Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tài liệu môn đổi mới quan hệ kinh tế và quan hệ chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.47 KB, 27 trang )

Câu 1. Quan điểm của CN Mác Lê - nin về MQH giữa KT và CT

- Khái niệm kinh tế

Trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, kinh tế được
hiểu là nền kinh tế quốc dân với đầy đủ nội dung của nó trong mỗi một chế độ
xã hội nhất định. Đồng thời, kinh tế cịn là lợi ích kinh tế của các giai cấp, tập
đồn và các nhóm xã hội cũng như hiệu quả kinh tế,. Nói tóm lại, kinh tế là tồn
bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội, là nguồn gốc của
mọi biến đổi xã hội và những đảo lộn chính trị.

- Khái niệm chính trị

Chính trị là tồn bộ những hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa
các giai cấp, dân tộc, quốc gia, các lực lượng xã hội xoay quanh vấn đề giành,
giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà cơ bản nhất là quyền lực nhà nước.

* Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giữa kinh tế và
chính trị

C.Mác và Ph.Ăngghen coi quan hệ giữa kinh tế và chính trị là biểu hiện
tập trung nhất của quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Trong
đó, cơ sở hạ tầng - kinh tế giữ vai trò quyết định, đồng thời, kiến trúc thượng
tầng - chính trị cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại cơ sở hạ tầng.

V.I.Lênin đã khái quát bản chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị như
sau: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kính tế” ; “Chính trị tức là kinh tế
được cơ đọng lại”. Sự khẳng định này có nghĩa, chính trị ra đời từ kinh tế, do
kinh tế quyết định; chính trị là sự phản ánh, là tính thứ hai so với kinh tế. Chính
trị phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế, khơng được thốt ly những đặc trưng
và những nhiệm vụ kinh tế của xã hội. Khi cơ sở kinh tế biến đổi, chính trị phải


biến đổi theo để phản ánh đúng cơ sở kinh tế, phù hợp với kinh tế nhằm tạo
được môi trường tốt nhất cho kinh tế phát triển theo đúng quy luật khách quan.

Đồng thời, với việc thừa nhận tính thứ nhất của kinh tế đối với chính trị,
V.I.Lênin cũng cho rằng: “Chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so
với kinh tế”. Khẳng định đó của V.I.Lênin đã nhấn mạnh tính độc lập tương đối,
vai trị tác động trở lại rất tích cực của chính trị đối với kinh tế. Sự tác động của
chính trị đối với kinh tế thông qua sức mạnh của hệ thống chính trị, đặc biệt là
của nhà nước được thể hiện ở chỗ: đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, phù
hợp với cơ sở kinh tế của xã hội hiện tại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế
phát triển. Ngược lại, nếu chính trị sai lầm, trì trệ, không khoa học, không phù
hợp với thực trạng kinh tế sẽ là lực lượng kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm
chí đẩy kinh tế vào khủng hoảng, và hậu quả đi kèm tất yếu là mất ổn định chính
trị - xã hội.

Qua nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của CMác và Ph.Ăngghen và
V.I.Lênin có thể hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị như sau:

- Kinh tế là nhân tố suy cho cùng quyết định chính trị.

Chính trị là một trong những hình thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là
hình thức biểu hiện tập trung nhất, cơ đọng nhất. Nội dung quyết định hình thức,
do đó kinh tế, suy cho cùng là nhân tố quyết định chính trị. Tính quyết định của
kinh tế đối với chính trị thể hiện ở chỗ:

Tương ứng với một trình phát triển nhất định về kinh tế là một trình độ
phát triển nhất định về chính trị.

Cơ sở kinh tế như thế nào thì thể chế chính trị tương ứng như thế ấy.


Kinh tế phát triển tạo cơ sở cho chính trị ổn định. Ngược lại, kinh tế
khủng hoảng, suy thối, chính trị cũng sẽ ảnh hưởng, thậm chí có thể bị khủng
hoảng theo.

Nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi về xã hội, đảo lộn về chính trị xuất
phát từ nguyên nhân kinh tế.

Đồng thời, chính trị khơng ngồi mục đích hướng vào sự phát triển của
kinh tế. Kinh tế là gốc của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị.

- Chính trị có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với kinh tế.

Trong tất cả sự tác động trở lại của các nhân tố xã hội khác đối với kinh tế
thì sự tác động trở lại của chính trị giữ vị trí quan trọng hàng đầu, thể hiện cụ
thể là:

+ Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiên đề, điều kiện tiên quyết cho
những biến đổi về chất và sự phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này là một
thực tế hiển nhiên qua các cuộc cách mạng xã đã diễn ra.

+ Với tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại kinh tế theo nhiều
hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm.

Tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế
có thể có ba loại: có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế; có thể cản trở
sự phát triển kinh tế hoặc thúc đẩy sự phát triển ở chiều hướng khác.

+ Chính trị đóng vai trị định hướng và tạo mơi trường chính trị - xã hội
ổn định bảo đảm cho sự phát triển kinh tế.


Sự định hướng chính trị cho sự phát triển kinh tế thể hiện ở việc xây dựng
đường lối phát triển kinh tế, quản lý quá trình phát triển kinh tế… Hiện nay,
trong điều kiện tồn cầu hóa đời sống kinh tế, sự ổn định chính trị là điều kiện
thuận lợi cho mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển kinh tế.

