Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG SỐ LƯỢNG CHO TRẺ 5-6 TUỔI THEO HƯỚNG TÍCH HỢP - ĐIỂM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 105 trang )

UBND TỈNH QUẢNG NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM

KHOA TIỂU HỌC - MẦM NON



TẠ THỊ KHÁNH TIÊN

BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG SỐ LƯỢNG
CHO TRẺ 5-6 TUỔI THEO HƯỚNG TÍCH HỢP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Quảng Nam, tháng 4 năm 2016

UBND TỈNH QUẢNG NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM

KHOA TIỂU HỌC - MẦM NON



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Tên đề tài
BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG SỐ LƯỢNG

CHO TRẺ 5-6 TUỔI THEO HƯỚNG TÍCH HỢP

Sinh viên thực hiện


TẠ THỊ KHÁNH TIÊN

MSSV:2112011261
CHUYÊN NG̀ANH: GÍAO DỤC M̀ÂM NON

KHÓA: 2012 – 2016
Cán bộ hướng dẫn
TRẦN THỊ HÀ
MSCB:

Quảng Nam, tháng 4 năm 2016

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên cho em cho em xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể Giảng viên
Khoa Tiểu học – Mầm non trường Đại học Quảng Nam đã tạo điều kiện cho em
được làm khóa luận tốt nghiệp này, đây là một cơ hội tốt để cho em có thể thực
hành các kỹ năng được học trên lớp và có thể giúp ích rất lớn để em có thể ngày
càng tự tin với bản thân mình hơn.

Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Trần Thị Hà –
Giảng viên Khoa Tiểu học - Mầm non, người đã hướng dẫn em chu đáo, tận tình
chỉ dạy, giúp đỡ em trong suốt thời gian vừa qua để em có thể hồn thành tốt
bài khóa luận tốt nghiệp này.

Em xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu và giáo viên các lớp mẫu giáo
lớn của trường mẫu giáo Hoa Sen Tam Đàn Phú Ninh Quảng Nam đã hướng
dẫn, chỉ bảo cho em nhiều kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian thực
nghiệm tại trường.


Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực để hoàn thành tốt bài khóa luận,
cũng như kinh nghiệm và năng lực của bản thân cịn hạn chế nên bài khóa luận
khơng trách khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em kính mong nhận được những ý kiến
nhận xét, đóng góp của q thầy cơ giáo để bài khóa luận được hồn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Tam Kỳ, tháng 04 năm 2016

Người thực hiện

Tạ Thị Khánh Tiên

BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Từ viết tắt Viết tắt
Biểu tượng số lượng BTSL

Đối chứng ĐC
Giáo dục GD
Hoạt động làm quen với toán HĐLQVT
Nhà xuất bản NXB
Số lượng SL
Thực nghiệm TN
TL
Tỉ lệ TB
Trung bình TBC
Trung bình chung

Phần 1.MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong cuộc sống hiện nay việc hình thành các biểu tượng tốn học sơ
đẳng cho trẻ mầm non nói chung và hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ nói
riêng đóng vai trị quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non,
hơn nữa sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật đòi hỏi chúng ta phải có
những chuyên gia giỏi với kỹ năng phân tích một cách trình tự và chính xác các
q trình nghiên cứu, chúng ta phải đào tạo những con người tích cực, độc lập,
sáng tạo đáp ứng được những địi hỏi của nền sản xuất hiện đại.Việc hình thành
các biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ mầm non nói chung và hình thành biểu
tượng số lượng cho trẻ nói riêng cịn có tác dụng hình thành ở trẻ những khả
năng tìm tịi, quan sát…thúc đẩy sự phát triển tư duy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

Như chúng ta đã biết, toán học là một môn học khô khan, cứng nhắc dễ
làm trẻ nhàm chán khó lơi cuốn trẻ vào tiết học, trẻ khó có thể tiếp thu kiến thức
một cách hiệu quả. Chính vì vậy, tích hợp ở bậc học mầm non giúp cho các hoạt
động “học” của trẻ trở nên lôi cuốn và hấp dẫn đối với trẻ. Đặc biệt việc tích hợp
trong hoạt động làm quen với tốn nói chung và hình thành biểu tượng số lượng
cho trẻ nói riêng là thật sự cần thiết. Bởi nó tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ lĩnh
hội được những kiến thức, rèn luyện kỹ năng về các con số; tạo hứng thú cho trẻ
tham gia hoạt động làm cho tiết học sinh động, hấp dẫn, kích thích trẻ trong q
trình hoạt động phát huy tính độc lập, sáng tạo, làm cho những con số khô khan,
cứng ngắt, nhàm chán ấy trở nên gần gũi với trẻ, qua đó trẻ dễ dàng tiếp thu tri
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, đẩy mạnh hoạt động của trẻ làm cho kiến
thức toán học của trẻ trở nên sâu sắc. Thơng qua đó, giúp cho trẻ phát triển tồn
diện. Mặt khác việc tích hợp này giúp cho giáo viên tiến hành tiết học một cách
nhẹ nhàng, sinh động, linh hoạt và nội dung bài học phong phú, đầy đủ, đáp ứng
nhu cầu nhận thức của trẻ.

