Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

So sánh hai quan điểm tư tưởng giữa trường phái kinh tế học cổ điển và trường phái kinh tế học keynes

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.11 KB, 29 trang )

1

ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH DOANH

KHOA KINH TẾ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG KINH TẾ

SO SÁNH HAI QUAN ĐIỂM TƯ TƯỞNG GIỮA TRƯỜNG
PHÁI KINH TẾ HỌC CỔ ĐIỂN VÀ TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ

HỌC KEYNES

Giảng viên: Th.S Trương Quang Hùng
Bộ môn: Lịch sử tư tưởng Kinh tế

2

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
NỘI DUNG....................................................................................................................2
Phần 1: Tổng quan về hai lối tư tưởng kinh tế..........................................................2

1.1. Kinh tế học cổ điển...................................................................................2
1.2. Kinh tế học Keynes...................................................................................2
Phần 2: Sự khác biệt trong quan điểm của hai trường phái tư tưởng kinh tế........3
2.1. Con người kinh tế:....................................................................................3
2.2. Thị trường và sự phân bổ nguồn lực hiệu quả..........................................4
2.3. Cơ chế vận hành của thị trường: cung, cầu và giá cả...............................5


2.4. Giá cả và giá trị.........................................................................................8
2.5. Tiền và lạm phát.....................................................................................10
2.6. Thị trường tín dụng và lãi suất...............................................................13
2.7. Thị trường lao động và vấn đề thất nghiệp.............................................14
2.8. Hoạt động sản xuất và tăng trưởng kinh tế.............................................16
2.9. Hoạt động phân phối và chi tiêu.............................................................20
2.10. Hiện tượng chu kỳ kinh tế....................................................................23
KẾT LUẬN.................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................26

3
ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN THAM GIA

Họ và tên MSSV Đánh giá hoàn thành
Phan Nguyễn Trâm Anh
31221023085
Trương Lê Hoàng
Đinh Nguyễn Minh Thư 31221023466

Hoàng Khánh Trang 31221021950
Hồ Triệu Vỹ
31221025107

31221025623

1

LỜI MỞ ĐẦU

Lược khảo tư tưởng cổ điển và tư tưởng của Keynes là một cơ hội để khám phá

những trường phái kinh tế quan trọng, đã đặt nền móng cho nhiều hệ thống kinh tế
hiện đại. Tư tưởng cổ điển, đại diện bởi những tên tuổi như Adam Smith, David
Ricardo,.. và tư tưởng của Keynes, tiêu biểu bởi John Maynard Keynes, đều ảnh
hưởng sâu sắc đến cách chúng ta hiểu và quản lý kinh tế. Tư tưởng cổ điển tập trung
vào ý tưởng của thị trường tự do và khả năng tự điều chỉnh của nó. Adam Smith, trong
"Wealth of Nations" ví von về sức mạnh tự nhiên của thị trường và hiệu ứng lợi nhuận
như động cơ chính đằng sau sự phát triển kinh tế. Các nhà kinh tế cổ điển ủng hộ
chính sách tài khóa thụ động và thiết lập mơ hình kinh tế tự nhiên thơng qua thị
trường. Ngược lại, tư tưởng của Keynes xuất hiện như một phản đối đối với khủng
hoảng kinh tế và suy thoái. Keynes chứng minh trong "The General Theory of
Employment, Interest, and Money" rằng thị trường không phải lúc nào cũng tự điều
chỉnh một cách linh hoạt, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng. Ơng ủng hộ quản lý tài
khóa và chính sách tiền tệ để kích thích chi tiêu và duy trì sự ổn định kinh tế.

2

NỘI DUNG
Phần 1: Tổng quan về hai lối tư tưởng kinh tế

1.1. Kinh tế học cổ điển
Kinh tế học cổ điển, xuất phát từ thế kỷ 18 và 19, là trường phái quan trọng giải
thích hoạt động kinh tế của con người dựa trên nguyên tắc nền kinh tế tự điều chỉnh
theo quy luật tự nhiên của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Các nền dân chủ, với khả
năng tự điều chỉnh và phát triển thị trường tư bản, được coi là cơ sở của Kinh tế học
cổ điển. Trước khi Kinh tế học cổ điển phát triển, đa số các nền kinh tế quốc dân
thường áp dụng hệ thống chính sách quân chủ từ trên xuống dưới, thực hiện chỉ huy
và kiểm soát. Các nhà kinh tế cổ điển ngay sau đó đã phát triển các lý thuyết về giá trị,
giá cả, cung, cầu và phân phối, các nhà kinh tế học như như Adam Smith, David
Ricardo, Thomas Malthus và John Stuart Mill đã có những đóng góp quan trọng vào
sự hình thành và phát triển của nền Kinh tế học cổ điển. Những nỗ lực ban đầu này đã

đặt nền móng cho lý thuyết kinh tế cổ điển, đưa ra những hiểu biết sâu sắc về cách
thức thị trường và hệ thống kinh tế hoạt động trong bối cảnh của thời đại mới, đồng
thời ảnh hưởng mạnh mẽ đến phát triển của kinh tế học trong thế kỷ 19 và sau này.
Keynes đặt tên chung cho trường phái này là "những nhà kinh tế cổ điển," bao
gồm phái cổ điển, phái biên tế và phái tân cổ điển. Trong thế kỷ XVIII, trường phái cổ
điển ra đời với tác động lớn từ Adam Smith và tác phẩm "Của cải của các dân tộc."
Trường phái này hướng tới tự do cạnh tranh, sở hữu tư bản, tính tiết kiệm và chi tiêu
cơng cộng thấp. Cách mạng biên tế của thế kỷ 19 đưa ra sự chuyển đổi từ lý thuyết cổ
điển sang triết lý mới, tập trung vào cầu và hữu dụng biên tế thay vì cung chi phí.
Trong khi đó, trường phái tân cổ điển nghiên cứu cơ chế quyết định giá, sản lượng và
phân phối thu nhập dựa trên nguyên lý cung - cầu và giả định về tối đa hóa lợi ích
hoặc lợi nhuận. Mặc dù nhận được sự phê phán về việc tập trung vào lý thuyết và ít
chú ý đến thực tế, trường phái này vẫn tiếp tục là một phần quan trọng trong lịch sử
kinh tế học.
→ Từ đó, Kinh tế học cổ điển ra đời với lý thuyết thị trường hiệu quả.
1.2. Kinh tế học Keynes
Kinh tế học Keynes, do John Maynard Keynes phát triển trong những năm
1930 để giải quyết Đại khủng hoảng, nhấn mạnh việc tăng chi tiêu Chính phủ và giảm

3

thuế để kích thích nhu cầu và ngăn chặn suy thoái. Được biết đến với lý thuyết "phía
cầu," Keynes đặt ưu tiên vào ổn định hoạt động và can thiệp Chính phủ. Ba nguyên lý
chính của học thuyết này tập trung vào ảnh hưởng của quyết định kinh tế, độ chậm
của giá cả (đặc biệt là tiền lương), và biến động của tổng cầu. Nó cũng định hình
chính sách tài khóa và tiền tệ, với chi tiêu và thuế để kiểm soát tổng cầu và quản lý
nguồn cung tiền tệ để duy trì sự ổn định kinh tế.

