Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.91 KB, 31 trang )

1

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:

TÍNH ĐÚNG ĐẮN, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TRONG VIỆC
ĐỀ RA ĐƯỜNG LỐI TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI

HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG Ở HAI MIỀN ĐẤT NƯỚC
SAU NĂM 1954

Hà Nội – tháng .../2024

2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1..................................................................................................................2
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ SAU NĂM 1954.................................................................2

1. Tình hình lịch sử thế giới sau 1954....................................................................2
2. Tình hình trong nước.........................................................................................4
CHƯƠNG 2..................................................................................................................7
TÍNH ĐÚNG ĐẮN SÁNG TẠO CỦA ĐƯỜNG LỐI TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI
HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG Ở HAI MIỀN ĐẤT NƯỚC SAU NĂM 1954
........................................................................................................................................7
1. Cơ sở lý luận về tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc thực hiện
đồng thời hai chiến lược cách mạng........................................................................7
2. Cơ sở thực tiễn về tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc thực hiện
đồng thời hai chiến lược cách mạng......................................................................14
3. Chủ trương tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng của Đảng........20


KẾT LUẬN.................................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................28

3

MỞ ĐẦU

Qua hơn 90 năm hình thành và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã lãnh đạo nhân dận ta đánh thắng các cuộc chiến tranh
xâm lược, hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành
công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân
tộc. Một trong những mốc son chói lọi ấy là sự lãnh đạo của Đảng khi tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng (1954-1975), đây là thời kỳ Đảng ta phải giải quyết
một loạt những vấn đề cực kỳ khó khăn, phức tạp của cách mạng Việt Nam, và cũng
là thời kỳ Đảng giành được những thắng lợi vẻ vang nhất, đặc biệt là thắng lợi trong
việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng trên hai miền Nam- Bắc.

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đế quốc Mỹ đã gạt thực dân Pháp,
trực tiếp viện trợ và giúp chính quyền Sài Gịn xây dựng qn đội, hòng biến miền
Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chia cắt lâu dài
Việt Nam, ngăn chặn ảnh hưởng của CNXH xuống Đơng Nam Á, răn đe phong trào
giải phóng dân tộc đang trên đà phát triển. Trong điều kiện đó, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã căn cứ vào lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng như thực tiễn cách
mạng trong nước, khu vực và thế giới để đề ra đường lối kháng chiến hợp với điều
kiện cụ thể và sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đảng ta đã thực hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ,
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng: cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN
ở miền Bắc, mục tiêu chung là hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước

đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây chính là sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng khi thực tiễn 21
năm chiến đấu kiên cường chúng ta đã thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước như Nghị quyết Đại hội IV của Đảng đã viết: “Năm tháng sẽ trôi qua,
nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một

4

biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ
con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự
kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Để nghiên cứu rõ
hơn về đường lối cách mạng của Đảng trong giai đoạn này, nhóm chúng em quyết
định lựa chọn chủ đề tiểu luận: “Tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong việc đề
ra đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền đất nước
sau năm 1954”.

CHƯƠNG 1

HỒN CẢNH LỊCH SỬ SAU NĂM 1954

1. Tình hình lịch sử thế giới sau 1954

Sau 1954 ta tiến hành cách mạng trong hồn cảnh quốc tế có những thuận lợi
cơ bản, song cũng khơng ít khó khăn.

Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, ba dòng thác cách mạng trên thế giới phát
triển mạnh mẽ. Phe xã hội chủ nghĩa phát triển rất mạnh là chỗ dựa vững chắc thúc
đấy cách mạng thế giới. Chính vì vậy đã trở thành đối thủ đáng lo ngại đáng gườm đối
với đế quốc Mỹ. Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong
trào giải phóng dân tộc cuồn cuộn dâng cao ở châu á châu Phi và châu Mỹ Latinh, hệ

thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đang đi vào quá trình tan rã.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nhiều nước phát triển, phong trào đấu tranh
của các đảng cộng sản, của giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ ở các nước tư bản
phát triển rộng khắp. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày càng thay đổi có lợi
cho chủ nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục suy yếu
và khó khǎn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế tiến công. Cách mạng Việt Nam
đã hoà được vào trào lưu chung của cách mạng thế giới.