Hiện nay, ở các trường Mầm Non nói chung và ở trường Mẫu giáo Hoa

Sen thuộc trên địa bàn huyện Phú Ninh nói riêng khi nói đến “giáo dục tích hợp”

1

thì quen thuộc với những cơ giáo mầm non, tích hợp thật sự đã được nghiên cứu và
đưa vào ở các trường mầm non hiện nay. Tuy nhiên, việc ứng dụng tích hợp hoạt
động nhằm hình thành biểu tượng số lượng của các cơ giáo hiện nay cịn máy móc,
chưa thật sự khoa học, các hoạt động lồng ghép trong hoạt động làm quen với
toán cho trẻ như: âm nhạc, thể chất, văn học…còn sơ sài, chưa cuốn hút đối với trẻ.

Chính vì những điều trên, đã thôi thúc chúng tôi nghiên cứu về đề tài:
“Biện pháp hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng tích
hợp”.
2. Mục tiêu của đề tài

Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp hình thành biểu tượng số lượng
cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng tích hợp trong HĐLQVT nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục trẻ Mầm non, giúp cho trẻ phát triển toàn diện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

+ Đối tượng nghiên cứu:Biện pháp hình thành tượng số lượng cho trẻ 5 –
6 tuổi theo hướng tích hợp.

+ Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn nên chúng
tơi chỉ đề cập nghiên cứu các biện pháp hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5
– 6 tuổi theo hướng tích hợp trên tiết học tốn ở trường mẫu giáo Hoa Sen, Tam
Đàn, Phú Ninh, Quảng Nam.
4. Khách thể nghiên cứu

Quá trình dạy học hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi ở

trường Mẫu giáo Hoa Sen,Tam Đàn, Phú Ninh, Quảng Nam
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện với sự phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Nghiên cứu thu nhập phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa và
cụ thể hóa các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1.Phương pháp quan sát trực tiếp.

2

- Quan sát cách thức tổ chức hoạt động làm quen với tốn nhằm hình thành biểu
tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng tích hợp
5.2.2. Phương pháp đàm thoại

- Trao đổi trò chuyện với giáo viên về cách thức tổ chức hoạt động làm
quen với tốn nhằm hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng
tích hợp.
5.2.3.Phương pháp điều tra

- Sử dụng phiếu điều tra cho giáo viên Mầm Non nhằm tìm hiểu về nhận
thức, thái độ của giáo viên về việc tổ chức hoạt động làm quen với tốn nhằm
hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng tích hợp
5.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

- Chúng tôi sử dụng những thực nghiệm nhằm mục đích tìm ra những
biện pháp tác động vào quá trình tổ chức hoạt động làm quen với tốn nhằm
hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng tích hợp

5.3. Phương pháp thống kê toán học

Chúng tơi sử dụng các cơng thức tốn thống kê để tính giá trị trung bình,
độ lệch chuẩn
6. Lịch sử nghiên cứu

Ở Việt Nam, từ những năm 1987, việc nghiên cứu xây dựng mơn tự nhiên
- xã hội theo quan điểm tích hợp đã được thực hiện và đã được thiết kế đưa vào
dạy học từ lớp 1 đến lớp 5. Chương trình ở cấp trung học chủ yếu thực hiện tích
hợp ở mức thấp, chưa đặt nặng vấn đề dạy học tích hợp ở trung học. Một trong
những nguyên nhân chủ yếu là việc dạy học tích hợp liên quan đến nhiều yếu tố
địi hỏi phải có q trình chuẩn bị như: chương trình, sách giáo khoa, tổ chức
dạy học, phương pháp dạy và học, đánh giá, kiểm tra, thi. Tuy vậy, ngày càng có
nhiều nội dung GD được tích hợp vào nội dung một số môn học ở trung học
(dân số, mơi trường, phịng chống HIV/AIDS, chống các tệ nạn xã hội, giáo dục
pháp luật, an tồn giao thơng...) bằng phương thức lồng ghép. Việc dạy học các
nội dung này bước đầu đã làm cho GV có một số kinh nghiệm thực tiễn về tích

3

hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dạy học tích hợp trong chương
trình và sách giáo khoa mới sau 2015.

Thực tiễn trong những thập niên 90 cho đến nay, việc dạy học của chúng
ta vẫn mang tính “hàn lâm, lý thuyết”. Đặc điểm cơ bản đó là chú trọng việc
truyền thụ hệ thống tri thức khoa học đã được quy định trong chương trình
nhưng chưa chú trọng đầy đủ đến chủ thể người học cũng như đến khả năng ứng
dụng tri thức đã học trong những tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học trong
chương trình được đưa ra một cách chung chung, không chi tiết; Việc quản lý
chất lượng giáo dục chỉ tập trung vào “điều khiển đầu vào” là nội dung dạy học.