Keynes đã thành cơng ít nhất ở hai phương diện quan trọng. Đầu tiên, trong
lĩnh vực chính sách kinh tế, ơng đã thành công trong việc thuyết phục và thay đổi

quan điểm về sự can thiệp của Chính phủ trong nền kinh tế. Thứ hai, ơng đã đưa ra
một chương trình nghiên cứu ẩn sau Lý thuyết tổng quát, giúp hình thành trường lý
thuyết mới là kinh tế học vĩ mô chỉ trong thời gian ngắn. Dự phóng thành cơng cũng
cho thấy sự tiến bộ ngay của chính lý thuyết tân cổ điển mà lúc bấy giờ chưa được
thực hiện. Trước đó, các nhà kinh tế học thường tỏ ra bi quan và thiếu hy vọng, nhưng
Keynes đã mang lại sự lạc quan và niềm tin vào khả năng can thiệp để giải quyết các
vấn đề trong bối cảnh đại suy thoái xảy ra. Cách tiếp cận vĩ mô của Keynes là một
bước quan trọng hơn so với phân tích cân bằng cục bộ trong kinh tế vi mô. Điều này
giúp ông giải quyết các vấn đề quan trọng như thất nghiệp thơng qua phân tích sản
lượng, chi tiêu, việc làm, lãi suất và giá cả.
Phần 2: Sự khác biệt trong quan điểm của hai trường phái tư tưởng kinh tế

2.1. Con người kinh tế:
Trong Kinh tế học cổ điển, con người như là những cá nhân hành động dựa trên
lợi ích cá nhân, và họ đặt mơ hình hoạt động kinh tế dưới góc độ tự do cá nhân và thị
trường tự do, người ta tin rằng nếu mỗi người tập trung vào việc tối đa hóa lợi ích cá
nhân, thị trường sẽ tự động điều chỉnh và tạo ra sự cân bằng tự nhiên. Niềm tin này
dựa trên những nguyên tắc như vai trò tối thiểu của Chính phủ, tự do cá nhân và
quyền tư hữu, cũng như sự linh hoạt của giá cả và hiệu quả trong huy động nguồn lực.
Người theo trường phái cổ điển tin rằng thị trường tự do và tự do kinh doanh là chìa
khóa để tạo ra phúc lợi xã hội cao nhất. Họ nhấn mạnh vào cơ sở lý thuyết của sự cân
bằng tồn dụng, trong đó giá cả có thể điều chỉnh linh hoạt và nguồn lực được sử dụng
một cách đầy đủ và hiệu quả. Điều quan trọng nhất là sự hài hịa giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội, mà họ cho rằng có thể đạt được thông qua việc mọi cá nhân theo

4

đuổi lợi ích cá nhân của mình. Tuy nhiên, những giả thuyết này đã chịu nhiều sự phản
đối từ các nhà kinh tế học hiện đại do tính khơng phù hợp với nền kinh tế hiện nay.


Ngược lại, Keynes lại nhận xét con người đóng vai trị quan trọng trong q
trình phát triển của nền kinh tế nhưng có thể không luôn hành động lý tưởng theo cách
mà các nhà Kinh tế cổ điển tin tưởng. Ông đặt nặng vào tác động của yếu tố tâm lý và
không chắc chắn trong quyết định kinh tế của con người. Ví dụ, khi có một cuộc
khủng hoảng tài chính, kỳ vọng của con người kinh tế có thể xấu đi, dẫn đến giảm chi
tiêu và đầu tư, tổng cầu giảm xuống và nền kinh tế rơi vào suy thối. Ơng nhấn mạnh
ý tưởng về vai trị của Chính phủ và chính sách tài khóa để kiểm sốt và điều chỉnh
nền kinh tế thơng qua các chính sách tài chính (sử dụng ngân sách để chi tiêu cho các
dự án công cộng hoặc giảm thuế) và chính sách về tiền tệ (chính sách được Ngân hàng
Trung Ương sử dụng để điều chỉnh lãi suất hoặc cung tiền) , đặc biệt là trong thời kỳ
suy thoái kinh tế. Những đặc điểm này của con người kinh tế có ý nghĩa quan trọng
trong kinh tế học Keynes, giải thích tại sao nền kinh tế có thể rơi vào suy thối cung
và cầu là cân bằng, tất cả là do tác động của yếu tố tâm lý.

Nhìn chung, cả hai trường phái đều cơng nhận vai trị của con người trong nền
kinh tế, nhưng cách hiểu và tiếp cận vấn đề có sự khác biệt đáng kể. Nếu trong Kinh tế
học cổ điển, con người chủ động quyết định nền kinh tế thì theo Keynes, chính sách
cơng có thể sẽ ảnh hưởng đến hành vi kinh tế của con người.