5

Bên cạnh những mặt thuận lợi thì cũng tồn tại khơng ít khó khăn. Phong trào
cơng sản quốc tế ngày càng bất đồng sâu sắc hơn đặc biệt là quan hệ Xơ-Trung, hai
bên cơng kích lẫn nhau cắt đứt quan hệ hai nước. Việt Nam trong tình hình đó phải
đối mặt với một bài tốn ngoại giao rất khó: Phải thân với ai, nên ứng xử như thế nào
cho đúng? Khi đó lại có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau Có quan điểm cho rằng,
chiến tranh là khơng thể tránh khỏi, nó nổ ra là tốt để lồi người có thể lợi dụng chiến
tranh mà đẩy mạnh cách mạng lên. Do đó cách mạng ở các nước phải “trường kỳ mai
phục”. Tiêu biểu cho quan điểm này là Mao Trạch Đông. Mao cho là chiến tranh thế giới
I thì một nước XHCN ra đời. Chiến tranh thế giới II, hệ thống XHCN ra đời. Muốn thế
giới tiến một bước nữa thì phải có chiến tranh thế giới III. Quan điểm thứ hai cho rằng:
Chiến tranh nổ ra ở bất cứ một nước nào cũng có thể gây ra chiến tranh thế giới (đốm
lửa gây đám cháy rừng) không nên để cháy rừng, phải thực hiện chiến lược 3 hồ (thi
đua hồ bình, chung sống hồ bình, q độ hồ bình) tiêu biểu là Khơ Rút Xốp. Hai
quan điểm trên trái ngược nhau về hình thức nhưng đều giống nhau về bản chất là
ngăn ngừa sự phát triển cách mạng ở mỗi nước. Thực chất là họ đều sợ nổ ra chiến
tranh, Đảng ta không đồng ý những quan điểm này.

Thời kỳ này cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu nhưng
chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì vẫn cịn miếng đất để xảy ra chiến tranh. Lực
lượng xâm lược gây chiến chủ yếu trên thế giới là đế quốc Mỹ. Chúng đang dẫn đầu

các thế lực đế quốc hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên minh quân sự
xâm lược, xây dựng các cǎn cứ quân sự, phục hồi chủ nghĩa phátxít ở Tây Đức và
qn phiệt ở Nhật Bản, nhóm lên những lò lửa chiến tranh ở châu Âu và châu á, ra
sức chuẩn bị chiến tranh mới. Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn tồn tại. Nhân dân các
nước đang đứng trước sự đe doạ hết sức nghiêm trọng của một cuộc chiến tranh hạt
nhân. Mặt khác, sự tàn sát và huỷ diệt ghê gớm trong cuộc Chiến tranh thế giới lần
thứ hai và hậu quả của nó cịn làm cho nhiều người lo ngại và lẫn lộn giữa chiến tranh
chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Trong điều kiện đó đã nảy sinh nhiều tư tưởng

6

và khuynh hướng của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc làm cho
tình hình thế giới phức tạp. Điều đó cũng đặt ra nhiều thách thức cho cách mạng Việt
Nam thời bấy giờ.

2. Tình hình trong nước

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chúng ta đã giành thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, điều này mang đến một ý nghĩa đặc biệt to lớn Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu đã
đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân
Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hồ bình, dân chủ và xã
hội chủ nghĩa trên thế giới”. Ta buộc Pháp phải ngồi trên bàn đàm phán vào ngày
20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến sự và lập lại hịa bình ở Đông
Dương đã được ký kết, đánh dấu sự chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp ở Đông
Dương.

Sau hiệp định Gionevo, đất nước Việt Nam bị chia thành hai miền. Cuộc
chuyển quân tập kết đã làm thay đổi tình hình. Lực lượng cách mạng đang phát triển
thuận lợi trên phạm vi toàn cục, nay tập trung ra miền Bắc, thế và lực lượng cách

mạng lớn mạnh ở miền Bắc nhưng vô cùng bất lợi ở miền Nam. Trong khi đó lực
lượng Pháp và các phe phái chính trị phản động trên tồn quốc dồn cả về miền Nam,
đó là cơ hội để Mỹ nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới. Chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy định về đình chiến,
tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực. Nhưng phía Pháp chỉ thực hiện khi có
những đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết của nhân dân ta.