+ Chính trị khơng chỉ lãnh đạo kinh tế mà cịn tham gia kiểm soát chặt
chẽ các vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế như: ngân sách, vốn, hoạt động tài
chính, tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại, v.v..

- Trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan
hệ cơ bản nhất, đồng thời cũng nhạy cảm, phức tạp nhất. Việc giải quyết mối
quan hệ này cần phải tránh cả hai thái cực: tuyệt đối hóa kinh tế hoặc tuyệt đối
hóa chính trị. Nếu theo khuynh hướng thứ nhất, nền kinh tế phát triển một cách

1

tự phát, vơ chính phủ. Nếu theo khuynh hướng thứ hai, nền kinh tế sẽ phát triển
theo hướng áp đặt, không theo quy luật khách quan.

Câu 2. Quá trình hình thành và phát triển đường lối, phát triển kinh tế
của ĐCS VN

Bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta có nền kinh tế tập trung, quan liêu bao
cấp, quản lý thông qua các mệnh lệnh hành chính là chủ yếu. Cùng với cơ chế
kế hoạch hóa, quan hệ hàng hóa - tiền tệ và hiệu quả kinh tế không được chú
trọng. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, cán bộ thiếu năng
động, không thạo kinh doanh, v.v..

Vào cuối những năm 1970, Đảng ta đã xác định rõ rằng, mơ hình kinh tế

kế hoạch hóa tập trung phù hợp với hoàn cảnh thời chiến, nhưng đang bộc lộ rõ
những hạn chế, làm cho đời sống kinh tế - xã hội của đất nước lâm vào khủng
hoảng. Vì vậy, Đảng đã tổ chức nghiên cứu, thử nghiệm để đổi mới hệ thống
kinh tế theo hướng thị trường.

Để hình thành đường lối đổi mới toàn diện, Đảng ta đã trải qua ba bước
đột phá trong tư duy.

- Bước đột phá đầu tiên là Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 8 -
1979) - mốc khởi đầu công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta. Với quan điểm
“bỏ ngăn sông cấm chợ”, “làm cho sản xuất bung ra”, chúng ta đã phá bỏ những
cản trở để cho lực lượng sản xuất phát triển; khuyến khích phát triển sản xuất,
lưu thơng hàng hóa. Trong lĩnh vực nơng nghiệp, tháng 1/1981, Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100 về cải tiến công tác khốn, mở rộng “khốn sản
phẩm đến nhóm lao động và người lao động”, khuyến khích lợi ích thiết thân
của người lao động, làm cho người nông dân thực sự gắn bó với sản phẩm cuối
cùng, do đó làm chó người lao động đem hết nhiệt tình, khả năng ra để sản xuất.

Trong lĩnh vực cơng nghiệp, tháng 1-1981, Hội đồng Chính phủ ban hành
Quyết định số 25-CP về một số chủ trương và biện pháp phát huy quyền chủ
động sản xuất - kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc
doanh.

- Bước đột phá thứ hai là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa V
(tháng 6-1985) với quyết định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang cơ chế hạch tốn kinh doanh.
Đây là bước mở đầu hình thành tư duy về sản xuất hàng hóa, thừa nhận những
quy luật của sản xuất hàng hóa.

- Bước đột phá thứ ba là kết luận của Hơi nghị Bộ Chính trị khóa V

(tháng 8-1986) với các nội dung:

1) Bố trí lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, lấy nông nghiệp làm mặt trận
hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển
có chọn lọc;

2) Thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta;

2

3) Trong cơ chế quản lý kinh tế thừa nhận lấy kế hoạch làm trung tâm
nhưng phải sử dụng đúng quan hệ tiền tệ - hàng hóa.

Đây là sự phát triển vượt bậc về tưu duy lý luận của Đảng ta, gắn đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị.

Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng đề ra đường lối đổi mới tồn diện đất
nước. Trước hết, đó là nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng sức sản xuất;
xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.

Văn kiện Đại hội VI khẳng định: Quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ đi lên
sản xuất lớn ở nước ta là q trình chuyển hóa nền kinh tế cịn nhiều tính chất tự
cấp, tự túc, thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; kiên quyết xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo
phương thức hạch tốn kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta còn nhấn mạnh sự cần thiết phải kết hợp hài hịa lợi ích của
người lao động với lợi ích của tồn xã hội, coi đó là đơng lực thúc đẩy phát triển

kinh tế; thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; bảo đảm
sự thống nhất, hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, thực hiện
công bằng xã hội.

Như vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mà Đảng ta
đề ra là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của dất nước và đặc điểm của thời
đại. Có thể nói, Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu bước ngoặt cơ bản, toàn diện
và sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng đất nước, tạo ra bước đột phá lớn, đem lại
nguồn sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước vượt
qua khủng hoảng, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

- Đến năm 1989, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã có bước
chuyển căn bản về nhận thức khi thừa nhận cơ chế quản lý mới là “cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hôi chủ nghĩa”. Lần đầu tiên
Đảng ta chỉ ra rằng, kinh tế quốc doanh cần trở thành lực lượng đủ sức chi phối
thị trường, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề, khu
vực. Thị trường xã hội là một thể thống nhất với nhiều lực lượng khác nhau
tham gia lưu thơng hàng hóa. Thị trường thơng suốt trong cả nước và gắn với thị
trường thế giới.

