kiểu đồ dung như: giày dép, quần áo, bát đĩa… và cả những
tiện nghi thời hiện đại: ô tô, xe máy, đô la, tủ lạnh, nhà lầu, xe hơi, máy bay…
Những hàng mã loại này có giá trị rất lớn, nhưng cũng chỉ dùng để đốt đi, gửi
xuống cõi âm, theo như người ta tin là cho người thân mang theo xuống âm
phủ để sử dụng và mong tổ tiên phù hộ cho họ được lại nhiều như thế.

Tương tự như trên, việc sản xuất ra các loại giấy tiền (gọi là tiền âm
phủ) và những tờ giấy màu vàng màu bạc, tượng trưng cho vàng bạc thật để
hóa vàng cho người mất. Hiện nay người ta vẫn chưa thống kê cụ thể chính
xác về mức độ thiệt hại do đốt vàng mã gây nên, đó là một thiệt hại khá lớn
gây lãng phí và ơ nhiễm mơi trường. Vấn đề này đã trở thành phổ biến, khiến
cho mọi người lo ngại và là sự nhức nhối của toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện
tượng đốt vàng mã tràn lan, lãng phí xảy ra hầu như là ở khu vực thành phố.

Khơng ít người trong cuộc sống quan niệm tiền là cái quyết định tất cả,
không chỉ trong quan hệ kinh tế, xã hội, mà trong đời sống tình cảm do những
lẽ sống của những người này mà có nhiều sai lệch, quan hệ gia đình, mẫu tử,
tình yêu, quan hệ vợ chồng, anh chị em bị đồng tiền làm cho mất giá trị nhân
văn của nó. Thời nay, với niềm tin về thế giới âm hồn vĩnh hằng, khơng hiếm
những người con khi cha mẹ cịn sống thì đối xử vơ tâm bội bạc, nhưng khi
chết thì làm đám ma linh đình, xây mồ mả cúng tế hồnh tráng, như thể việc
chăm sóc người tốt quan trọng hơn người sống. Hoặc người ta coi việc phụng
thờ âm hồn là hồn tồn có thể bù đắp, chuộc lỗi cho mọi thiếu hụt, sai sót

của thế giới trần gian.

Việc đề cao ghi nhớ cơng ơn ơng bà tổ tiên trong dịng họ là điều đáng
quý, nên làm. Song cũng chính việc này mà cũng làm nảy sinh những quan
niệm không đúng, những hiện tượng tiêu cực, khơng ít những người lấy mâm
cao cỗ đầy, lợi dụng chức quyền để biến việc tang lễ, giỗ chạp, mừng thọ của
ông bà cha mẹ thành dịp kinh doanh thu tiền. Tơn kính người đã khuất mang

13

ý nghĩa đạo đức nhưng đi cùng với nó là những lễ vật quá tốn kém, rườm rà,
bày vẽ. Vì thế mà tùy vào điều kiện giàu nghèo nếu không nó sẽ trở thành
gánh nặng, thành cái cớ vì mục đích khác. Sự phục hồi dịng họ với các loại
hình tín ngưỡng đơi khi dẫn đến những hiện tượng khơng đúng như xơi thịt
linh đình, tốn thời gian, tiền của công sức.

Giỗ lớn hay bé, cuối cùng cũng chỉ là trước cúng sau cấp. Việc tôn vinh
người sáng nghiệp, nêu gương bậc tiền liệt, đoàn kết sum họp bà con họ hàng,
anh em, giáo dục truyền thống, nêu tiêu chí phấn đấu cho các thành viên gia
tộc, dần dần bị mai một.