2.2. Thị trường và sự phân bổ nguồn lực hiệu quả
Thị trường, đơn giản là nơi mà người mua và người bán tương tác với nhau để
trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, hai trường phái chính trong kinh tế lại đưa ra
những quan điểm khác nhau về cách thức thị trường hoạt động và về mức độ can thiệp
của Chính phủ trong quá trình này.
Theo quan điểm của các nhà Kinh tế học cổ điển thì thị trường ln duy trì sự
cân bằng và các nguồn lực đều được sử dụng một cách hiệu quả. Vấn đề chủ yếu là
phân bổ nguồn lực thế nào để mang lại lợi ích tốt nhất cho cả hiện tại và tương lai.
Các nhà Kinh tế học cổ điển cho rằng thị trường tự do có thể tự giải quyết mọi vấn đề
kinh tế phát sinh, còn sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường tự do ln gây ra các
vấn đề kinh tế. Nói cách khác, chính sách can thiệp vào nền kinh tế của Chính phủ là

vấn đề, cịn thị trường tự do mới là giải pháp. Kinh tế học cổ điển tin rằng khơng có

5

hiện tượng chu kỳ về sản lượng và thất nghiệp, chỉ có chu kỳ về giá cả bởi lẽ họ tin
rằng giá cả của tất cả thị trường sẽ linh hoạt để điều chỉnh về vị trí cân bằng. Và như
vậy nguồn lực trong nền kinh tế luôn được sử dụng đầy đủ, mức sản lượng nền kinh tế
đạt được luôn là mức sản lượng tiềm năng và thất nghiệp tồn tại là thất nghiệp tự
nguyện, là dạng thất nghiệp khi thị trường lao động cân bằng.

Tuy nhiên, quan điểm của Keynes lại đặt ra nghi ngờ về sự hoàn toàn cân bằng
và hiệu quả của thị trường. Theo Keynes, thị trường không luôn đảm bảo sử dụng hiệu
quả và đầy đủ nguồn lực. Đôi khi, can thiệp của Chính phủ là cần thiết để duy trì và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Lý thuyết thanh khoản của Keynes cho rằng Chính phủ
có thể giải quyết nhược điểm của thị trường theo định hướng sử dụng tiền và hợp tác
với khu vực tư nhân và gia đình.

Về bản chất, lý thuyết cổ điển giả định rằng bằng một phương pháp nào đó,
người ra quyết định ngày hơm nay có thể và thực sự biết được những gì sẽ xảy ra
trong tương lai. Do đó, vấn đề kinh tế duy nhất mà phải giải quyết chỉ là cách phân
phối nguồn lực sao cho mang lại lợi ích tối đa cho cả hiện tại và tương lai.

Mặt khác, lý thuyết thanh khoản của Keynes lại giả định rằng người ra quyết
định “biết” rằng họ không biết, và cũng không thể biết được kết quả trong tương lai
của một quyết định nào đó ở thời hiện tại. Do đó, lý thuyết của Keynes cho biết hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa cần thiết lập ra các thể chế như thế nào để cho phép
người ra quyết định giải quyết được các vấn đề không chắc chắn trong tương lai, để
khi ra quyết định phân bổ nguồn lực, họ vẫn cảm thấy yên tâm.

2.3. Cơ chế vận hành của thị trường: cung, cầu và giá cả

Thị trường vận hành bởi tổng cung - tổng cầu. Khi so sánh hai quan điểm của
hai trường phái Kinh tế học cổ điển và Keynes, có thể thấy được sự khác biệt ở cách
nhìn nhận các yếu tố vận hành thị trường này, tác động với yếu tố giá cả.
Tổng cầu (AD) là khái niệm chỉ tổng số nhu cầu trong nền kinh tế về hàng hóa
và dịch vụ cuối cùng sản xuất trong nước trong một khoảng thời gian nhất định. Điều
quan trọng là cả hai cách tiếp cận cho thấy AD là một đường cong dốc xuống và
nguyên nhân nằm ở Lý thuyết Số lượng, trong đó nêu rõ như sau:

MV = PY

6
M là viết tắt của cung tiền, V là vịng quay hay tốc độ của tiền (và khơng đổi),
P là mức giá và Y là GDP thực tế. Hiệu ứng của việc giảm cung tiền làm giảm độ dốc
đường cong AD. Nói cách khác, giá (P) tăng, cung tiền giảm để giữ cho cả hai bên
bằng nhau vì V là hằng số. Khi cung tiền giảm, như trường hợp của bất kỳ hàng hóa
nào có nguồn cung giảm, giá của nó sẽ tăng lên. Bên cạnh đó, AD có bốn thành phần:
Tiêu thụ cá nhân (C), chi tiêu Chính phủ (G), đầu tư (I) và xuất nhập khẩu ròng (X-
M), do đó, việc tăng lãi suất ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư và giảm tiêu thụ cá nhân,
làm giảm tổng AD và tạo ra đường cong giảm dần. Các nhà Kinh tế học cổ điển và
Keynes khơng có sự bất đồng quan điểm nào về cách trình bày bằng đồ thị AD.

Hình 1. Đường cong AD
Mặt khác, theo Kinh tế học cổ điển, sản xuất trong nền kinh tế phụ thuộc vào
chất lượng công nghệ, vốn và lao động. Giả sử giá linh hoạt, lượng cầu sẽ bằng lượng
cung. Nhà kinh tế cổ điển nhấn mạnh Định luật Say, cho rằng cung tự tạo nhu cầu.
Việc sản xuất ra một mức sản lượng quốc dân nhất định đồng nghĩa với việc tạo ra
mức thu nhập (tiền lương, lợi nhuận ...) đúng bằng chi phí để sản xuất ra sản lượng đó.
Nếu thu nhập được đem ra chi tiêu, thì nó chỉ vừa đủ để mua sắm sản lượng đã sản
xuất ra. Ngược lại, Keynes cho rằng cầu tạo ra cung, giả định tính ổn định của giá cả
mà trong chuỗi sự kiện sẽ dẫn đến một mối quan hệ kinh tế sẽ làm cho sản lượng phụ

thuộc vào nhu cầu, được xác định bởi niềm tin của người tiêu dùng, doanh nghiệp về

7
lợi nhuận và chính sách tài chính. Đường cong Tổng cung dài hạn (LRAS), biểu thị
lượng hàng hóa và dịch vụ nền kinh tế sản xuất, gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế,
trong đó những người ủng hộ cổ điển kinh tế học thì cho rằng đường cong LRAS sẽ
theo chiều dọc trong về lâu dài như Hình 2.

Hình 2. Đường cong LRAS
Lý luận này cho rằng trong dài hạn, nền kinh tế sẽ đạt GDP tiềm năng và hoạt
động ở cơng suất đầy đủ. Dù giá có biến động, sản lượng khơng đổi vì vốn và lao
động ảnh hưởng chủ yếu. Do đó, hình 3 ngụ ý về lâu dài, những thay đổi của AD sẽ
quyết định giá (P1) trong nền kinh tế, nhưng sẽ không ảnh hưởng đến sản lượng (Y1),
tức là GDP thực tế.

Hình 3. Mơ hình AD/AS.