- Đại hội VII (năm 1991) đã đề ra nhiệm vụ phải tiếp tục xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới kinh tế trên các mặt: sắp xếp và
củng cố các đơn vị kinh tế, từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị
trường, đổi mới và hồn thiện các cơng cụ quản lý vĩ mơ trọng yếu và cải tiến
công tác điều hành của Nhà nước. Tiến thêm một bước về nhận thức lý luận.
Đảng ta xác định: Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.

Tại Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta đã xác định mục tiêu đẩy mạnh

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp vào năm 2020. Từ nhận định “sản xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ

3

nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng”, Đảng chủ trương: “… phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thời điểm này, nghị quyết của Đảng mới
nói đến nền “kinh tế hàng hóa”, “cơ chế thị trường”, mà chưa sử dụng khái niệm
“kinh tế thị trường”.

Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội đã khẳng định chủ trương xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ
hình kinh tế tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong
thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội.

Nghị quyết Đại hội chỉ rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa gắn với sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách; sử dụng cơ chế thị
trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị
trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực,
hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích cho tồn
thể nhân dân.

Đại hội X (năm 2006) của Đảng tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức; nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý kinh tế

của Nhà nước theo hướng quản lý bằng pháp luật, hạn chế tối thiểu can thiệp
hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Đồng thời, Đảng chủ
trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.

Như vậy, cùng với quá trình đổi mới, hệ thống quan điểm, lý luận về đổi
mới kinh tế, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được hình
thành và ngày càng sáng tỏ hơn. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là mô hình kinh tế phù hợp với đặc điểm của đất nước. Đây là vấn đề mang tính
chiến lược để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Câu 3. MQH giữa xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN với xây dựng và hoàn thiện thể chế CT XHCN

Thực chất của mối quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là quan hệ
giữa đổi mới kinh tế với đổi mới nền chính trị (mà cơ bản là hệ thống chính trị)
hướng tới tạo lập một thể chế kinh tế - chính trị bảo đảm cho sự phát triển kinh
tế, mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Việc xác định các mối quan hệ trên phản ánh tập trung bản chất, nội dung
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta là dựa vào các
căn cứ sau:

4

Thứ nhất, các mối quan hệ phản ánh tập trung nhất, khái quát nhất, bản
chất nhất mối quan hệ giữa về kinh tế và chính trị.


Thứ hai, là những mối quan hệ phản ánh đúng mâu thuẫn, bản chất của
quá trình đổi mới và phát triển, trước hết là phát triển kinh tế.

Thứ ba, các mối quan hệ này phản ánh đặc trưng chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vừa phù hợp với quy luật, xu thế của
thời đại, vừa phù hợp với trình độ phát triển và bản sắc Việt Nam.

Thứ tư, các mối quan hệ này phản ánh những mối quan hệ cơ bản của đời
sống xã hội, trong đó tập trung ở kinh tế và chính trị.

* Mối quan hệ giữa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị
dân chủ xã hội chủ nghĩa

Quan hệ chủ yếu, phản ánh tập trung nhất mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị là mối quan hệ giữa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hồn thiện thể chế
chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm giải quyết đúng đắn quan hệ giữa
quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế.

- Khái niệm thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Mặc dù có những sự khác biệt nhất định, song nhìn chung các định nghĩa
về thể chế cho đến nay vẫn thống nhất ở một số điểm quan trọng nhất, đó là: 1)
Các bộ quy tắc, hay các “luật chơi” (pháp luật, các quy tắc của xã hội, của một
cộng đồng….); 2) Các chủ thể tham gia “trò chơi”, hay “người chơi” (cơ quan
quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp,
cộng đồng….); 3) Cơ chế thực thi quy tắc, hay là các “cách chơi” (các chính
sách , cơ chế hỗ trợ…).


Thể chế kinh tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thể chế xã hội, tồn
tại song trùng với các bộ phận khác như thể chế chính trị, thể chế gia đình, thể
chế giáo dục, thể chế tơn giáo, v.v.. Đó là một hệ thống bao gồm: 1) Các quy
định của Nhà nước về kinh tế; các quy tắc về kinh tế được Nhà nước công nhận;
2) Hệ thống các chủ thể thực hiện các hoạt động kinh tế; và 3) các cơ chế,
phương pháp, thủ tục thực hiện các quy định và vận hành bộ máy đó.

Thể chế kinh tế thị trường là: 1) các luật chơi và các quy tắc về hành vi
kinh tế diễn ra trên thị trường; 2) chính bản thân các bên tham gia thị trường với
tư cách là các chủ thể thị trường; 3) cách thức tổ chức thực hiện các luật chơi
đó, nhằm đạt được mục tiêu, hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong
muốn.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là hệ thống “các thiết kế,
công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạp lập và sử
dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

- Thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa

5

Phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có
thể quan niệm thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy
tắc, quy định pháp luật, luật lệ với tư cách là những chuẩn mực điều chỉnh hành
vi của các chủ thể chính trị, các tổ chức chính trị, các cơ quan quản lý nhà nước
và cơ chế vận hành, điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực chính trị hướng tới
thiết lập và phát triển nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ
quyền lực về nhan dân.