Ngày 10-10-1954, quân Pháp rút khỏi Hà Nội. Cùng ngày, qn ta tiến vào tiếp
quản. Thủ đơ giải phóng rợp cờ, hoa, biểu ngữ, vang dậy tiếng hoan hô của đồng bào
mừng đón đồn qn chiến thắng trở về. Ngày 1-1-1955, tại quảng trường Ba Đình
lịch sử đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể của hàng chục vạn nhân dân Hà Nội chào

7

mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đơ. Ngày 16-5-
1955, tốn lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hải Phịng, và đến ngày 22-5-1955 thì rút
khỏi đảo Cát Bà. Miền Bắc nước ta hồn tồn giải phóng. Khi rút quân, Pháp mang
theo hoặc trước đó đã phá hỏng nhiều máy móc, thiết bị, tài sản để gây khó khăn cho
ta. Pháp cịn cùng với Mỹ và Ngơ Đình Diệm chỉ đạo bọn phản động tiến hành dụ dỗ,
cưỡng ép nhiều đồng bào công giáo vào Nam để thực hiện ý đồ phung phá cách mạng
về sau. Trong khi đó, ở miền Nam, thực dân Pháp cũng có những hành động phá hoại
Hiệp định mới được ký kết. Quân Pháp rút tồn bộ khỏi miền Nam Việt Nam khi cịn
nhiều điều khoản Hiệp định có liên quan đến trách nhiệm của họ chưa được thi hành,
trong đó có điều khoản về việc tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử hai miền Bắc-Nam
Việt Nam. Pháp trút bỏ trách nhiệm thi hành những điều khoản còn lại của Hiệp định
cho Mỹ-Diệm, người kế tục chúng ở miền Nam. Đế quốc Mỹ ra sức thực hiện ý đồ đã
vạch ra từ trước nhằm độc chiếm miền Nam Việt Nam, tiến tới độc chiếm tồn Đơng
Dương. Mỹ đã áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam bằng một số thủ
đoạn:


Về chính trị: Ngày 25-6-1954 Mỹ đã ép được Pháp đưa Ngơ Đình Diệm (người
của Mỹ) thay Bửu Lộc (người của Pháp) lên làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn miền
Nam Việt Nam. Ngày 7-7-1954, một nội các bù nhìn tay sai Mỹ đã được thành lập do
Ngơ Đình Diệm làm Thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng ở miền Nam Việt Nam
với sự hậu thuẫn từ Mỹ. Chính quyền Ngơ Đình Diệm, với sự giúp đỡ và có sự chỉ
đạo của Mỹ, ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương với Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hồ về việc tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để
thống nhất Việt Nam trong thời hạn hai năm theo điều khoản của Hiệp định. Đến hạn
hai năm, tháng 7-1956, Diệm tun bố. "Sẽ khơng có hiệp thương tổng tuyển cử, vì
chúng ta khơng ký Hiệp định Giơnevơ, bất cứ phương diện nào chúng ta cũng không
bị ràng buộc bởi Hiệp định đó". Mỹ tăng cường xây dựng Ngụy quân, làm công cụ
tiêu diệt lực lượng cách mạng.

8

Về kinh tế: chúng muốn biến miền Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hóa, chi
phối và lũng đoạn kinh tế miền Nam.

Về văn hóa: Mỹ đưa lối sống Mỹ vào miền Nam để đầu độc nhân dân ta, nhất
là tầng lớp thanh thiếu niên.

Chính sách khủng bố của Mỹ Diệm được thi hành từ năm 1958, chúng càng
tăng cường đàn áp cách mạng miền Nam. Chúng ban hành đạo luật 10/59 đặt cộng
sản ra ngồi vịng pháp luật, lê máy chém đi khắp miền Nam với phương châm:'' Bắt
nhầm cịn hơn bỏ sót''.

Các chính sách trên của Mỹ nhằm thực hiện biến miền Nam thành thuộc địa
kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ, để ngăn chặn “làn sóng cộng sản” đang phát triển
dần ở khu vực Đông Nam Á, chống phá miền Bắc chia cắt lâu dài nước ta, dân tộc
Việt Nam ta.


Như vậy, đặc điểm tình hình nước ta sau Hiệp định Gionevo là hịa bình được
lập lại ở miền Bắc, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của Mỹ và tay sai, đất nước bị
chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Sự nghiệp cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước chưa hoàn thành.

Trước tình hình đó, đặt Đảng ta phải lựa chọn một trong ba con đường:
Thứ nhất, tập trung cả nước để giải phóng miền Nam (chưa xây dựng miền
Bắc)

Thứ hai, tập trung xây dựng miền Bắc XHCN (miền Nam dừng lại chờ thời cơ)

Thứ ba, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau trên cả hai
miền.

Trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình, nắm vững lí luận chủ nghĩa Mác
Lênin, thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã lựa chọn con đường thứ 3: Tiến
hành đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược trên cả 2 miền.

9

Khi chọn con đường này Đảng ta phải đứng trước một loại các vấn đề như liệu
đẩy mạnh cách mạng miền Nam có giữ được hịa bình ở miền Bắc không? Làm thế
nào để phát động được cuộc chiến tranh ở miền Nam? Có đánh thắng Mỹ khơng?
Thế giới có ủng hộ ta khơng? Những vấn đề nêu trên là những ẩn số khó tìm lời giải
lúc bấy giờ và đều phải đứng trước nguy cơ mất còn của một dân tộc.

CHƯƠNG 2
TÍNH ĐÚNG ĐẮN SÁNG TẠO CỦA ĐƯỜNG LỐI TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI
HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG Ở HAI MIỀN ĐẤT NƯỚC SAU NĂM 1954


1. Cơ sở lý luận về tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc thực hiện
đồng thời hai chiến lược cách mạng.

Cách mạng Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ phải tiến hành đồng thời, đó là
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, với mục tiêu chung là củng cố hòa bình, thực hiện thống
nhất nước nhà trên nền tảng độc lập và dân chủ. Cùng một lúc phải tiến hành hai
chiến lược, hai nhiệm vụ cách mạng là điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử Việt
Nam và thế giới. Để giải quyết nhiệm vụ to lớn và quan trọng đó, Đảng ta đề ra
đường lối đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của đất nước và thế giới, đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân. Đối với miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Miền
Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời
kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đối với nhiệm vụ cách mạng
miền Nam và cả nước, Người chỉ rõ: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước; ra sức củng cố và đưa miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội; xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ

10

và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hịa bình ở Đơng Dương, Đông Nam Á và
thế giới”. Chiến lược này là sự vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ nghĩa của Đảng vào
con đường giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, được hình thành trên những cơ
sở sau đây:

Thứ nhất, Đảng ta đã vận dụng lí luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác-
Lênin. Đứng vững trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử mà C.Mác và
Ăngghen đã nghiên cứu và phát hiện ra sự ra đời kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa

là một tất yếu. Gắn liền với nguồn gốc xuất hiện và điều kiện ra đời, quá trình phát
triển của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa tất yếu cũng là quá trình phải
trải qua các giai đoạn phát triển đi dần từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hồn
thiện, mỗi giai đoạn trong đó lại có thể có nhiều thời kỳ, với những nội dung và bước
đi cụ thể. Hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời trước hết phải trải qua
thời kỳ cải biến cách mạng, thời kỳ quá độ chính trị. Việc đi lên CNXH đã được xác
định trong Cương lĩnh năm 1930: Cách mạng Việt Nam sẽ trải qua 2 giai đoạn - Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân (giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho nông dân),
sau đó sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH. Nói cách khác: mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đã được xác định nhất quán từ ngày thành lập
Đảng đến nay. Kiên định với mục tiêu đó, sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) miền
Bắc hồn tồn được giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ của
cách mạng miền Bắc đi lên CNXH, đồng thời tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam. Miền Bắc quá độ lên CNXH làm hậu phương vững chắc
cho miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xây dựng CNXH ở
miền Bắc chính là q trình Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng lý luận về cách mạng
XHCN, trong đó có lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, hiện thực
hóa thành chế độ xã hội XHCN.

Thứ hai, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa
Mác- Lênin. Dựa trên “Tư tưởng cách mạng không ngừng” của C.Mác và

11

Ph.Ăngghen, căn cứ vào điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã phát triển “Tư tưởng
cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác thành “Lý luận cách mạng không
ngừng”, về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới sang cách mạng xã
hội chủ nghĩa. V.I.Lênin chỉ ra trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc những nước đã qua
cách mạng tư sản, giai cấp vô sản cần kết hợp cuộc đấu tranh cho dân chủ với cuộc
đấu tranh để thực hiện mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa. Còn ở các nước chưa