Với quan điểm như trên sẽ dần đến một hệ quả là tri thức của người học
sẽ nhanh chóng bị lạc hậu vì nội dung dạy học được quy định một cách chi tiết
và cứng nhắc trong chương trình. Đồng thời, do việc kiểm tra đánh giá chủ yếu
dựa trên việc kiểm tra khả năng tái hiện tri thức mà không định hướng vào khả
năng vận dụng tri thức trong tình huống thực tiễn vì vậy sản phẩm đào tạo là
những con người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động,
sản phẩm của giáo dục không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội
và thị trường lao động.

Trong những năm gần đây, với sự phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ cùng với sự bùng nổ thông tin, lượng tri thức của nhân loại phát minh
ngày càng nhiều, kiến thức giữa các lĩnh vực có liên quan mật thiết với nhau.
Đồng thời, do yêu cầu của xã hội, do nhu cầu thực tế đang đòi hỏi con người
phải giải quyết rất nhiều tình huống trong cuộc sống. Khi giải quyết các vấn đề
đó, kiến thức của một lĩnh vực chun mơn sẽ không thể thực hiện được mà cần
phải vận dụng kiến thức liên ngành một cách sáng tạo. Từ thực tế đó đã đặt ra
cho giáo dục và đào tạo một vấn đề là phải thay đổi quan điểm về giáo đục mà
dạy học tích hợp là một định hướng mang tính đột phát để đổi mới căn bản và
tồn diện về nội dung và phương pháp giáo dục.

Theo TS Nguyễn Thị Hòa, Dạy học tích hợp (hay dạy học theo chủ đề) là
cách tiếp cận giảng dạy liên ngành theo đó các nội dung giảng dạy được trình

4

bày theo các đề tài hoặc chủ đề. Mỗi đề tài hoặc chủ đề được trình bày thành
nhiều bài học nhỏ để người học có thể có thời gian hiểu rõ và phát triển các mối
liên hệ với những gì mà người học đã biết. Cách tiếp cận này tích hợp kiến thức
từ nhiều ngành học và khuyến khích người học tìm hiểu sâu về các chủ đề, tìm

đọc tài liệu từ nhiều nguồn và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau. Việc sử
dụng nhiều nguồn thông tin khuyến khích người học tham gia vào việc chuẩn bị
bài học, tài liệu, và tư duy tích cực và sâu hơn so với cách học truyền thống với
chỉ một nguồn tài liệu duy nhất. Kết quả là người học sẽ hiểu rõ hơn và cảm
thấy tự tin hơn trong việc học của mình.

Dạy học tích hợp khơng chỉ là sự kết hợp đơn thuần giữa lý thuyết và thực
hành trong một tiết/buổi dạy. Chúng ta cần phải hiểu rằng, phía sau quan điểm
đó là một triết lý giáo dục, nó phản ánh mục tiêu của việc học. Theo quan điểm
truyền thống thì mục tiêu của dạy học là cung cấp một hệ thống các kiến thức
hoặc kỹ năng riêng lẻ cho người học để sau đó người học muốn làm bất kì việc
gì với những kiến thức và kỹ năng đó. Cịn theo quan điểm dạy học tích hợp thì
mục tiêu của dạy học là hướng đến việc đào tạo ra những con người với những
năng lực cụ thể để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn cuộc sống một cách
sáng tạo.

Bên cạnh đó lĩnh vực này còn được một sinh viên của trường đại học sư
phạm Hà Nội chọn làm bài tiểu luận môn nghiệp vụ sư phạm vào tháng 7 năm
2014.Ngoài ra, vào năm 2006 ở lĩnh vực này đã được Th.s Hoàng Thị Thu
Hương nghiên cứu với đề tài “ Một số biện pháp hình thành biểu tượng hình
dạng và kích thước cho trẻ Mẫu giáo theo hướng tích hợp.” Cũng ở lĩnh vực tích
hợp trong hoạt động học có chủ đích vào năm 2011 với đề tài “ Một số biện
pháp hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ 4 - 5 tuổi theo hướng tích hợp.”
Do sinh viên Lê Thị Châu học Trường Đại học Hà Nội lựa chọn làm khóa luận
tốt nghiệp. Trên cơ sở đó chúng tơi triển khai và nghiên cứu về lĩnh vực hình
thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5 -6 tuổi.

5

7. Đóng góp của đề tài

- Về lý luận
Góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận về biện pháp hình thành biểu

tượng số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng tích hợp
- Về thực tiễn.
Xây dựng biện pháp hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi

theo hướng tích hợp ở trường Mẫu giáo Hoa Sen.
8. Cấu trúc khóa luận

Khóa luận gồm có ba phần
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận của một số biện pháp hình thành biểu tượng số
lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng tích hợp
Chương II: Cơ sở thực tiễn của một số biện pháp hình thành biểu tượng số
lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng tích hợp trong HĐLQVT ở trường Mẫu giáo
Hoa Sen.
Chương III: Xây dựng và thực nghiệm sư phạm các biện pháp hình thành
biểu tượng số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng tích hợpở trường Mẫu giáo
Hoa Sen
Phần 3: Kết luận và kiến nghị sư phạm
Ngoài phần 1, phần 2 và phần 3 thì trong khóa luận của tơi cịn có phần
phụ lục và phần tài liệu tham khảo.