- Xét về bản chất của mối quan hệ, thể chế chính trị phải được tổ chức và
vận hành theo cơ chế kinh tế, song thể chế chính trị có vai trị định hướng chính
trị, tạo mơi trường và động lực cho phát triển kinh tế. Mặt khác, thể chế chính trị
phải có khả năng vượt trước các quan hệ kinh tế, tạo khn khổ chính trị thơng
thống cho các quan hệ kinh tế phát triển và luôn giành thế chủ động trong vai
trị tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế, bảo đảm định hướng chính trị
của nền kinh tế.

- Giải quyết mối quan hệ này ở Việt Nam:

Vị trí mối quan hệ: Trong tổng hòa các mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị thì đổi mới quan hệ giữa thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là nội
dung cốt lõi nhất. Đổi mới thể chế kinh tế tạo ra môi trường và động lực phát
triển kinh tế, củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị. Đến lượt nó, đổi mới
chính trị, nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới thể chế nhà
nước và luật pháp lại tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế.

Thực tiễn ở Việt Nam qua những năm đổi mới: Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện phù hợp với những
nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, từ đó làm cho nền kinh tế phát triển
nhanh, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết quả đó tạo điều kiện
cho việc hồn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng
tạo điều kiện cho việc hiện thực mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Như
vậy, trên cơ sở thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế
chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện, một thể chế kinh tế -
chính trị mới ra đời tạo điều kiện cho kinh tế nước ta phát triển, dân chủ được
mở rộn và phát huy, xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh.


Quan điểm về tiếp tục đổi mới: Sự phát triển mạnh mẽ, năng động của
kinh tế thị trường đòi hỏi thể chế chính trị phải thường xun đổi mới, hồn
thiện, bảo đảm cho thể chể chính trị khơng những phù hợp với các bước phát
triển của kinh tế, mà còn phải ở thế chủ động trong các quan hệ kinh tế, có khả
năng lãnh đạo, điều hành kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực điều hành của Nhà
nước trong kinh tế là điều kiện tiên quyết để thể chế chính trị đóng vai trị là
nhân tố tác động tích cực đến kinh tế.

6

Câu 4. MQH giữa đổi mới thể chế KTT định hướng XHCN với nâng
cao vai trò lãnh đạo của Đảng.

Ngày 3/6, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về hồn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng CNXH.

- Qua hơn 30 năm đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung
ương 6 khố X, Đảng ta ln quan tâm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
rút ra các bài học kinh nghiệm, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển, góp
phần quan trọng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc
gia có thu nhập trung bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an
sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ mơi trường
sinh thái, củng cố quốc phịng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập
quốc tế.

- Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình

thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với
luật pháp quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội
nhập quốc tế. Chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp
phát triển đa dạng. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế hoá tương đối
đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi
mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy
mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được
coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh; thu hút vốn đầu tư nước
ngồi đạt được kết quả tích cực.

- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ
hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Hầu hết các loại giá hàng hoá,
dịch vụ được xác lập theo cơ chế thị trường. Môi trường đầu tư, kinh doanh
được cải thiện và thơng thống hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình
đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm hơn.

- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng
về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường
toàn cầu. Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế
thị trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân tham gia và
nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Phương thức lãnh đạo của
Đảng, hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu
cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.

Tuy nhiên, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính
sách cịn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất qn; cịn có biểu hiện lợi


7

ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực phát triển.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế. Cơ chế kiểm sốt
quyền lực, phân cơng, phân cấp cịn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước chưa đáp
ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu lực,
hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Hội nhập kinh tế quốc tế
đạt hiệu quả chưa cao, thiếu chủ động trong phòng ngừa và xử lý tranh chấp
thương mại quốc tế.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ
quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, đặc biệt là do: Nhận thức về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp
còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất
cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc quán triệt,
tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và
chưa nghiêm. Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ quan trong
hệ thống chính trị chậm đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường trong điều kiện hội nhập quốc tế. Sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.

Quan điểm chỉ đạo


Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để
phát triển nhanh và bền vững; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai
đoạn. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế.
Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã
hội, phát triển văn hố, bảo vệ mơi trường, bảo đảm quốc phịng, an ninh.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là q
trình phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị
trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta;
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc
lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Hồn thiện thể chế kinh tế đi đơi với hồn thiện thể chế chính trị mà trọng
tâm là đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy và
cán bộ. Có bước đi phù hợp, vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm
để tiếp tục hoàn thiện. Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trị, chức năng

8

và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị
trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò
lãnh đạo của Đảng.


Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị. Đổi
mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả
quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của tồn
xã hội trong q trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

- Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và vận hành đồng bộ,
thông suốt nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần huy
động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế -
xã hội phát triển nhanh và bền vững vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh".

Mục tiêu cụ thể đến năm 2020

Phấn đấu hoàn thiện một bước đồng bộ hơn hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các chuẩn mực phổ biến của nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Cơ bản bảo đảm tính đồng bộ giữa
thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; sự hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã
hội bền vững. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ.

Mục tiêu đến năm 2030


Hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

* Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế
kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội

- Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế -
xã hội của Đảng. Tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế
- xã hội. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận và xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng về kinh tế - xã hội. Đổi mới,
kiện toàn tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng, đáp ứng yêu cầu
lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống
chính trị.