8
Do đó, mơ hình thể hiện rằng nếu Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở
rộng chính sách hoặc bơm thêm tiền vào nền kinh tế, điều này sẽ chỉ dẫn đến đến lạm
phát cao hơn mà không có tác động rịng lên sản lượng thực tế. Để thúc đẩy tăng
trưởng GDP, Chính phủ cần đầu tư vào công nghệ, thu hút doanh nghiệp, và nâng cao
chất lượng lao động thông qua giáo dục. Điều này giúp dịch chuyển đường sản lượng
thực sự (LRAS) sang phải, tăng GDP thực tế. Hình 4 trong mơ hình kinh tế cổ điển
cho thấy nếu nhu cầu tổng khơng tăng, có thể xuất hiện vấn đề giảm lạm phát.

Hình 4. LRAS dịch chuyển sang phải gây tăng trưởng kinh tế, theo sau là giảm phát.
Như đã đề cập ở trên, Keynes nhận thấy rằng trong hồn cảnh của cuộc Đại

chiến Suy thối, mơ hình cổ điển khơng hồn tồn có thể áp dụng được. Keynes tin

rằng các nhà kinh tế cổ điển đã đúng nhưng chỉ trong một số trường hợp, trong khi ở
những trường hợp khác tiền lương khá cứng nhắc ít linh hoạt hơn, đó là một giả định
dẫn đến việc xác định lại toàn bộ tổng thể đường cong cung.

2.4. Giá cả và giá trị
Khái niệm về giá cả biểu thị cho giá trị của một hàng hóa hoặc dịch vụ thơng
qua một đơn vị tiền tệ. Ngược lại, giá trị liên quan đến khả năng của sản phẩm đó đáp
ứng nhu cầu và mong muốn của con người. Dù giá cả và giá trị được coi là hai khái
niệm riêng biệt, nhưng chúng lại gắn liền với nhau. Trong cả Kinh tế học cổ điển và
quan điểm của Keynes, sự tương tác giữa giá cả và giá trị đóng vai trị quan trọng
trong quá trình xác định giá của một sản phẩm hoặc dịch vụ trên thị trường.

9

Lý thuyết kinh tế cổ điển khẳng định rằng giá sản phẩm phụ thuộc vào sự
tương tác giữa cung và cầu, giảm khi cung lớn hơn cầu và tăng khi cầu lớn hơn cung,
và giá cả được coi là phản ánh đúng giá trị thực tế của nó. Tuy nhiên, trong lĩnh vực
tài chính, giá trị tài sản được xác định bởi "nguyên tắc cơ bản" trong dài hạn, và để thị
trường hiệu quả, con người cần biết trước xác suất rủi ro, đặc biệt là "biết trước tương
lai". Nếu giá trị thị trường lệch khỏi giá trị thống kê giả định, đó được coi là "nhiễu
trắng". Sự tăng cường phân phối rủi ro được xem là cách tối ưu hóa hiệu suất và giảm
chi phí giao dịch theo lý thuyết cổ điển. Bên cạnh đó, họ cho rằng việc huy động nhiều
người mua và người bán sẽ đảm bảo tính thanh khoản cao cho mọi tài sản đang được
giao dịch. Như vậy, khi những người sở hữu tài sản muốn giảm số lượng tài sản, họ có
thể chuyển đổi chúng thành tiền mặt ở mức giá gần với giá trước đó trên thị trường.
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy nhiều thị trường tài chính trên đang phải đối mặt với
tình trạng "nhà đầu tư mắc kẹt" trong những đầu tư không thể chuyển đổi thành tiền
mặt.

Vấn đề nảy sinh khi thị trường quên lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes

và tập trung tuyệt đối vào lý thuyết thị trường hiệu quả cổ điển. Theo Keynes, tiền
không chỉ là phương tiện trao đổi mà cịn là nơi tích trữ giá trị. Trong thế giới khơng
chắc chắn này, vai trị cơ bản của thị trường tài chính là cung cấp khả năng thanh
khoản. Trong "Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ," Keynes giải thích
cơ sở của thuyết cân bằng cung-cầu thông qua việc điều chỉnh giá cả. Khi giá của một
sản phẩm đạt đến điểm mà cung và cầu gặp nhau, thị trường trở nên ổn định, khơng có
áp lực để thay đổi giá. Tuy nhiên, Keynes nhấn mạnh rằng điều chỉnh giá không phải
lúc nào cũng diễn ra nhanh chóng và linh hoạt. Sự chậm trễ trong phản ứng của người
mua và người bán có thể tạo ra sự chênh lệch giữa giá thực tế và giá cân bằng. Đồng
thời, giá cả không chỉ phụ thuộc vào cung và cầu, mà còn bị ảnh hưởng bởi những yếu
tố như kỳ vọng, tâm lý thị trường và chính sách kinh tế. Đặc biệt, ơng nhấn mạnh vai
trò của thanh khoản trong xác định giá trị, cho rằng khả năng chuyển đổi nhanh chóng
thành tiền mặt là quan trọng để giữ cho giá cả ổn định. Lập luận của Keynes cho rằng
tương lai là bất định, không thể áp dụng tiên đề biết trước tương lai - cơ sở của lý
thuyết thị trường hiệu quả - vào thị trường tài chính thực tế. Theo Keynes, để tồn tại
trong thế giới không chắc chắn, thị trường cần "người tạo lập thị trường" để đảm bảo

10

tính thanh khoản. Tuy nhiên, việc này chỉ khả thi khi có đặc quyền tiếp cận với Ngân
hàng Trung Ương (NHTW). Trong hồn cảnh khó khăn mà khơng có sự hỗ trợ từ
NHTW, người tạo lập thị trường khơng thể tăng tính thanh khoản của tài sản và có thể
tạm thời giảm đi. Những người nắm giữ tài sản có thể tin tưởng vào nỗ lực của người
tạo lập thị trường để khơi phục tính thanh khoản. Tuy nhiên, với sự thiếu vắng của
người tạo lập thị trường đáng tin cậy, có thể xuất hiện tình trạng thiếu thanh khoản,
khiến những tài sản có vẻ thanh khoản cao thực tế có thể mất tính thanh khoản. Điều
này nhấn mạnh rằng những người tham gia thị trường chứng khoán có thể tin rằng họ
đang giữ những loại tài sản có tính thanh khoản cao, nhưng sự thiếu vắng người tạo
lập thị trường đáng tin cậy chỉ ra rằng tính thanh khoản của những tài sản này có thể
dễ mất đi. Nếu nhà đầu tư học từ phân tích tính thanh khoản của Keynes thay vì mê

mải theo lý thuyết thị trường cổ điển, họ có thể tránh xa những thị trường mà tính
thanh khoản chỉ là một ảo tưởng phù du.