qua cách mạng tư sản, vẫn phải tiến hành cuộc cách mạng dân chủ tư sản, giai cấp
vô sản không chỉ tham gia cuộc đấu tranh này mà còn cần phải giành lấy quyền lãnh
đạo cách mạng, làm cho nó đi đến thắng lợi triệt để, rồi chuyển lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Với những nước thuộc địa, phụ thuộc, mục tiêu trước mắt của cách mạng
là giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền tự do dân chủ, tạo điều kiện tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Giá trị lí luận tư tưởng cách mạng không ngừng của Lênin đã được
Đảng vận dụng linh hoạt vào quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ, chính vì
vậy thời kì này Đảng tiếp tục con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam
để hai miền Nam – Bắc thống nhất đưa Việt Nam đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, trung thành với phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam do
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được
đề ra tại Hội nghị hợp nhất của tổ chức Cộng sản trong nước có ý nghĩa như Đại hội
để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại
biểu Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai
đại biểu Đơng Dương Cộng sản Đảng (06/1929); 02 đại biểu của An Nam Cộng sản
Đảng (10/1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động ngồi nước. Hội nghị họp
bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long, từ ngày 06/06 –
07/02/1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí
thơng qua bảy tài liệu, văn kiện, trong đó có bốn văn bản hết sức quan trọng: Chính
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của
Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hợp thành nội dung Cương lĩnh

12

chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc
khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối Đại hội VI
(1928) của Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ
chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới và Đông Dương. Nội dung
cương lĩnh đã nêu: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách

mạng để đi tới xã hội cộng sản”, tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách
mạng Việt Nam. Tồn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng tốt lên tư tưởng lớn là cách
mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vì vậy, khi miền Bắc được giải phóng nhưng miền Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng ta khẳng định đồng thời tiến
hành hai nhiệm vụ cách mạng: tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
ở miền Nam và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đây là sự đúng đắn
sáng tạo của Đảng đã được thực tiễn chứng minh.

Thứ tư, phù hợp với xu thế của thời đại: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Việc lựa chọn mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội của Đảng ta, nhân dân ta dựa trên cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác -Lênin,
được tổng kết từ thực tiễn cách mạng thế giới và lịch sử dân tộc Việt Nam, hội đủ
các nhân tố khách quan và chủ quan, dân tộc và thời đại, hồn tồn khơng phải dựa
vào cảm tính, thuần túy dựa trên nguyện vọng mong muốn chủ quan của Đảng và
nhân dân ta. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới
và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng

13

Mười Nga năm 1917, Người đã lựa chọn và đứng trên lập trường của giai cấp vô sản
để tiến hành giải phóng dân tộc bằng một cuộc cách mạng vô sản và bước phát triển
tiếp theo là xây dựng chủ nghĩa xã hội khi nhấn mạnh: 1. Cách mạng phải đặt dưới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc;
2. Phải thực hiện Dân tộc cách mệnh để tập trung đánh đổ bọn đế quốc thực dân và
bọn phong kiến tay sai giành lại độc lập cho xứ sở và Thế giới cách mệnh giống như
giai cấp công nông Nga đánh đổ tư bản áp bức… Luận cứ để mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội có thể trở thành hiện thực sinh động ở Việt Nam chính là
cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản, là một bộ
phận khăng khít của cách mạng thế giới, trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện
chứng; trong đó: 1) Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc
lập dân tộc. 2) Đi lên chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững
được độc lập dân tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Đảng cho rằng sự kết thúc thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân là sự mở đầu tất yếu cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, theo chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề quá độ ở các nước có nên kinh
tế lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội đã được giải quyết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Theo
V.I. Lênin, các dân tộc lạc hậu có thể tiến thẳng lên Xô Viết, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa nếu có hai điều kiện:

Một là, bên trong Đảng cộng sản đã lãnh đạo chính quyền nhà nước và khối liên
minh công nông vững chắc.

Hai là, bên ngồi có sự giúp đỡ về mặt nhà nước của giai cấp vô sản thế giới ở
các nước tiên tiến. Và thực tiễn đã có nhiều dân tộc trong nước Nga Sa hoàng cũ đã
phát triển theo hướng đi này.

14

Thứ sáu, hiện tại mỗi miền đều có những đặc điểm riêng và mâu thuẫn riêng.
Miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội để giải quyết mâu thuẫn “ai thắng ai” giữa chủ

nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở
thời kỳ phát triển mạnh mẽ, có tác động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới nối liền từ châu á sang châu Âu, không ngừng
phát triển và củng cố về mọi mặt. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách
mạng miền Nam, thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền
Bắc xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận
lợi chưa bao giờ có đối với cách mạng nước ta. Đó là một nguyên nhân chủ yếu để
cách mạng miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai.