9

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong
Đảng và trong xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Đổi mới phương thức đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí
cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong
các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh đẩy lùi tham nhũng,
suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu.


- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết; kịp thời phát
hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề lớn, quan trọng, phức tạp về kinh tế -
xã hội của đất nước.

Nâng cao năng lực xây dựng và thực hiện thể chế của Nhà nước

- Nhà nước tập trung thể chế hoá nghị quyết của Đảng, xây dựng và tổ
chức thực hiện pháp luật; tăng cường sự phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa
cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp; bảo đảm ổn định kinh
tế vĩ mô; khắc phục mặt trái của thị trường; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải
thiện mơi trường đầu tư, kinh doanh.

- Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế; thực hiện đúng đắn
và đầy đủ chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Điều hành nền
kinh tế khơng chỉ bảo đảm mục tiêu ngắn hạn mà cịn hướng tới thực hiện các
mục tiêu trung và dài hạn. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo, nhất là dự báo
chiến lược. Đổi mới căn bản và toàn diện công tác xây dựng và thực hiện các
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư cơng và tài chính cơng
thực sự theo cơ chế thị trường, khắc phục tình trạng "xin - cho", chủ quan, duy ý
chí. Đổi mới cơng tác thống kê phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Nâng cao hiệu
lực, hiệu quả cơng tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm tốn và thực thi pháp
luật.

- Nghiên cứu, rà soát, đổi mới việc xây dựng, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật. Nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính
minh bạch, tính nhất qn, ổn định và dự đốn được của pháp luật.

- Rà soát, cơ cấu lại bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu
quả. Hoàn thiện thể chế về chính quyền địa phương và quan hệ giữa Chính phủ

với chính quyền địa phương. Đổi mới tiêu chí và cách thức đánh giá kết quả
hoạt động của chính quyền các cấp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện quy định về phân cấp; bổ sung quy định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Trung ương và địa phương về phát triển
kinh tế - xã hội.

- Đẩy mạnh cải cách tư pháp. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của
các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, trọng tâm là
các hoạt động hoà giải, trọng tài thương mại và toà án nhân dân các cấp, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Xử lý nghiêm minh các
vi phạm pháp luật về kinh tế. Tăng cường tính độc lập của hệ thống tư pháp các

10

cấp trong xét xử, thi hành án dân sự, kinh tế. Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh.

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp

- Thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền
công dân, quyền và nghĩa vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp. Bảo đảm mọi người đều được bình đẳng
trong tiếp cận các cơ hội và điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ
quá trình phát triển.

- Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Mở rộng thu thập ý kiến đánh giá từ
doanh nghiệp và người dân đối với quá trình triển khai thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.


- Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia
vào các chương trình, dự án hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ, thúc đẩy các
hình thức liên kết doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thâm
nhập, phát triển thị trường.

(Thêm)- Một số nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện

Giai đoạn từ nay đến năm 2020, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
một số nhiệm vụ quan trọng sau:

- Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo
động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng
xã hội, quốc phòng, an ninh.

- Hồn thiện thể chế về cải thiện mơi trường đầu tư, kinh doanh; có chính
sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát
triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Xây
dựng thể chế làm căn cứ xử lý dứt điểm, hiệu quả các tồn tại, yếu kém đã tích tụ
trong nền kinh tế nhiều năm qua, đặc biệt là việc xử lý các tập đồn kinh tế,
tổng cơng ty nhà nước, các dự án, cơng trình đầu tư cơng khơng hiệu quả, thua
lỗ kéo dài; cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém gắn với xử lý nợ xấu.

- Hoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, giáo
dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh
thủ những cơ hội và thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi
mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.


- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự
phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực, hiệu quả thể chế hoá đường lối,
chủ trương của Đảng và tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước.

- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hồn thiện thể chế kiểm sốt
quyền lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực,

11

phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của tồn hệ thống chính trị.

Câu 5. MQH giữa phát triển KTTT định hướng XHCN với xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN

- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh
tế vừa tuân theo nững quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trân cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nói
cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp; Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp,
pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong
đời sống xã hội; Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự
giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể nhân dân.

- Xã hội dân sự là tổng thể các quan hệ và mạng lưới tổ chức xã hội được
hình thành và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, tự trang trải về kinh phí, trong khuôn khổ pháp luật; phối hợp với
nhà nước để kiểm sốt và hồn thiện Nhà nước pháp quyền, thúc đẩy phát triển
kinh tế, từng bước hoàn thiện và phát huy xã hội dân chủ nhằm duy trì, bảo đảm
sự ổn định, cân bằng và phát triển bền vững của nhà nước và của xã hội, hiện
thực hóa quyền lợi của mỗi cá nhân và cộng đồng.

- Thực chất của mối quan hệ giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
xây dựng và phát triển xã hội dân sự là quan hệ giữa ba lĩnh vực cơ bản của đời
sống xã hội hướng tới một xã hội dân chủ, phát triển bền vững, hài hòa trên các
mặt: kinh tế - chính trị - xã hội.