Người Việt vốn quan niệm hệ thống mồ mả ứng với thế giới vong hồn
có tác động trực tiếp lên thế giới người còn sống. Người ta tin rằng mọi hiện
tượng vui - buồn, sướng - khổ, phúc - họa nơi trần gian đều có tính hệ quả,
chịu sự chi phối mạnh mẽ từ thế giới âm hồn. Ai chăm sóc tốt phần mộ thì có
thể hưởng lợi, được tổ tiên ơng bà phù hộ, ban phúc lộc, nếu không dễ bị
giáng họa… Các khái niệm mộ kết, mộ phát, động mồ động mả… là ví dụ
điển hình của niềm tin tín ngưỡng thể hiện sự ràng buộc sâu sắc giữa dương
gian và cõi âm. Như thế, trong sự cầu cúng tổ tiên, săn sóc mồ mả, bên cạnh
sự tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân là mục đích mưu cầu lợi ích cho bản thân

gia đình người cịn sống. Nói cách khác, tính vụ lợi và thực dụng luôn song
hành cùng cái gọi “uống nước nhớ nguồn”, thể hiện tính hai mặt hiện hữu
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Mới hiểu tại sao người ta có
thể lao tâm khổ tứ đến vậy với chuyện mồ mả.

Vì thế cho nên xu hướng đua địi xây mồ mả với quy mô ngày càng lớn
đã dẫn đến diện tích đất canh tác bị thu hẹp dần để nhường chỗ cho diện tích
đất nghĩa trang. Số tiền chi cho đám tang, xây cất mồ mả khá lớn, có gia đình
phải dùng nhiều xe tải để chở vịng hoa, câu đối; cũng có ngơi mộ xây cất cầu
kỳ với kinh phí từ hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng, những ngơi mộ
xây bình thường cũng phải lên tới 5 – 7 triệu đồng. Những hiện tượng đó trở
thành vấn đề nhức nhối, làm xói mịn các giá trị đạo đức truyền thống, lối

14

sống cần kiệm, giản dị của dân tộc, phá hoại thuần phong mỹ tục, ảnh hưởng
xấu tới đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân. Trong những năm tới, xu
hướng này có khả năng phát triển hơn nếu các cấp các nghành buông lỏng
quản lý, thiếu giáo dục về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội.

Một hiện tượng đáng nói hiện nay đó là tổ chức dịng họ, gia tộc đang
có chiều hướng lấn át cộng đồng làng xã (chính quyền dịng họ, chi bộ dịng
họ) theo xu hướng từ xa xưa “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Chính
điều này đã và đang diễn ra một sâu rộng, làm ảnh hưởng đến đời sống của
cộng đồng dân cư, điều này nhiều khi là do lối sống ích kỷ, co cụm, tiểu nơng
mà ra.

Bên cạnh những nét đẹp truyền thống được bảo tồn và phát huy, thì
thờ cúng tổ tiên của người Việt trong những năm gần đây còn có những quan

niệm sai lệch, những biểu hiện chưa tốt như các hủ tục cũ theo hướng mê tín.

Xuất phát từ nhu cầu văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tâm linh, mà hiện
nay dòng người hành hương ngày một lớn, địa chỉ hành hương ngày một
rộng, thời gian hành hương ngày một dài nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh.
Trong lễ hội, cái ranh giới giữa tín ngưỡng thành tâm, tự nguyện với sự mê
muội đơi khi rất mỏng manh. Trong gia đình, nhiều người vì quá tin vào sự
tồn tại của tổ tiên, thần thánh nên làm bất cứ việc gì cũng khấn vái gia tiên,
thần thánh. Tự mình khấn vái, cầu xin chưa đủ, chưa yên tâm, họ còn mời
thầy cúng lễ về nhà. Việc làm này vừa tốn kém thời gian, tiền của và sức
khỏe. Khơng ít người khơng phân biệt được giữa tình cảm tâm linh tơn kính,
biết ơn, nhu cầu bày tỏ và phụng thờ những người có cơng với sự mê tín. Cứ
tin và làm theo sự chỉ dẫn của một số kẻ buôn thần bán thánh.

Cũng có những người trong đời thường khơng quan tâm rèn luyện giữ
gìn phẩm chất đạo đức cá nhân, không chú trọng làm điều nhân nghĩa mà ham
bói tốn, dâng sớ cầu xin cho mình những điều mà khơng chỉ thánh thần, mà
bất cứ người nào có lương tri đều khơng thể chấp nhận được. Lại có người bất

15

hiếu với cha mẹ, nhân dân, bất tín với bạn bè… chỉ chăm lo đi lễ chùa cầu xin
thăng quan tiến chức, thì chẳng những trái với đạo đức cách mạng mà cịn trái
với đạo đức tơn giáo, tín ngưỡng.