Bên cạnh đó, miền Nam có 2 mâu thuẫn cơ bản, đó là: Một là, mâu thuẫn giữa
nhân dân miền Nam với bọn đế quốc xâm lược mà chủ yếu là đế quốc Mỹ; hai là,
mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam, trước hết là nơng dân với giai cấp địa chủ-
phong kiến. Trong đó mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc Mỹ xâm lược
và tập đồn tay sai Ngơ Đình Diệm là mâu thuẫn chủ yếu. Do vậy miền Nam phải
tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhân dân ta tiến hành
kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai là tiếp tục cuộc cách mạng đã được
tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm hoàn thành sự nghiệp giành độc lập dân
tộc và thống nhất Tổ quốc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sự tiếp nối
lịch sử tất yếu. Đúng như Đảng ta đã khẳng định tại Đại hội tân thứ III (tháng 9-
1960): "Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là sự tiếp tục các cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Ba tơ, tổng khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng
chiến trường kỳ của nhân dân ta trong điều kiện mới của lịch sử". Từ bối cảnh lịch
sử chiến đấu và chiến thắng ấy, nhân dân ta ở miền Nam bước vào cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược với tư thế của người chiến thắng và đã kế thừa được
nhiều kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực
dân Pháp. Đó cũng là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng miền Nam. Đồng

15

chí Lê Duẩn nói: “Chúng ta thắng Mỹ là nhờ có những kinh nghiệm quý báu của

Cách mạng tháng Tám và 9 nǎm kháng chiến chống Pháp. Khơng có Cách mạng
tháng Tám, khơng có 9 nǎm kháng chiến chống Pháp thì khơng thể có thắng lợi của
kháng chiến chống Mỹ”.

Thứ bảy, hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến
lược khác nhau, song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực
hiện hịa bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả
nước là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược và tay
sai. Giải quyết mâu thuẫn chung ấy là trách nhiệm của cả nước, song mỗi miền có
nhiệm vụ chiến lược riêng và có vị trí khác nhau. “Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc... là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ
cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta”. Miền
Bắc sẽ là hậu phương, căn cứ địa cách mạng của cả nước- đây là nhân tố thường
xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Bên cạnh đó, miền Bắc đi lên chủ nghĩa
xã hội sẽ là trung tâm đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng dân tộc, dân chủ để thúc đẩy
cách mạng cả nước. Cịn “cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó có
tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống
trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”. Cùng với đó là
bảo vệ miền Bắc và hồ bình ở Đơng Nam Á cũng như trên thế giới. Cả hai nhiệm
vụ chiến lược này có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau nhằm thực
hiện một mục tiêu chung. Bởi vì, tuy là hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai
miền nhưng trong một dân tộc tiến hành trên một đất nước và do một Đảng lãnh đạo.
Bên cạnh đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phát triển sẽ tạo sức mạnh về
vật chất và tinh thần để thúc đẩy sự phát triển của cách mạng miền Nam và cả nước.
Và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam phát triển càng tạo điều kiện

16

để bảo vệ miền Bắc, nhanh chóng thống nhất đất nước để cùng cả nước đi lên chủ

nghĩa xã hội.

Nắm vững và vận dụng linh hoạt, sáng tạo những lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn cho cả hai miền Nam – Bắc, được chỉ
đạo thường xuyên và kịp thời của Trung ương và các cấp đảng bộ, nhân dân cả nước
đã phối hợp nhịp nhàng trong chiến đấu và xây dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả
các kế hoạch quân sự của Mỹ - Nguỵ, bẻ gẫy tất cả các cuộc phản công của địch,
dồn địch vào thế tiến thoái lưỡng nan, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong
bài viết "Hồ Chí Minh - một nhà tư tưởng lớn”, Giáo sư Singo Shibata (Nhật Bản)
khẳng định: “Một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và Đảng
Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về chủ nghĩa xã hội khi vẫn tiến hành cuộc
chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết Đảng Lao động Việt Nam là Đảng đầu tiên
trong các Đảng mácxít trên thế giới vận dụng lý luận này”. Trên cơ sở đó ta tiến
hành xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mở cuộc tiến công chiến lược Xuân
1968, làm phá sản kế hoạch "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi này,
nhân dân ta đã giữ vững được thế thắng, kiềm chế và thắng địch trong "chiến tranh
cục bộ" của chúng trên chiến trường miền Nam. Thực tế 21 năm của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đã chứng tỏ đường lối chiến lược đó của Đảng ta là hồn
tồn đúng đắn, sáng tạo; đảm bảo cho cuộc chiến đấu của toàn quân và toàn dân ta
trên khắp hai miền giành thắng lợi ngày càng to lớn và toàn diện, đánh bại các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại
lần thứ nhất và lần thứ hai của không quân, hải quân Mỹ trên vùng trời, vùng biển
miền Bắc, giành thắng lợi từng bước, tiến lên đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ.