2.5. Tiền và lạm phát
Lạm phát, một hiện tượng kinh tế xảy ra khi giá của hầu hết hàng hóa và dịch
vụ mà người dân mua sắm trong nước tăng mạnh. Khi so sánh cách nhìn nhận về lạm
phát giữa Kinh tế học cổ điển, đặc biệt là quan điểm dựa vào tiền, và quan điểm của
Keynes, ta có thể thấy những sự chênh lệch trong cách giải thích hiện tượng này.
Trong Kinh tế học cổ điển, nhận định chức năng của tiền như một phương tiện
trao đổi, cho rằng sự gia tăng lượng tiền, hay "in tiền," trong nền kinh tế có thể dẫn
đến lạm phát, xem đó là một hiện tượng tiền tệ khơng phụ thuộc vào điều kiện kinh tế
cụ thể. Ban đầu, việc in tiền được xem như một cách để Chính phủ tăng chi tiêu, kích
thích kích cầu và tăng sản xuất trong khu vực tư nhân. Tuy nhiên, nhà Kinh tế học cổ
điển Milton Friedman mạnh mẽ khẳng định rằng tăng cung tiền thơng qua "in tiền" để
chi tiêu Chính phủ sẽ tạo ra lạm phát, lý thuyết này xuất phát từ tiên đề tiền tệ trung
tính. Các nhà kinh tế học này đơn giản giải thích rằng chi tiêu thâm hụt ngân sách
bằng cách in tiền sẽ dẫn đến "quá nhiều tiền đuổi theo q ít hàng hóa," gây ra lạm
phát. Mặc dù chưa chứng minh được điều này, nhưng họ nhất quán khẳng định rằng
lạm phát xảy ra khi cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng. Điều này cũng đã được giáo
sư Oliver Blanchard - trưởng kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế nhận xét: “Đây chủ
yếu là vấn đề niềm tin dựa trên lý thuyết hơn là bằng chứng dựa trên thực tế”. Do đó,

11

theo quan điểm của Kinh tế học cổ điển, kiểm sốt lạm phát địi hỏi việc quản lý mức
cung tiền; nếu giảm cung tiền, tỷ lệ lạm phát sẽ giảm theo.

Cịn đối với Keynes, lạm phát khơng chỉ xuất phát từ việc tăng cung tiền mà
cịn phụ thuộc vào tình trạng cung và cầu trong nền kinh tế. Ông nhấn mạnh rằng lý
thuyết cổ điển chỉ áp dụng khi nền kinh tế tồn dụng. Thay vì tập trung vào tiền,

Keynes chú trọng vào mối quan hệ giữa cung và cầu. Ông giải thích rằng khi cầu tăng,
làm tăng chi tiêu và giá cả, góp phần vào lạm phát. Ngược lại, khi cầu giảm, khiến
mọi người giữ lại tiền mà không chi tiêu, lạm phát có thể được kiểm sốt. Keynes cho
rằng nếu tiền tăng mà khơng có sự đáp ứng tăng về cầu, lạm phát có thể khơng xảy ra,
bác bỏ quan điểm cổ điển. Theo ông, tác động của tiền tệ đến hành vi và quyết định
của người dân là khơng thể dự đốn được, cả ngắn hạn và dài hạn, và cho rằng “tiền tệ
khơng hề trung tính”. Quan điểm của này cũng được chú trọng và ứng dụng phổ biến
trong việc giải thích lạm phát hiện đại. Trong cuốn sách "Luận thuyết về tiền tệ" (A
Treatise on Money) xuất bản năm 1930, Keynes đã chỉ ra hai loại lạm phát: lạm phát
hàng hóa và lạm phát thu nhập, có nguyên nhân khác nhau.

Lạm phát hàng hóa xảy ra khi giá thị trường của các hàng hóa hàng loạt lâu dài
như nơng sản, dầu thơ, khống sản tăng lên. Điều này có thể xảy ra khi cung hàng hóa
trong tương lai gần được giả định là cố định, và nếu cầu tăng đột biến, sẽ khơng có đủ
hàng để đáp ứng, từ đó dẫn đến việc kéo giá thị trường lên. Hiện tượng đầu cơ hàng
hóa, hoặc "vét thị trường" khiến nguồn cung giảm, dẫn đến việc bán lại kiếm lợi và
gây ra lạm phát hàng hóa. Để tránh được tình trạng này, Chính phủ cần phải duy trì
một lượng hàng dự trữ để làm “đệm giá”. Dự trữ hàng đệm giá là số hàng hóa được
lưu trữ trong kho, có thể được thêm vào hoặc loại bỏ khỏi thị trường, nhờ đó giá
khơng bị thay đổi mạnh trước mọi biến động cung và/hoặc cầu hàng hóa.

Lạm phát thu nhập liên quan đến mối quan hệ giữa lạm phát và việc tăng thu
nhập của những người cung cấp lao động. Khi chi phí lao động tăng, doanh nghiệp
phải tăng giá để duy trì kinh doanh và lợi nhuận. Khi giá bán hàng tăng đồng đều
trong nền kinh tế, chúng ta đối mặt với lạm phát thu nhập. Để kiểm soát lạm phát này,
Chính phủ cần giảm tốc độ tăng thu nhập bằng tiền cho những người sở hữu yếu tố
sản xuất. Nguyên nhân của lạm phát thu nhập là do việc Chính phủ theo đuổi lý thuyết
thị trường hiệu quả của trường phái Kinh tế học cổ điển, hứa hẹn về một nền kinh tế