Trong các lễ hội cấp làng xã, cũng như cấp quốc gia, hiện tượng mê tín
dị đoan cũng thể hiện khá rõ nét. Những sinh hoạt tâm linh gần gũi với tôn
giáo như ma chay, lễ hội, đình đám, bói tốn, tử vi, tướng số… bung ra một
cách tràn lan. Gọi hồn cũng là một biểu hiện của mê tín dị đoan của người
Việt. Có người quan niệm cơ hồn là khâu trung gian, là người có khả năng

liên hệ được giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, giữa con người ở cuộc đời
thực và thế giới vơ hình, giữa người sống và người chết, giữa địa ngục và trần
gian. Ở các gia đình thường gọi hồn thơng qua các thầy cúng, thầy phù thủy
để người nhà đã chết nhập hồn vào người nào đó và nói lên những lời của

người đã chết.
Chính những hủ tục cũ, thiên về duy tâm, mê tín, một mặt đã làm giảm
đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của việc thờ cúng tổ tiên. Mặt khác, nó
cịn làm cho chính những con người này mất dần niềm tin vào cuộc sống, vào
chính mình trở nên bạc nhược, thụ động, hèn kém trong cuộc sống. Vấn đề
trên bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau như do nhận thức của một số
cá nhân cịn hạn chế, do ảnh hưởng của thói quen, tâm lý lạc hậu, do sự tác
động của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự buông lỏng quản lý, giáo dục
của một số cấp, nghành…
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đang ngày càng bị lợi dụng và hoạt động
mê tín dị đoan. Từ niềm tin mê muội, cuồng nhiệt, viển vông dựa trên sự suy
luận nhảm nhí, bậy bạ đã xuất hiện các hiện tượng gọi hồn, đốt vàng mã, lợi
dụng nhà ngoại cảm, mời thầy cúng bốc bát nhang, cúng giỗ, cầu siêu… trong
các hoạt động thờ cúng tổ tiên. Xu hướng này cũng có chiều hướng gia tăng
trong những năm tới đã và đang ảnh hướng tới đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, đến trật tự an ninh và an toàn xã hội.

16

Chính những hủ tục cũ, thiên về duy tâm, mê tín, một mặt đã làm giảm
đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của việc thờ cúng tổ tiên. Mặt khác, nó
cịn làm cho chính những con người này mất dần niềm tin vào cuộc sống, vào
chính mình trở nên bạc nhược, thụ động.

17


Tài liệu tham khảo
1. Dương Quốc Quân (2015), Hỏi - đáp về xã hội học đại cương, NXB Chính

trị Quốc gia
2. John, J. Macionis (2004), Xã hội học, NXB Thống kê
3. Lê Ngọc Hùng (2009), Giáo trình xã hội học, NXB Dân trí
4. Lê Thị Q (2011), Giáo trình xã hội học gia đình, NXB Chính trị - Hành

chính
5. Mai Văn Hai (2018), Xã hội học văn hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
6. Mai Văn Mai (2009), Xã hội học văn hóa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
7. Nguyến Đức Lữ (2013), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam xưa và

nay (Hỏi - đáp), NXB Chính trị Quốc gia
8. Nguyễn Thị Tố Quyên (2013), Đề tài khoa học cấp cơ sở “Xã hội học gia

đình: Đề cương bài giảng”, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
9. Song Mai (2006), Phong tục thờ cúng của người Việt, NXB Văn hóa thơng

tin
10. Toan Ánh (2000), Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam,

NXB văn hố thông tin
11. Trần Hữu Quang (2019), Xã hội học nhập môn, NXB Khoa học xã hội
12. Văn Quảng (2009), Văn hóa tâm linh Thăng Long - Hà Nội, NXB Lao

động
13. Vũ Hào Quang (2017), Các lý thuyết xã hội học, NXB Đại học Quốc gia


Hà Nội

18


×