Mối quan hệ này lại được thể hiện trên ba mối quan hệ cụ thể:

- Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

Kinh tế thị trường ra đời và phát triển đã giải phóng và phát huy mạnh mẽ
sức sản xuất xã hội cho phát triển kinh tế. Song, bản thân kinh tế thị trường
không thể khắc phục được những khuyết tật cố hữu của nó: khủng hoảng chu
kỳ, tàn phá mơi trường, phân tầng và phân hóa xã hội, băng hoại những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp… Bởi thế, để khắc phục những mặt trái của kinh tế
thị trường, để hướng sự phát triển kinh tế tới bền vững và hiệu quả, vai trị của
“bàn tay hữu hình” - Nhà nước pháp quyền, tất yếu phải được đề cao và phát

12


huy. Như vậy, nhà nước pháp quyền ra đời chính là sự bảo đảm cho những điều
kiện để phát triển kinh tế thị trường. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền ra
đời là sự bảo đảm về pháp lý cho kinh tế thị trường phát triển.

- Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với xây dựng và hoàn
thiện xã hội dân sự:

Với sự “can thiệp” vào nền kinh tế, Nhà nước pháp quyền có vai trị rất
lớn trong việc khắc phục những vấn nạn xã hội nảy sinh từ kinh tế thị trường và
những vấn đề kinh tế của chính nền kinh tế thị trường. Song, như phát triển
kinh tế thị trường luôn tạo ra những mặt tích cực và mặt tiêu cực. Để có thể
ngăn ngừa và khắc phục triệt để những mặt trái cả kinh tế thị trường và những
hạn chế của Nhà nước tất yếu phải phát triển xã hội dân sự.

Với chức năng giám sát và phản biện xã hội, chức năng bù đắp những
thiếu hụt mà bản thân nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền khơng có
khả năng thực hiện, xã hội dân sự bổ sung “sức mạnh” trong quản lý, điều hành
xã hội, đồng thời phát huy mạnh mẽ các nguồn lực cho sự phát triển xã hội.
Phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” là thể hiện sức mạnh cộng
năng của xã hội dân sự và Nhà nước trong phát triển bền vững.

Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng xã hội dân sự định hướng xã hội
chủ nghĩa với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
hướng bền vững là một nôi dung của quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam. Để thể chế kinh tế thị trường thực sự có vai trị định
hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải phát huy tinh thần, truyền thống yêu nước của
nhân dân trong xây dựng kinh tế thị trường; coi trọng vai trò và trách nhiệm cá
nhân trong phát triển kinh tế thị trường; có chính sách phát huy mọi tiềm năng
trí tuệ của các tầng lớp nhân dân.


- Mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ với xã hội dân sự
định hướng xã hội chủ nghĩa:

Nhà nước pháp quyền chỉ thực sự được thừa nhận trên thực tế khi có xã
hội dân sự. Xã hội dân sự vừa với tính cách là mặt đối lập của Nhà nước pháp
quyền trong một thể thống nhất của xã hội dân chủ, vừa với tính cách là thể chế
bổ sung cho sự hồn thiện của Nhà nước pháp quyền. Bởi vậy, trình độ phát
triển của xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa phản ánh mức độ hoàn
thiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân.

Chăm lo tới việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước quan tâm tới việc kiện toàn và phát huy vai trò
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời với việc xây dựng và phát
triển xã hội dân sự, cơ sở và động lực cho việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị.

- Định hướng quản lý xã hội của Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay

13

+ Hệ thống chính sách của Nhà nước phải được xây dựng phù hợp với sự
vận động của thực tiễn.

Tổng kết quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã kết luận rằng,
những thành tựu thu được trong hoạt động quản lý nhà nước những năm qua là
thật sự to lớn, tuy nhiên đó mới chỉ là bước đầu. Xét toàn diện mọi mặt, Nhà
nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế xã hội, Ở

nhiều bộ phận trong hệ thống nhà nước chưa thể hiện đầy đủ, đúng đắn với tinh
thần nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương phải
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh. Có nghĩa là Nhà nước ta phải mở
rộng phương hướng hoạt động của mình tác động vào các lĩnh vực xã hội, nâng
cao chất lượng của các chính sách xã hội, chủ động hoạch định lại chính sách xã
hội phát sinh cho phù hợp trong quá trình phát triển kinh tế, vì đây là lĩnh vực
ln biến động.

+ Nhà nước xây dựng hệ thống chính sách đảm bảo cơng bằng xã hội.

Hiện nay, vấn đề công bằng xã hội luôn được quan tâm và đã được xác
định rõ ràng. Nội dung của nó được thể hiện cụ thể như: Nhà nước xác lập về
mặt pháp lý quyền và nghĩa vụ cơ bản của mọi công dân trong mối quan hệ với
nhà nước, xã hội và với các công dân khác, nhà nước tạo cơ hội, cơ may ngang
nhau, bình đẳng cho mọi công dân để họ thực hiện được các quyền và nghĩa vụ
của mình trên thực tế; Nhà nước tơn trọng và bảo vệ nguyên tắc “làm theo năng
lực, hưởng theo lao động”. Như vậy, việc thực hiện công bằng xã hội phải gắn
với và trên cơ sở trình độ phát triển của nên kinh tế đất nước. Công bằng xã hội
phải tương ứng và phù hợp với điều kiện kinh tế sẽ quyết định đến nội dung
công bằng xã hội và ngược lại, thực hiện công bằng xã hội sẽ tác động trở lại
nền kinh tế.