12


tồn dụng, khi đó cơng nhân sẽ khơng phải sợ rằng việc đòi hỏi thu nhập cao của họ sẽ
dẫn đến mất việc làm. Giải pháp cổ điển lúc đó để giải quyết lạm phát thu nhập là phải
kiềm chế bớt nền kinh tế, thực hiện chính sách tiền tệ thông qua NHTW bằng cách
tăng lãi suất, hạn chế nhu cầu vay tiền và chi tiêu kinh tế tư nhân. Kết quả của chính
sách tiền tệ thắt chặt này là cơ hội kiếm lợi nhuận bị suy giảm và chủ doanh nghiệp
phải sa thải bớt công nhân. Họ sử dụng tỷ lệ lạm phát mục tiêu như một công cụ để
tạo áp lực, khiến doanh nghiệp và công nhân hiểu rằng tăng lương và giá cả có thể đặt
họ vào tình thế khó khăn về kinh tế. Chính sách này có thể được gọi là "chính sách thu
nhập sợ hãi". Thay vào đó, giáo sư Sidney Weintraub của Đại học Pennsylvania nhận
thấy rằng khái niệm về lạm phát thu nhập của Keynes có sự tương đồng với kiểu lạm
phát trước cú sốc giá dầu năm 1973, và đã phát triển một chính sách chống lạm phát
dựa trên ý tưởng Keynes, mang tên TIP, viết tắt của chính sách điều tiết thu nhập
thơng qua thuế. TIP địi hỏi sử dụng hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp để trừng
phạt các công ty lớn trong nước nếu họ tăng lương cao hơn tiêu chuẩn tăng năng suất
lao động quốc gia, hoặc thỏa hiệp với yêu cầu tăng lương dẫn đến lạm phát. Ông cũng
hy vọng rằng nếu mức tăng lương hạn chế theo mức tăng năng suất chung, công nhân
và chủ sở hữu các đầu vào sản xuất trong nước sẽ chấp nhận mức tăng thu nhập mà
không gây lạm phát. Để TIP hiệu quả, cần thiết lập một hệ thống thuế chính sách lâu
dài và có tính chế tài. Phạt bằng thuế có thể điều chỉnh theo điều kiện thực tế, nhưng
cần duy trì hình thức này để đảm bảo tn thủ. Bên cạnh đó, việc tránh tính chất khen
thưởng để tránh rắc rối hành chính, vì mọi người có thể địi hỏi thưởng. Weintraub đề
xuất nên thực hiện TIP như các quy định giới hạn tốc độ trên đường cao tốc. Nếu ai
vượt quá giới hạn tốc độ tối đa - giới hạn này ln có hiệu lực - thì người đó phải nộp
tiền phạt, nhưng Chính phủ không bao giờ thưởng cho những người không vượt quá
giới hạn tốc độ.

Trên thực tế, nhiều quốc gia vẫn không nỗ lực xây dựng TIP có tính chế tài lâu
dài, thay vào đó, chú trọng vào việc th nước ngồi gia cơng dưới khẩu hiệu thị
trường tự do để giảm áp lực tăng lương trong nước. Tuy vậy, Weintraub vẫn tin rằng

sức mạnh của trí tuệ con người có tác động tích cực hơn so với lực lượng (thị trường)
vô cảm, khuyến khích hành vi phù hợp với xã hội. Ơng ủng hộ chính sách hạn chế thu

13

nhập văn minh để kiểm soát lạm phát, khơng cần đến hiệu ứng phụ căng thẳng của
chính sách lạm phát theo lý thuyết cổ điển.

2.6. Thị trường tín dụng và lãi suất
Lãi suất, trong tầm nhìn Keynesian, là giá cả của việc mượn tiền. Nó được xác
định bởi sự cân bằng giữa cung và cầu tín dụng. Khi nhu cầu tín dụng lớn hơn cung,
lãi suất sẽ tăng lên. Ngược lại, khi cung tín dụng lớn hơn nhu cầu, lãi suất sẽ giảm
xuống. Với Keynes, lãi suất không tác động lên quyết định tiết kiệm hay đầu tư, hai
cái này phụ thuộc nhiều hơn vào kỳ vọng về tương lai không được biết. Ví dụ, khi các
cá nhân cảm thấy lo ngại về tương lai, họ sẽ giảm dòng tiền ra, từ đó tiết kiệm được
nhiều hơn so với thu nhập hiện tại; hay khi các cá nhân có sự chắc chắn hơn về tương
lai đặc biệt là những cam kết về các dòng tiền vào và ra theo hợp đồng, họ sẽ đưa ra
những quyết định có tính tư lợi . Lãi suất đơn giản là sự sẵn lòng của người dân trong
việc kết hợp giữ tiền với trái phiếu hay các tài sản có lãi khác, mong muốn giữ tiền (để
giao dịch, để dự phòng, để đầu cơ) được xem như “sở thích thanh khoản”. Khi tương
lai là khơng chắc chắn và khơng chỉ có rủi ro xác suất ngẫu nhiên thì để tồn tại được,
thị trường có tính thanh khoản có quy luật cần phải có “người tạo lập thị trường" để
đảm bảo với công chúng rằng người này sẽ bơi ngược lại đợt sóng lớn của lệnh bán.
Đứng trước sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ, một số người cho rằng Chính phủ nên
làm theo cách của Thụy Điển khi hệ thống ngân hàng nước này gặp khủng hoảng vào
những năm 1990 bằng cách giữ một phần tài sản dư thừa mà công chúng đang muốn
đẩy đi cho đến khi nền kinh tế thị trường hồi phục và cơng chúng sẵn sàng mua lại số
tài sản đó. Nếu mua lại các tài sản xấu bị mất đi tính thanh khoản, Chính phủ cũng
đang phục hồi chút ít thanh khoản cho cả hệ thống kinh tế. Và Keynes đã khẳng định,
hệ thống tư bản chủ nghĩa phải có tính thanh khoản mới hoạt động được. Bên cạnh

“Sở thích thanh khoản”, lãi suất theo Keynes còn phụ thuộc vào sự kì vọng của doanh
nghiệp và các chính sách của Chính phủ. Trong những trường hợp người dân có sở
thích thanh khoản cao, hoặc kỳ vọng của doanh nghiệp thấp, lãi suất có thể khơng đủ
để khuyến khích đầu tư và tạo ra việc làm. Trong những trường hợp này, Chính phủ
có thể cần phải sử dụng các chính sách tài khóa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại với Keynes, các nhà Kinh tế học cổ điển cho rằng lãi suất được quyết
định bởi cung và cầu cho vay: tiết kiệm đại diện cho cung vay và đầu tư đại diện cho