6

Phần 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH BIỂU
TƯỢNG SỐ LƯỢNG CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI THEO HƯỚNG TÍCH HỢP

1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Biểu tượng

Biểu tượng là một khái niệm, một phạm trù được nhiều nhà khoa học
quan tâm và nghiên cứu. đứng ở mỗi góc độ khác nhau, quan điểm khác nhau
mà có những định nghĩa khác nhau về biểu tượng.

Theo quan điểm của duy vật biện chứng “biểu tượng” là hình ảnh của
khách thể được tri giác còn lưu lại trong bộ óc con người và do một tác động
nào đó được tái hiện, nhớ lại.[ 10,3]

Biểu tượng cũng giống như tri giác, cảm giác là “ hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan” . Nhưng khác với cảm giác, tri giác, biểu tượng phản ánh
khách thể một cách gián tiếp, là “ hình ảnh của hình ảnh” . Ngồi ra từ những
biểu tượng cũ con người có thể sang tạo ra những biểu tượng mới.

Trong tâm lý học [ 54,7] “ Biểu tượng” là sản phẩm của quá trình ghi nhớ
và tưởng tượng. Biểu tượng hiện ra trong óc cá nhân một cách nguyên vẹn hay
sáng tạo những hình ảnh của sự vật hay hình ảnh mà ta tri giác trước kia mặc dù
khơng có những thuộc tính cụ thể của sự vật hiện tượng đó tác động truc trực
tiếp vào cơ quan cảm giác. Biểu tượng là kết quả của sự chế biến và tổng quát
những hình ảnh mà tri giác đã tạo ra. Biểu tượng giống vói sự lưu ảnh ở tri giác
là ở chúng đều phản ảnh thế giới khách quan dưới hình thức những hình ảnh cụ
thể. Nhưng biểu tượng khác với hình thức lưu ảnh ở tính chất trực quan không
rõ nét bằng trực quan của tri giác. Biểu tượng thường là những “ mẫu” “ đoạn”
nào đó của tri giác và so với lưu ảnh thì biểu tượng khơng rõ ràng.

“ Biểu tượng là hình ảnh của các vật thể, cảnh tượng và xuất hiện trên cơ
sở nhớ lại hay hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang tính
khái quát . Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại thì biểu tượng liên quan đến cả

quá khứ và tương lai”

7

Theo từ điển tiếng việt “Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, hình ảnh của
nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật cịn giữ lại trong đầu óc
khi tác dụng của sự vật vào các giác quan đã chấm dứt”

Như vậy biểu tượng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng của
thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy
ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới được hình
thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. Biểu tượng khơng phải hồn
tồn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri giác. Tuy
nhiên, những hình ảnh đó cũng khơng hồn tồn là kết quả chủ quan xuất phát từ
những hoạt động tâm trí của chủ thể.

Biểu tượng chính là hiện tượng chủ quan của đối tượng về hiện tượng
khách quan đã được tri giác từ trước.
1.1.2. Số lượng

Là khái niệm chỉ số phần tử có trong một tập hợp tại một không gian và
thời điểm xác định. Khái niệm số lượng có liên quan đến tập hợp, số lượng là
một trong những thuộc tính đặc trưng của tập hợp, bất kỳ tập hợp nào cũng xác
định được độ lớn (số lượng) nhất định của nó dù là phần tử thuần nhất hay
không thuần nhất.
1.1.3. Biểu tượng số lượng

Là những hình về đặc trưng số lượng của các tập hợp được hình thành
trên cơ sở các cảm giác và tri giác đã xảy ra trước đó, được giữ lại trong ý thức
hay là những chữ số mới được hình thành trên cơ sở những số đã có từ trước.


Biểu tượng số lượng gồm biểu tượng về số lượng (đếm của những tập
hợp, số lượng trong một nhóm), biểu tượng về mối liên hệ của số lượng so sánh
số lượng của hai nhóm đối tượng xem chúng như thế nào với nhau, biểu tượng
về mối quan hệ số lượng, so sánh hai nhóm đối tượng xem chúng hơn kém nhau
bao nhiêu đơn vị)
1.1.4. Khái niệm tích hợp, dạy học tích hợp
1.1.4.1. Khái niệm tích hợp

8

Theo Từ điển giáo dục học thì tích hợp là “hành động liên kết các đối
tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực
khác nhau trong cùng một kế hoạch giảng dạy”. Kế hoạch giảng dạy ở đây cần
được hiểu trong một phạm vi rộng, từ kế hoạch giảng dạy của một chương trình
đến kế hoạch giảng dạy của một môn học, kế hoạch giảng dạy của bài học. Cũng
theo các tác giả của từ điển này thì có hai kiểu tích hợp là tích hợp dọc và tích
hợp ngang với nhiều nội dung tích hợp khác nhau.