+ Xác định rõ ranh giới giữa phạm vi điều tiết của Nhà nước và sự tự điều
chỉnh của xã hội.

Trong quá trình quản lý xã hội, quản lý kinh tế, Nhà nước thực hiện trực
tiếp thông qua hệ thống tổ chức của mình. Nhà nước quản lý xã hội là một hình
thức dân chủ, bảo đảm điều hịa lợi ích giữa các thành viên trong xã hội mà
không bị xâm phạm hay bị lạm dụng bởi tư nhân. Hơn nữa, ở đây xác định rõ

nhiệm vụ, trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội, với cộng đồng và với cơng
dân của mình.

Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho cộng đồng là trách
nhiệm của toàn xã hội, là sự nghiệp chung, Nhà nước chủ trương giải quyết các
vấn đề xã hội theo tinh thần “xã hội hóa” trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Cần khẳng định sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân, mọi việc đều
phải dựa vào dân, kết hợp và phát huy sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần
của cả Nhà nước, cộng đồng và bản thân mỗi người dân, huy động các nguồn
lực trong nhân dân làm lợi cho dân. Tăng cường xã hội hóa trong giải quyết các
vấn đề xã hội nhằm xác định trách nhiệm của cộng đồng, của gia đình đối với
các vấn đề xã hơi, từ đó nâng cao vai trị và trách nhiệm của cộng đồng, của

14

cơng dân trong việc bảo vệ lợi ích của mình, điều hịa lợi ích với các tầng lớp
khác. Các chủ thể trong xã hội ở các mức độ khác nhau cùng tham gia vào q
trình giải quyết cơng bằng và bình đẳng xã hội.

Tuy nhiên, cần tránh sự tuyệt đối hóa hai khuynh lường: “nhà nước hóa”
một cách thái quá sẽ dẫn đến độc quyền làm hiệu quả thực hiện chính sách xã
hội thấp, dẫn đến cửa quyền, tham nhũng, thiếu công bằng, bình đẳng; nếu lạm
dụng “xã hội hóa” - giao cho tư nhân thực hiện các công việc xã hội, dẫn đến
tình trạng chỉ chú ý đến lợi nhuận kinh tế mà khơng quan tâm đến mục đích
phục vụ con người, phục vụ xã hội. Do vậy, sự tham gia đóng góp của cả Nhà
nước và nhân dân vào giải quyết những vấn đề xã hội nói chung và vấn đề kinh
tế nói riêng sẽ mang lại hiệu quả thiết thực làm cho đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân ngày càng nâng cao.

+ Nhà nước xử lý tốt các mối quan hệ giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

và phát triển xã hội, không chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà xem nhẹ
phát triển xã hội.

Nhà nước phải thường xuyên theo dõi xu hướng biến đổi của xã hội để
nắm bắt những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của giai cấp, tầng lớp dân cư
để nắm bắt nhưng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các giai cấp, tầng lớp
dân cư để có chính sách phù hợp. Nhà nước chủ động tạo ra sự đồng thuận xã
hội và niềm tin của nhân dân, ít dùng các phương pháp bảo lực để giải quyết
mâu thuẫn xã hội, mà tăng cường các biện pháp vận động, giáo dục, thuyết
phục. Có ý thức sâu sắc về dân chủ hóa phong cách quản lý của bộ máy chính
quyền các cấp, bằng mọi biện pháp lắng nghe được tiếng nói trung thực của
người dân. Kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường pháp luật và đề cao đạo đức trong
quản lý xã hội.

Câu 6. Định hướng nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các
chủ thể chính trị trong đổi mới KT ở VN.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII xác định quan điểm quan
điểm chỉ đạo là xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động
lực để phát triển nhanh và bền vững; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Hồn thiện thể chế kinh tế đi đơi với hồn thiện thể chế chính trị mà trọng
tâm là đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy và
cán bộ.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị. Đổi

mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả
quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của tồn
xã hội trong q trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

15

Nghị quyết xác định mục tiêu tổng quát là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo tiền đề vững chắc cho việc xây
dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả
nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững vì
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Trong khi đó, mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là phấn đấu hoàn thiện một
bước đồng bộ hơn hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa theo các chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế.

Cơ bản bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị,
giữa Nhà nước và thị trường; sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an
sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững. Chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế kiểm soát
quyền lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực,
phẩm chất, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của tồn hệ thống chính trị.


Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh
gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Các kỳ đại hội
trước, Đảng ta chủ trương tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ
trương tập trung đổi mới bộ máy của Đảng, trong đó có việc “Nghiên cứu thực
hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức
năng, nhiệm vụ” để trên cơ sở đó, tinh giản tổ chức, bộ máy, gắn với phân định
rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức trong tồn hệ
thống chính trị.

Xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước, nhằm khắc phục những sai lầm thường xảy ra trong quản lý kinh tế ở
nước ta là cơ quan đảng làm thay chức năng quản lý nhà nước, còn cơ quan nhà
nước lại lấn át quyền quản lý của doanh nghiệp. Do vậy, trong những năm tới
cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo
hướng cải cách đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, được không ngừng
tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; gắn với đổi mới kinh
tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hồn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo
mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch; sử dụng các nguồn lực, cơng cụ,
cơ chế, chính sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế; thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từ chính sách phát triển.