14

cầu vay. Tiết kiệm và đầu tư được coi là hai yếu tố quan trọng nhất quyết định tăng
trưởng kinh tế. Tiết kiệm là phần thu nhập của người dân khơng được chi tiêu, mà
được tích lũy lại dưới dạng tiền hoặc tài sản khác. Đầu tư là việc sử dụng các nguồn
lực tiết kiệm được để tạo ra các tài sản mới, chẳng hạn như nhà máy, thiết bị, hoặc
phát triển công nghệ mới. Theo các nhà Kinh tế học cổ điển, tiết kiệm và đầu tư ln
ln cân bằng với nhau. Điều này được giải thích bởi nguyên lý thị trường tự do (Khi
tiết kiệm tăng lên, lãi suất sẽ giảm xuống. Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư nhiều hơn, từ đó tạo ra nhiều việc làm và thu nhập hơn cho người dân. Khi thu
nhập tăng lên, người dân sẽ có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn nữa) Như vậy, nền kinh
tế sẽ tự động điều chỉnh để đạt được trạng thái cân bằng, trong đó tiết kiệm và đầu tư
ln ln cân bằng với nhau. Trong Kinh tế học cổ điển, thị trường tín dụng là một
mơi trường tự do, nơi mà những người cung cấp vốn và những người cần vay gặp
nhau để thương lượng về mức lãi suất. Cung vốn đến từ các nhà cung cấp vốn, cầu
vốn đến từ những người cần vay. Mối quan hệ giữa những người cung cấp và những
người cần vay cùng với lãi suất đóng vai trị quan trọng trong q trình xác định giá trị
và quy mô của giao dịch vay mượn, có ảnh hưởng đến nền kinh tế và hoạt động tài
chính tổng thể. Lãi suất được xác định bởi sự cân bằng giữa hai yếu tố này, là một yếu
tố quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái, lãi suất sẽ
giảm xuống để khuyến khích đầu tư và tạo ra việc làm. Ngược lại, khi nền kinh tế quá
nóng, lãi suất sẽ tăng lên để ngăn chặn lạm phát.


2.7. Thị trường lao động và vấn đề thất nghiệp
Các nhà Kinh tế học cổ điển cho rằng thất nghiệp tồn tại là thất nghiệp tự
nguyện, là dạng thất nghiệp khi thị trường lao động cân bằng. Tuy nhiên, đầu thập
niên 30, Đại suy thoái xuất hiện với tỷ lệ thất nghiệp cao nhất lên đến 25% và kéo dài
gần một thập niên đã làm cho niềm tin vào thị trường tiêu tan và phủ nhận vai trị tiên
đốn của Kinh tế học cổ điển. Khi suy thoái tiếp tục kéo dài, các nhà kinh tế cổ điển
vẫn khăng khăng cho rằng thị trường luôn đúng và đổ lỗi nguyên nhân thất nghiệp cao
là do các công ty độc quyền cố định giá, sự can thiệp của Chính phủ, nghiệp đoàn lao
động vào thị trường lao động làm cho tiền lương và giá cả không linh hoạt để điều
chỉnh về mức cân bằng. Tuy nhiên, rất khó có thể chấp nhận với cách giải thích đó.
Tóm lại, các nhà Kinh tế học cổ điển cho rằng thất nghiệp là do:

15

○ Nghiệp đoàn và người lao động từ chối chấp nhận mức tiền lương thấp
để đem lại việc làm

○ Chính phủ quy định tiền lương tối thiểu cao hơn tiền lương cân bằng
○ Các công ty độc quyền định giá sản phẩm cao hơn giá cạnh tranh
Các nhà Kinh tế học cổ điển cũng đề ra các giải pháp sau để giải quyết tình
trạng thất nghiệp:
○ Chấm dứt độc quyền
○ Loại bỏ nghiệp đoàn
○ Chấm dứt sự can thiệp vào tiền lương của Chính phủ
Về phía Keynes, ơng cự tuyệt đối với lập luận thất nghiệp và chính sách Kinh
tế học cổ điển. Keynes cho rằng lập luận của các nhà Kinh tế học cổ điển là không
đáng tin khi tỷ lệ thất nghiệp cao, người lao động vẫn kiên quyết không hạ thấp tiền
lương để đảm bảo lực lượng lao động đều có việc làm. Vào thời kỳ khủng hoảng, thất
nghiệp tăng mạnh hơn thời kỳ bùng nổ, do đó thái độ quyết liệt của cơng đồn và

người lao động về tiền lương gây ra thất nghiệp là không phù hợp.
Keynes cự tuyệt quan điểm thất nghiệp là do tiền lương và giá cả cứng nhắc
của các nhà kinh tế cổ điển và đưa ra một ý tưởng mới cho rằng thất nghiệp có liên
quan đến động cơ tiết kiệm và tính ưa thích thanh khoản (Lý thuyết ưa thích thanh
khoản: Người dân sẽ giữ tiết kiệm dưới dạng tiền mặt khi lãi suất gần bằng 0%).
Nếu hộ gia đình khơng chi tiêu hết dịng tiền (thu nhập họ kiếm được) thì họ có
một khoản tiền dư thừa để tiết kiệm. Giả sử các hộ gia đình tiết kiệm hồn tồn, khơng
hề chi tiêu thì cầu sản phẩm trên thị trường giảm. Các doanh nghiệp giữ tiền vì họ sợ
sẽ khơng có đủ cầu trên thị trường để tiêu thụ hàng, cho nên không cần phải đầu tư sản
xuất nhiều hàng hóa hơn, từ đó họ sẽ thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công, dẫn đến tỷ
lệ thất nghiệp tăng. Các doanh nghiệp trì hỗn đầu tư vì hộ gia đình trì hỗn tiêu dùng.
Nền kinh tế không phải là cái cân luôn trở về trạng thái cân bằng: nó giống như một
cái bong bóng bị thủng hơn và sẽ tiếp tục mất đi sức cầu cho đến khi có điều gì đó xảy
ra, vá lỗ thủng đó và đảo ngược tiến trình.
Khi tìm kiếm việc làm, người lao động sẽ so sánh hữu dụng biên dương và hữu
dụng biên âm:
○ Nếu hữu dụng biên dương lớn hơn hữu dụng biên âm, họ sẽ đi làm.

16

○ Nếu hữu dụng biên dương bé hơn hữu dụng biên âm họ sẽ quyết định
khơng đi làm (hay cịn gọi là thất nghiệp tự nguyện).