2. Cơ sở thực tiễn về tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc thực hiện
đồng thời hai chiến lược cách mạng.

17


Trung thành vô hạn với Tổ quốc, với nhân dân; kiên định lập trường cách
mạng; trên cơ sở đánh giá đúng bản chất, âm mưu và hành động của kẻ thù; đánh giá
lực lượng so sánh đôi bên với quan điểm cách mạng và khoa học; bám sát diễn biến
thực tế của tình hình chiến trường trong nước, khu vực và thế giới; vững tin vào
lòng yêu nước và sức mạnh to lớn của nhân dân, Đảng ta đã đề ra đường lối cách
mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta tiến hành sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất
Tổ quốc. Đường lối ấy của Đảng khơng ngừng được bổ sung, ngày càng hồn chỉnh,
là nhân tố quyết định sự phát triển của cuộc kháng chiến, đánh bại mọi âm mưu và
thủ đoạn của kẻ thù xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền Bắc đang tiến
những bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tăng cường lực lượng về mọi mặt, trở
thành thành trì của cách mạng cả nước. Trong khi đó thì đế quốc Mỹ và bọn Ngơ
Đình Diệm dựng lên ở miền Nam một chính quyền độc tài và hiếu chiến, biến miền
Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Sự nghiệp thống
nhất nước nhà của nhân dân ta đang bị chúng cản trở và phá hoại. Trước bối cảnh
đó, bên cạnh việc vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, so sánh thế và
lực giữa ta và địch để đưa ra quyết định tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai
nhiệm vụ chiến lược cách mạng: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân
chủ trong cả nước.

Thứ nhất, Đảng ta đã nghiên cứu và vận dụng kinh nghiệm thống nhất của các
nước trên thế giới.

Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai
miền với hai chế độ chính trị- xã hội đối lập nhau, Đảng ta đứng trước bài toán khi
phải lựa chọn 1 trong 3 con đường: Một là, Tập trung cả nước để giải phóng miền

18


Nam (chưa xây dựng miền Bắc); Hai là, Tập trung xây dựng miền Bắc XHCN
(miền Nam dừng lại chờ thời cơ); Ba là, Tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược khác nhau trên cả hai miền. Trên tình hình đó, Đảng ta đã phân tích thực tiễn
tình hình thế giới đặc điểm những nước cũng bị chia cắt như Việt Nam. Lúc này trên
thế giới có 2 nước có hồn cảnh bị chia cắt giống ta, Đơng - Tây Đức, và Nam - Bắc
Triều Tiên. Thay vì tiến hành cách mạng hai miền thì những nước này lại có chủ
trương như sau: Đảng Cơng nhân thống nhất Đức cho là cứ xây dựng Đơng Đức thật
mạnh thì Tây Đức sẽ đi theo, Bắc Triều Tiên cũng vậy. Thực tế ta thấy Tây Đức
nuốt Đơng Đức, Tổng Bí thư Hô Nếch Cơ phải chạy sang Chi Nê với con gái. Bắc
Triều Tiên cũng không vượt được Nam Triều Tiên. Làn sóng người đang đổ về phía
Nam (Hàn Quốc). Từ những thất bại của 2 nước trên, Đảng ta đã rút ra bài học kinh
nghiệm quý báu, nếu chỉ tập trung vào một miền thì cơng cuộc thống nhất sẽ khơng
đem lại kết quả. Chính vì vậy, ta quyết định đi theo con đường tiến hành đồng thời
hai chiến lược cách mạng ở hai miền. Trên thực tế, việc tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng khác nhau trên hai miền Nam - Bắc chẳng những không mâu
thuẫn, mà lại từng bước đưa cách mạng hai miền cùng phát triển, cùng đi lên trong
thế tương hỗ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn
toàn đế quốc Mỹ xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc.

Thứ hai, Đảng ta đã nhạy bén chớp thời cơ thuận lợi cũng như tận dụng mọi
nguồn lực trong và ngoài nước.