Trong đổi mới chính trị những năm qua, chúng ta mới chỉ nhấn mạnh ý
nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị, cịn đổi mới con người chính trị - cơ cấu
và cơ chế của hệ thống chính trị - cịn mới ở mức khiêm tốn. Vì vậy, thời gian

16

tới chúng ta cần tập trung đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy gắn với hoàn thiện

chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ
máy nhà nước và hệ thống chính trị.

Ngoài ra, cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, chú trọng đa dạng hóa về hình thức hoạt
động, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả, làm tốt chức năng phản biện và giám
sát xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội. Tránh tình trạng “hành chính hóa”
các tổ chức chính trị - xã hội, làm cho ngân sách nhà nước phải gánh quá lớn; và
do vậy, cần khắc phục tình trạng này theo hướng ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ
cho các tổ chức đó khi họ thực hiện công việc do Nhà nước yêu cầu, đặt hàng.

Quan điểm

Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị phải bám sát, cụ thể hóa, thể chế
hóa các quan điểm của Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, văn kiện Đại hội XII
của Đảng, đồng bộ với nội dung sửa đổi Hiến pháp 2013; bảo đảm tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

Đổi mới, hoàn thiện đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị,
đồng bộ với đổi mới thể chế kinh tế, phù hợp với đổi mới nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với
hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền
hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu.

Về tổ chức bộ máy, không nhất thiết ở Trung ương có tổ chức nào thì ở

địa phương cũng có tổ chức đó. Căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy định
khung của Trung ương, địa phương có thể lập (hoặc khơng lập) tổ chức sau khi
được sự đồng ý của cấp trên có thẩm quyền. Đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và cơ
chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị cần thực hiện mạnh mẽ
với quyết tâm chính trị cao. Những vấn đề thực tiễn địi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi
thì kiên quyết thực hiện. Những vấn đề chưa đủ rõ thì khẩn trương nghiên cứu,
làm thí điểm và tổng kết thực tiễn để làm rõ, có bước đi thích hợp, khơng nóng
vội, chủ quan, duy ý chí. Những chủ trương đã thực hiện, nhưng thực tiễn khẳng
định là khơng phù hợp thì điều chỉnh, sửa đổi ngay.

Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh".

Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm xây
dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp

17

với chức năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có số lượng hợp
lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chun mơn nghiệp vụ
ngày càng cao, đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và có tiền
lương, thu nhập bảo đảm cuộc sống.

Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các chủ thể chính trị trong đổi
mới KT ở VN như trong Văn kiện Đại hội XII đã đặt ra nhiệm vụ trọng tâm là:

“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu”.

=> Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực
để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Hoàn thiện thể chế kinh tế phải
đi đôi với đổi mới, hoàn thiện bộ máy tổ chức, cán bộ của toàn hệ thống chính
trị; xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trị, chức năng và mối quan hệ giữa
Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

Câu 7. MQH giữa phát triển KTTT và bảo đảm định hướng Chính
trị XHCN ở VN.

- Định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện trong toàn bộ các lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhất là kinh tế.

- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất.


Nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa vừa tuân theo quy luật của kinh
tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi bản chất, các quy luật kinh tế của chủ
nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối
cảnh tồn cầu hóa. Do đó, định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh
tế thị trường ở nước ta là hoạt động tự giác, sự nỗ lực chủ quan của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở nhận thức bản chất, những quy
luật vận động của kinh tế thị trường và những đặc trưng cơ bản nhất của chủ
nghĩa xã hội để điều tiết nền kinh tế thị trường vận động, phát triển phục vụ
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Về tiêu chí của kinh tế thị trường bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta xác định bốn yếu tố cơ bản:

18

1) Về mục tiêu: thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, giải phóng mạnh mẽ và khơng ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao
đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người
vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng bước
khá giả hơn;

2) Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân;

3) Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế
phải gắn kết chặt chẽ với đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào
tạo,…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực

hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã
hội;

4) Trong lĩnh vực quản lý: phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân,
bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Khái quát về tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam, Đảng ta xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”.

Như vậy, quan hệ giữa kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hộ
chủ nghĩa là mối quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan, trong đó cái
khách quan vận hành và được nhận biết thông qua cái chủ quan, còn cái chủ
quan điều chỉnh, định hướng cái khách quan.

Vị trí, tầm quan trọng của việc giải quyết mối quan hệ: Đây là một trong
những mối quan hệ then chốt, chi phối sự vận động, phát triển của nền kinh tế.
Việc giải quyết mối quan hệ này là tạo mọi điều kiện để thúc đẩy kinh tế phát
triển nhanh, bền vững; giảm thiểu những hạn chế, tiêu cực, phát huy những mặt
tích cực của kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Câu 8. MQH giữa phát triển KT với thực hiện tiến bộ và công bằng XH
ở VN

Thực chất các mối quan hệ này là quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
phát triển bền vững, giữa phát triển kinh tế với định hướng chính trị - xã hội và
tạo động lực cho phát triển. Mối quan hệ này được thể hiện trên các phương

diện cụ thể sau:

- Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội là hướng tới sự phát triển bền vững ở Việt Nam.

19


×