Tích hợp dọc là “loại tích hợp dựa trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều môn
học thuộc cùng một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực gần nhau” cịn tích hợp ngang
là “tích hợp dựa trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập, nghiên cứu thuộc các
lĩnh vực khoa học khác nhau” xung quanh một chủ đề.

Từ định nghĩa như thế, một số nhà giáo dục đưa ra các nội dung tích hợp
như: tích hợp bộ mơn, tích hợp chương trình, tích hợp giảng dạy, tích hợp học
tập, tích hợp kiến thức, tích hợp kỹ năng.

Theo Dương Tiến Sỹ [27, 6]: “Tích hợp là sự kết hợp một cách hữu cơ, có
hệ thống các kiến thức( khái niệm) thuộc các môn học khác nhau thành một nội

dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối quan hệ về lý luận và thực tiễn được đề
cập trong các mơn học đó”.

Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc Latin
(integer) có nghĩa là “whole” hay “tồn bộ, tồn thể”. Có nghĩa là sự phối hợp
các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo
đảm sự hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy.

Như thế, trong dạy học tích hợp có thể được coi là sự liên kết các các đối
tượng giảng dạy, học tập trong cùng một kế hoạch hoạt động để đảm bảo sự
thống nhất, hài hòa, trọn vẹn của hệ thống dạy học nhằm đạt mục tiêu dạy học
tốt nhất.

9

1.1.4.2. Quan điểm dạy học tích hợp
Tích hợp là sự đan xen, lồng ghép vào nhau tạo thành một tổng thể thống

nhất. Giáo dục tích hợp dựa trên quan điểm tiến bộ lấy trẻ làm trung tâm, khai
thác tiềm năng vốn có của trẻ. Giáo dục cần dựa vào các đặc điểm cá nhân, phù
hợp với hứng thú, nhu cầu, nguyện vọng và năng khiếu trên tinh thần tự do, tự
nguyện, chủ động tích cực tham gia hoạt động của trẻ.

Giáo dục tích hợp nhằm hình thành biểu tượng số lượng là lựa chọn
những hoạt động tích hợp phù hợp với chủ đề, lứa tuổi dựa trên cơ sở lấy hoạt
động hình thành và phát triển biểu tượng số lượng “làm hoạt động công cụ”.

Tổ chức hoạt động nhằm hình thành biểu tượng số lượng theo hướng tích
hợp giúp cho trẻ phát triển tồn diện về 5 mặt như: thể chất, trí tuệ, thẩm mỹ,
đạo đức và lao động


Giáo dục tích hợp là quan niệm về q trình học tập trong đó tồn thể các
q trình học tập góp phần hình thành ở người học những năng lực rõ ràng, có
dự tính trước những điều cần thiết cho người học nhằm phục vụ cho quá trình
học tập trong tương lai, hoặc nhằm hòa nhập học sinh vào cuộc sống lao động.
Giáo dục tích hợp làm cho cuộc sống có ý nghĩa [ 8,3 ].
1.1.4.3 Dạy học tích hợp ở bậc học Mầm Non

Tích hợp trong giáo dục mầm non là bản chất của khoa học giáo dục mầm
non. Tích hợp nhìn nhận thế giới tự nhiên, xã hội và con người như một thể
thống nhất, khơng chia cắt rạch rịi các sự vật và hiện tượng của thế giới xung
quanh. Tích hợp khơng chỉ là đặt các đối tượng cạnh nhau, liên kết các đối
tượng với nhau mà còn là xâm nhập, đan xen các đối tượng hay các bộ phận của
đối tượng vào nhau, tạo thành một chỉnh thể. [ 1, 12].

Giáo dục tích hợp ở bậc học mầm non chính là q trình tác động sư
phạm một cách phù hợp với sự phát triển tình cảm, đạo đức và trí tuệ của trẻ,
cho trẻ được tham gia vào nhiều hoạt động theo chủ đề nhằm cung cấp cho trẻ
cơ hội được học tập và luyện tập để trở thành “nhà nghiên cứu”, trẻ tích cực,
năng động trong việc tìm hiểu, khám phá, kích thích trẻ tư duy tích cực, vận

10

dụng các kiến thức, kỹ năng, lựa chọn và đưa ra quyết định trong hồn cảnh có ý
nghĩa đối với cuộc sống thực của chúng.[26,3]

Hiện nay giáo dục mầm non (GDMN) đã và đang diễn ra quá trình đổi
mới các hoạt động giáo dục nói chung và hoạt động hình thành BTSL cho trẻ
mẫu giáo theo hướng tích hợp nói riêng nhằm phát huy tính tích cực, độc lập,
sáng tạo của trẻ trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, hiệu quả của quá trình

giáo dục này chưa cao do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong những
nguyên nhân là do giáo viên chưa biết sử dụng các biện pháp hình thành BTSL
theo hướng tích hợp cho trẻ sao cho linh hoạt và phù hợp. Vì vậy, cần có sự
nghiên cứu các biện pháp hình thành BTSL cho trẻ mẫu giáo và cách thức sử
dụng chúng nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học này.