Trên trường quốc tế: Thuận lợi của cách mạng Việt Nam là hệ thống xã hội chủ
nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, nhất là sự lớn
mạnh của Liên Xô. Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu
Phi và Mỹ Latinh, phong trào hồ bình, dân chủ lên cao ở các nước TBCN. Trong
nước: miền Bắc được hồn tồn giải phóng, làm căn cứ địa, hậu phương cho cả


19

nước. Thế và lực cách mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến. Có ý chí độc
lập thống nhất của nhân dân từ Bắc tới Nam. Dù độc lập tự chủ trong quá trình
hoạch định đường lối, nhưng để đánh bại được đế quốc hùng mạnh thì cần phải kết
hợp sức mạnh của cả dân tộc và sức mạnh thời đại. Để thực hiện thành công vấn đề
này, một mặt, phải phát huy tiềm lực của chính mình, mặt khác, phải có chính sách
ngoại giao mềm dẻo, khơn khéo để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước trên
thế giới, trong đó có sự liên minh ba nước Đông Dương, đặc biệt là sự ủng hộ của
các nước xã hội chủ nghĩa.

Phát huy sức mạnh trong nước, Đảng ra động viên và tập hợp một cách rộng rãi
vững chắc mọi lực lượng để giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH không chỉ là ánh sáng soi đường cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà còn
là điều kiện để kết hợp lợi ích cơ bản của dân tộc ta với những mục đích của thời
đại: hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Nói cách khác, thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nghĩa vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế cao cả,
trong sáng. Đây là một nội dung quan trọng của đường lối kháng chiến của Đảng ta
và là điều kiện cơ bản tạo ra thế và lực mới, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta đến thắng lợi. Đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của
một cường quốc giàu có hơn ta gấp nhiều lần về quân sự, kinh tế; trong khi, đặc biệt
nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần độc lập tự chủ của mọi người Việt Nam yêu
nước; xem đó là nội lực, là nhân tố quyết định cơ bản nhất, làm nên sức mạnh đánh
thắng quân xâm lược, Đảng ta đồng thời khẳng định phải kết hợp chặt chẽ sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Xác định
cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách rời của cách mạng thế giới; đặt
cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam trong cục diện chung của thế giới,
trong xu thế chuyển biến của thời đại, trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến


20

chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã gắn liền việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến
lược, sách lược của cách mạng với việc đề ra mục tiêu, phương hướng, đường lối,
chính sách đối ngoại; chiến lược, sách lược đấu tranh, tập hợp lực lượng, xây dựng,
củng cố nền tảng chính sách đối ngoại và nền ngoại giao của ta, chủ động tiến cơng
địch trên chính trường quốc tế. Trên thực tế, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện thành cơng đường lối quốc tế, chính
sách đối ngoại độc lập, tự chủ, mà nội dung cốt lõi là phát triển liên minh chiến đấu
và giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân ba nước Đơng Dương; đồn kết chặt chẽ với lực
lượng cách mạng trên thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ; lấy việc đồn kết, liên
minh với Liên Xô, Trung Quốc làm hạt nhân; trên cơ sở đó, hình thành và phát triển
một mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ sự nghiệp kháng chiến chính nghĩa
của nhân dân ta, tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn đánh thắng chiến tranh xâm lược
của kẻ thù.

Thứ ba, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về đánh giá, so sánh lực lượng đúng
đắn, hạ quyết tâm chiến lược chính xác, kịp thời.

Đảng ta sớm nhận diện, đánh giá đúng về kẻ thù, đó là dù đế quốc Mỹ là đội
quân tinh nhuệ và thiện chiến, nhưng vào miền Nam không phải trong thế mạnh, mà
trong thế yếu, thế bị động. Đối với ta, lúc này không chỉ mạnh về chính trị mà cịn
cả về qn sự. Đây là cơ sở để Đảng ta hạ quyết tâm đánh và thắng đế quốc Mỹ.

Mỹ là một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự đứng hàng đầu thế giới tư bản.
Tuy nhiên vào thời điểm đó, phong trào giải phóng dân tộc đang lên nhất là ở châu
Á, châu Phi và Mỹ latinh, khiến cho Mỹ phải phân tán lực lượng đối phó nhiều nơi;
phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh về mọi mặt nhất là Liên Xô, Trung Quốc tạo động
lực mạnh mẽ cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên tồn thế giới. Xét về tính chất

thì cuộc chiến tranh của Mỹ là cuộc chiến tranh phi nghĩa còn cuộc chiến tranh của
ta là chính nghĩa. Đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng nên có


×