Bẫy thanh khoản
Tình trạng bẫy thanh khoản xảy ra khi ở một mức lãi suất nào đó rất thấp
nhưng vẫn dương, khiến cho mọi người quyết định giữ tài sản của mình dưới dạng
tiền mặt và khơng ai nắm giữ bất cứ một loại công cụ nợ nào trong danh mục đầu tư.
Do đó, theo các lý thuyết gia về bẫy thanh khoản, lãi suất không thể giảm thêm dẫn tới
chính sách tiền tệ cũng bất lực, khơng thể giúp tăng đầu tư để đưa nền kinh tế hướng
tới điểm đầy đủ việc làm. Nếu rơi vào trường hợp bẫy thanh khoản, tiết kiệm sẽ lớn

hơn đầu tư, dẫn đến các vấn đề như hàng hóa sẽ khơng bán hết được và các doanh
nghiệp sẽ thu hẹp sản xuất, sa thải bớt nhân cơng, do đó tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng.

2.8. Hoạt động sản xuất và tăng trưởng kinh tế
Hoạt động sản xuất
Lý thuyết kinh tế cổ điển cho rằng thương mại tự do và tỷ giá thả nổi tự do sẽ
mang lại thời kỳ thịnh vượng cho mọi người, điều này cho thấy sự từ chối mạnh mẽ
đến sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường. Với quy tắc này, các doanh nghiệp sẽ
ít có động lực theo đuổi cải tiến công nghệ để tăng năng suất lao động trong nước hơn
trước, mà sẽ lựa chọn th gia cơng giá rẻ ở nước ngồi. Mùa xn năm 2005, N.
Greg Mankiw cũng đã đứng lên bảo vệ hành vi “gia cơng ở nước ngồi” mang lại lợi
ích, cho rằng việc này dù làm mất việc làm lương cao cho cơng nhân Mỹ, nhưng vẫn
mang lại lợi ích cho cả nền kinh tế Mỹ và các quốc gia th gia cơng. Ơng tin rằng
thương mại tự do trong dài hạn sẽ tạo ra thu nhập và thịnh vượng cho mọi quốc gia.
Lập luận trên dựa theo cơ sở “lợi thế so sánh” - một quy luật kinh tế do nhà
kinh tế học David Ricardo đưa ra. Quy luật lợi thế so sánh nói rằng nếu tất cả các
quốc gia đều cho phép thương mại tự do thì sản xuất sẽ nhiều hơn khi mỗi nước tận
dụng hết nguồn lực của mình. Giả định này địi hỏi các quốc gia chun mơn hóa, chỉ
sản xuất ngành mà họ có “lợi thế so sánh”, sau đó xuất khẩu sản phẩm của ngành đó
và nhập về sản phẩm mang lợi thế so sánh của nước khác. Đối với Ricardo, lợi thế so
sánh của mỗi quốc gia liên quan đến điều kiện đặc thù như tài ngun và khí hậu, từ
đó có sự khác biệt rõ ràng. Đối với các ngành công nghiệp sản xuất hàng loạt, khác
biệt chi phí sản xuất ít phản ánh vì mọi quốc gia đều sử dụng cơng nghệ tương đương.

17

Quan điểm trên để bị Keynes phản đối mạnh mẽ, ông từng đối đáp tuyên bố
của Mankiw: "Trong dài hạn, tất cả chúng ta đều sẽ chết". Các bằng chứng lịch sử cho
thấy sự ủng hộ rõ ràng quan điểm của Keynes thay vì lời tuyên bố theo trường phái cổ
điển của Mankiw.


Hiện nay, xu hướng chuyển giao công nghệ đa quốc gia làm cho khác biệt chi
phí sản xuất phản ánh ở mức lương và chi phí phúc lợi lao động giữa các quốc gia.
Đối mặt với vấn đề này, giải pháp của Keynes là hạn chế nhập khẩu sản phẩm từ
những nhà máy thực hiện hành vi "gia công ở nước ngồi" với hình thức bóc lột lao
động. Ơng đề xuất chỉ cho phép nhập khẩu sản phẩm đã được Chính phủ kiểm định
theo Đạo luật An tồn thực phẩm và các quy định bảo vệ người tiêu dùng.

Hơn nữa, Keynes chỉ ra rằng quy luật lợi thế so sánh đặt ra ít nhất hai giả định
không thực tế. Thứ nhất, giả định cổ điển rằng không hề thiếu cầu đối với lượng sản
phẩm tăng thêm khi các quốc gia chuyên môn hóa sản xuất là khơng thực tế. Điều này
dựa trên một giả thiết khác là trạng thái đầy đủ việc làm và sử dụng hết công suất lao
động sẽ tự động xảy ra ở tất cả các nền kinh tế của một thế giới có thương mại tự do
và thị trường tự do cả trong nước và quốc tế. Lịch sử các nền kinh tế tư bản trong 250
năm qua cho thấy các nước rất ít khi đạt được trạng thái đầy đủ việc làm và không ghi
nhận trạng thái đó được duy trì. Thứ hai, phân tích lợi thế so sánh giả định rằng quy
luật này chỉ đúng nếu lao động và vốn không thể di chuyển qua biên giới, điều này
không thực tế trong môi trường thương mại tự do. Thực tế cũng cho thấy các công ty
đa quốc gia có thể chuyển giao cơng nghệ từ nước này sang nước khác, Keynes đã
viết: "Hầu hết các nước đều có khả năng chuyển giao cơng nghệ giữa các quốc gia,
khiến vốn ln tìm đến nơi có chi phí lao động thấp nhất. Nói cách khác, nếu cầu thị
trường sau thương mại tự do không đảm bảo việc làm đầy đủ, xu hướng sản xuất và
thương mại quốc tế sẽ dựa trên lợi thế chi phí tuyệt đối, khơng phải lợi thế so sánh.

Dĩ nhiên, những người ủng hộ lý thuyết lợi thế so sánh, như Mankiw chẳng
hạn, vẫn tin rằng trong "dài hạn", th gia cơng nước ngồi là "tốt cho nền kinh tế",
nhưng không xem thất nghiệp là vấn đề quan trọng. Thực tế bác bỏ quan điểm này khi
những việc làm lương cao không xuất hiện như "phép màu", và cơng nhân thất nghiệp
thường khơng có đủ kỹ năng và bị cho việc làm lương thấp. Kêu gọi nâng cao trình độ
học vấn khơng cải thiện vấn đề khi những vấn đề xã hội và môi trường tại các nhà



×