Nội dung hình thành BTSL được đưa vào các hoạt động cho trẻ làm quen
với toán (LQVT) ở trường mầm non theo hướng tích hợp. Để hình thành BTSL
cho trẻ có hiệu quả cần có sự đan cài, lồng ghép các nội dung hoạt động của trẻ
với nhau trong từng chủ đề giáo dục dưới sự tổ chức linh hoạt và sự hướng dẫn
có kế hoạch, có mục đích của giáo viên nhằm giúp trẻ tìm hiểu, khám phá từng
chủ đề trong một khoảng thời gian nhất định theo nhiều cách khác nhau. Trên cơ
sở đó hình thành ở trẻ những biểu tượng số lượng và mối quan hệ số lượng, hình
thành những kĩ năng nhận thức như: kĩ năng so sánh số lượng, kĩ năng đếm,
thêm, bớt số lượng...
1.1.5. Khái niệm về biện pháp dạy học

Biện pháp là những yếu tố hỗ trợ cho phương pháp đạt tới kết quả cao.
Biện pháp theo quan niệm hiện đại còn là kỹ thuật sử dụng phương tiện (công
cụ) phục vụ cho phương pháp nhằm đạt hiệu quả cao.

Các nhà giáo dục học Xô Viết như X.P. Baranov, L.R. Bolotina, T.X.
Marcova cho rằng:
“Biện pháp dạy học là một bộ phận, là một thành tố của phương pháp dạy học.
Đó là một cách làm cụ thể của giáo viên trong hoạt động cùng với trẻ. Trong

11

mỗi phương pháp chứa đựng các biện pháp, ở ngoài phương pháp thì biện pháp
khơng cịn ý nghĩa”


Ở lứa tuổi mầm non, các biện pháp dạy học đặc biệt quan trọng, nó làm
cho quá trình dạy học hấp dẫn trẻ em, làm cho phương pháp tác động phù hợp
với sự phát triển tâm lý của trẻ. Do đó, nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học
và làm cho quá trình dạy học trở nên nhẹ nhàng, sinh động.

Từ những vấn đề trên có thể khẳng định biện pháp chính là cách làm, cách
giải quyết , cách thực hiện ,cách hành động cụ thể để nâng cao hiệu quả giáo dục
cho trẻ.
1.2. Đặc điểm phát triển biểu tượng số lượng của trẻ mầm non

Trẻ lứa tuổi nhà trẻ đã bắt đầu có những nhận biết về số lượng, đó là nấc
thang đầu tiên và cần thiết giúp trẻ nhận biết hiện thực xung quanh. Những biểu
tượng đầu tiên về các nhóm vật khác nhau như: nhiều con ốc, những chiếc lá,
nhiều con búp bê...được tích lũy và phản ánh trong ngôn ngữ thụ động của trẻ.
Với sự giúp đỡ của người lớn cùng với việc nắm được các ngôn ngữ tích cực trẻ
đã nhận biết, phân biệt và nắm được tên gọi của của nhóm các đồ vật.

Ở lứa tuổi nhà trẻ , trẻ em sớm sử dụng các từ số, nhưng điều đó khơng có
nghĩa trẻ hiểu các con số và nắm được phép đếm.
Trẻ lên hai tuổi, trẻ đã tích lũy được những biểu tượng về số lượng các vật, các
âm thanh, các chuyển động. Trẻ rất thích thú tạo ra nhiều vật giống nhau. Trẻ
thu vật lại thành đống. Sắp đặt chúng lại vơi nhau, dịch chuyển từ chỗ này đến
chỗ khác.

Trẻ lên 3 tuổi đã biết phân biệt được các khái niệm : một, nhiều, ít. Trẻ dễ
dàng thực hiện các nhiệm vụ được giao như : mang một quả bóng bỏ vào rổ. Trẻ
đã có phản ứng với câu hỏi” có bao nhiêu” “ có mấy”. Một số trẻ đã sử dụng
được các từ số như : ba, năm, tám...nhưng khơng ứng chúng với các đối tượng
tương ứng. Qua đó chứng tỏ rằng trẻ đã những suy nghĩ liên quan đến những câu

hỏi về số lượng của nhóm vật.

12

Ở trẻ 4-5 tuổi, những biểu tượng tập hợp của trẻ được phát triển và mở
rộng trẻ có khả năng nhận biết các tập hợp ngay cả khi phần tử của chúng là
những vật không giống nhau.

Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ đã có kỹ năng phân tích từng phần tử của tập
hợp, đánh giá độ lớn của chúng theo số lượng các phần tử của tập hợp. Trẻ ở dộ
tuổi này nắm và sử dụng tốt biện pháp thiết lập tỉ lệ tương ứng 1:1 giữa các phần
tử khi so sánh độ lớn của chúng. Dưới tác động của việc dạy học trẻ 4-5 tuổi
nhanh chóng nắm được phép đếm , dễ dàng nhận biết được quá trình đếm và két
quả đếm, hiểu ý nghĩa khái quát của con số là chỉ số cho số lượng các phần tử
trong tập hợp. Trẻ hiểu rằng các tập hợp có cùng số phần tử bằng nhau sẽ hiển
thị chung một con số, còn các tập hợp có các phần tử khác nhau sẽ dược hiển thị
bằng các số khác nhau. Tuy nhiên trẻ gặp khó khăn khi đếm số lượng lớn các
vật. Vì vậy chỉ nêm dạy trẻ đếm trong phạm vi 5.

Hoạt động đếm của trẻ mẫu giáo lớn đã phát triển lên một bước mới, trẻ
rất thích đếm và phần lớn trẻ nắm được trình tự của các số từ 1 – 10, thậm chí
cịn nhiều số hơn nữa. Trẻ biết thiết lâp tương ứng 1:1 trong quá trình đếm, mỗi
từ sốứng với một phần tử của tập hợp mà trẻ đếm. Trẻ không chỉ hiểu rằng, khi
đếm thì số cuối cùng là số kết quả ứng với tồn bộ nhóm vật, mà trẻ cịn bắt đầu
hiểu con số là chỉ số cho số lượng phần tử của tất cả các tập hợp có cùng độ lớn
khơng phụ thuộc vào những đặc điểm, tính chất cũng như cách sắp đặt của
chúng.

Trẻ 5 – 6 tuổi bắt đầu hiểu mối quan hệ thuận nghịch giữa các số liền kề
của dãy số tự nhiên (mỗi số đứng trước nhỏ hơn sốđứng sau một đơn vị và mỗi

số đứng sau lớn hơn số đứng trước một đơn vị). Trên cơ sởđó dần dần trẻ hiểu
quy luật thành lập dãy số tự nhiên n ± 1. Kỹ năng đếm của trẻ ngày càng trở nên
thuần thục, trẻ không chỉ đếm đúng số lượng các nhóm vật mà cịn cả các âm
thanh và các động tác, qua đó trẻ hiểu sâu sắc hơn vai trị của số kết quả. Mặt
khác, trẻ không chỉ đếm từng vật mà cịn đếm từng nhóm vật, qua đó trẻ hiểu

13

sâu sắc hơn ý nghĩa của khái niệm đơn vị - đơn vị của phép đếm có thể là cả
nhóm vật chứ không chỉ là từng vật riêng lẻ.

Hơn nữa, dưới tác động của dạy học, trẻ lớn không chỉ biết đếm xuôi mà
còn biết đếm ngược trong phạm vi 10, trẻ nhận biết được các số từ 1 – 10. Trẻ
hiểu rằng mỗi con số khơng chỉđược diễn đạt bằng lời nói mà cịn có thể viết, và
muốn biết số lượng của các vật trong nhóm khơng nhất thiết lúc nào cũng phải
đếm, màđơi lúc chỉ cần nhìn con số biểu thị số lượng của chúng. Việc cho trẻ
làm quen với các con số có tác dụng phát triển tư duy trừu tượng cho trẻ, phát
triển khả năng trừu suất số lượng khởi những vật cụ thể, dạy trẻ thao tác với các
ký hiệu – các con số.

Như vậy, cần tiếp tục phát triển biểu tượng về số lượng cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi, bước đầu cho trẻ làm quen với một số phép tính trên tập hợp, điều đó
tạo cơ sở cho trẻ học các phép tính đại số sau này ở trường phổ thông. Tiếp tục
dạy trẻ phép đếm trong phạm vi 10, trẻ lớn không chỉđếm từng vật riêng lẻ, mà
cịn đếm từng nhóm vật. Nhờ vậy mà tư duy của trẻ tiếp tục được phát triển,
giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn khái niệm đơn vị, tạo tiền đề cho trẻ hiểu bản chất của
các phép tính đại số mà trẻ sẽ học ở trường phổ thông. [ 86-88, 4]
1.3. Quá trình hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng
tích hợp
1.3.1. Nội dung hình thành biểu tượng về số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi


Nội dung hình thành cho trẻ 5 – 6 tuổi về các biểu tượng về số lượng cần
hướng tới việc củng cố và làm sâu sắc những kiến thức, kỹ năng mà trẻ đã được
học từ các lớp trước. Hơn nữa, nội dung dạy trẻ phải có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển trí tuệ và tư duy tốn học cho trẻ nhỏ.

Ở trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, giáo viên cần tiếp tục dạy phép đếm xác định số
lượng trong phạm vi 10, trẻ được làm quen với cách lập các số tiếp theo 5 số đầu
của dãy số tự nhiên (6,7,8,9,10) trên cơ sở so sánh các tập hợp cụ thể có độ lớn
bằng nhau hoặc hơn kém nhau một phần tử. Trẻ học cách tạo các tập hợp với số
lượng nhất định bằng cách thêm, bớt. Trẻ học cách hình thành số tiếp theo từ số

14

đứng trước bằng cách thêm một vào số đứng trước, qua đó trẻ hiểu được mối
quan hệ giữa các số liền kề thuộc dãy số tự nhiên. Dạy trẻ nhận biết các con số
từ 1 đến 10 và sử dụng các số đó để chỉ số lượng, số thứ tự.

Để củng cố và phát triển kỹ năng đếm cho trẻ 5 – 6 tuổi, cần tổ chức cho
trẻ luyện tập đếm các nhóm vật được xếp theo các cách khác nhau trong không
gian. Qua luyện tập đếm, kỹ năng đếm của trẻ không chỉ được củng cố và phát
triển mà nó cịn giúp trẻ hiểu rằng, số lượng của nhóm vật khơng phụ thuộc vào
tính chất của các vật, vào cách sắp đặt của chúng, cũng như vào hướng đếm
(đếm từ trái qua phải, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới…). Cần dạy trẻ đếm
tách các nhóm vật có số lượng trong phạm vi 10 theo số lượng mẫu và theo con
số cho trước, luyện tập đếm bằng các giác quan khác nhau, nhận biết độ lớn các
tập hợp trong phạm vi 10. Các bài luyện tập này đồng thời cũng góp phần phát
triển độ nhạy của các giác quan.

Ngoài ra, nội dung dạy trẻ còn hướng vào việc cho trẻ làm quen với các

phép biến đổi đơn giản như: thêm, bớt, chia các nhóm đồ vật có số lượng trong
phạm vi 10 làm hai phần theo các cách khác nhau. Trên cơ sởđó, cho trẻ làm
quen với thành phần con số trong giới hạn 10 từ hai số nhỏ hơn, dạy trẻ tạo một
tập hợp theo con số cho trước từ hai tập hợp nhỏ hơn.

Và hơn nữa, giáo viên cần nâng cao dần kỹ năng so sánh của trẻ như cho
trẻ so sánh số lượng của ba nhóm đối tượng trong phạm vi 10 bằng các cách
khác nhau và nói được kết quả: bằng nhau, nhiều nhất, ít hơn, ít nhất. [4,92-94]
1.3.2. Q trình hình thành BTSL cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng tích hợp ở
trường Mầm Non

Đặc điểm của trẻ mẫu giáo là rất thích học hỏi, tìm tịi và mong muốn được
làm như người lớn, trẻ thích được khen ngợi và rất hứng thú nhận thức một vấn
đề nào đó khi nó thích. Dựa vào đặc điểm đó, trong HĐLQVT nhằm hình thành
biểu tượng số lượng theo hướng tích hợp. Bên cạnh phát triển trí tuệ cịn hình
thành cho trẻ những xúc cảm tích cực, tích lũy tri thức, kinh nghiệm của cuộc
sống

15

Quá trình hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ là quá trình giữ vai trị
vơ cùng quan trọng, tác động trực tiếp đến sự phát triển của trẻ về thế giới xung
quanh cũng như quá trình nhận thức của trẻ, giúp trẻ nhận biết được các dấu
hiệu số lượng, hình thành cho trẻ biểu tượng về con số, mối quan hệ của chúng,
đồng thời hình thành cho trẻ những kỹ năng nhận biết như so sánh, đếm, thêm,
bớt, chia số lượng…Quá trình này lấy trẻ làm trung tâm, cô giáo giữ vai trò là
người tổ chức, hướng dẫn tạo điều kiện giúp trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng,
hiệu quả.

Quá trình hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5-6 tuổi theo hướng tích

hợp được tiến hành như sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu hình thành biểu tượng số lượng dựa trên chủ đề chủ
điểm cần thực hiện
Bước 2: Chuẩn bị điều kiện để tổ chức các hoạt động nhằm hình thành biểu
tượng số lượng cho trẻ.
Bước 3: Tiến hành các hoạt động

+ Giai đoạn 1: Ôn tập kiến thức cũ
+Giai đoạn 2: Hình thành biểu tượng số lượng mới
+ Giai đoạn 3: Luyện tập
+Giai đoạn 4: Vận dụng những kiến thức, kỹ năng về số lượng đã có để
giải quyết một số tình huống trong cuộc sộng, thực tiễn
1.3.3. Phương pháp hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi
*Dạy trẻ đếm xác định số lượng trong phạm vi 10, thêm, bớt, xác định các mối
quan hệ số lượng, nhận biết các số từ 1 đến 10
+ Dạy trẻ đếm và so sánh số lượng trong phạm vi 10
Bước 1: Cho trẻ xếp tất cả những đối tượng của nhóm mới thành hàng ngang
(khơng đếm).
Bước 2: Xếp tương ứng 1 : 1 giữa các đối tượng của hai nhóm. Cho trẻ so sánh,
nhận xét sự khác nhau về số lượng của hai nhóm.

16


×