Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Chất lượng cán bộ cấp xã tại huyện đông triều tỉnh quảng ninh thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.95 KB, 115 trang )

1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC Cán bộ chủ chốt
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
HTCT Hệ thống chính trị
QLNN Quản lý nhà nước
TCCSĐ Tổ chức cơ sở đảng
CCB Cựu chiến binh
LHPN Liên hiệp phụ nữ
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
GTBQ Giá trị bình quân
ĐSVH Đời sống văn hoá
2
DANH MỤC BẢNG BIỂU
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Hơn 83 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam, đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt (CBCC) cấp xã nói
riêng có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng thực
hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đưa nước ta thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, trở thành nước có nền kinh tế đang phát triển.
Trước yêu cầu đổi mới và phát triển, Đảng ta đã xác định tiếp tục đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và phát triển kinh tế xã hội bền vững,
tạo nền tảng, tiền đề để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu đề ra, cần thực hiện đồng bộ nhiều
nhiệm vụ, giải pháp, trong đó chú trọng công tác xây dựng và nâng cao chất lượng


của đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 (khoá IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
ở xã, phường, thị trấn, xác định: “Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ
phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư”. Để xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở vững mạnh,
hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, thì công tác xây dựng đội ngũ CBCC ở cấp xã có
ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định đến chất lượng hoạt động và hiệu quả quản
lý, điều hành của Nhà nước ở cơ sở.
Huyện Đông Triều nằm ở phía Tây của tỉnh Quảng Ninh, có diện tích
397,2 km², dân số là 160.500 người, gồm 2 thị trấn và 19 xã (số liệu thống kê năm
2011). Những năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, song
kinh tế của huyện vẫn luôn ổn định và phát triển; tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
bình quân 5 năm (từ năm 2007-2012) đạt trên 14%/năm; tổng giá trị sản xuất (giá so
4
sánh 1994) năm 2012 đạt 2.987,1 tỷ đồng, tăng 10,7% so với năm 2011; thu nhập
bình quân đầu người năm 2012 đạt 1.403 USD/người, tăng 24,15% so với năm
2011. Đạt được kết quả trên là có sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện, sự quyết
tâm và tinh thần tiến công của hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, trong đó có vai
trò quan trọng của đội ngũ CBCC cấp xã.
Tuy nhiên, những thành tựu của huyện đạt được chưa tương xứng với tiềm
năng, lợi thế hiện có; mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế phát triển khá nhưng chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nhiều ngành kinh tế còn thấp; kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội chưa đồng bộ, đời sống nhân dân còn khó khăn Để thực hiện mục
tiêu của huyện đến năm 2015 trở thành thị xã, có cơ cấu kinh tế công nghiệp - du
lịch, dịch vụ - nông nghiệp, phù hợp với hướng phát triển chung của tỉnh, thì yêu
cầu nhiệm vụ đặt ra đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã cần phải tiếp tục rèn
luyện về phẩm chất chính trị, nâng cao hơn nữa về trình độ chuyên môn, năng lực

công tác, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước và phát huy thế mạnh, tiềm năng, lợi thế, phát triển kinh tế - xã hội của
huyện. Do vậy, em quyết định chọn vấn đề “Chất lượng cán bộ cấp xã tại huyện
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh: Thực trạng và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu
của đề tài Luận văn Thạc sĩ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã trên địa bàn huyện Đông Triều,
tỉnh Quảng Ninh có năng lực, trình độ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh giai đoạn 2015 - 2020
và những năm tiếp theo.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của đội ngũ cán bộ cấp xã.
- Đánh giá thực trạng, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt một số xã điểm
thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
- Làm rõ những nguyên nhân yếu kém của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất các giải pháp đồng bộ và khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ cấp xã trên địa bàn huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã tại huyện Đông
Triều, tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Do thời gian nghiên cứu hạn chế, đề tài tập trung
nghiên cứu thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã ở 3 đơn vị thuộc huyện
Đông Triều là: Bình Khê, Tân Việt và Thị trấn Mạo Khê.
- Phạm vi về nội dụng: Do thời gian hạn chế, nghiên cứu này chỉ tập trung
nghiên cứu, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Đông

Triều với 11 chức danh sau: Bí thư Đảng ủy, phó bí thư Đảng ủy, chủ tịch HĐND,
phó chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND, phó chủ tịch UBND, chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc, chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ, chủ tịch Hội Cựu chiến binh, bí thư
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và chủ tịch Hội Nông dân.
- Phạm vi về thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2005 đến nay, chia làm 2 giai
đoạn: 2005-2010 và 2010-2013.
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn
- Khái quát về lý thuyết vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt xã trong việc tổ
chức triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và nắm bắt các thông tin phản hồi từ người dân, cộng đồng đối
với cơ quan quản lý các cấp của Đảng, Nhà nước.
- Phân tích được thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt 03 xã hiện nay ở huyện
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; tìm ra những nguyên nhân yếu kém trong công tác
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ chủ chốt 03 xã.
- Đưa ra những cơ sở khoa học để kiến nghị, đề xuất với huyện, với tỉnh
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt 03 xã có trình độ, năng lực, thực hiện tốt
công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Làm tài liệu tham khảo cho các cấp lãnh đạo quản lý và làm tài liệu phục
vụ công tác giảng dạy tại các trường chính trị của tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính
trị cấp huyện.
6
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tại huyện
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã tại
huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020.

7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về cán bộ và cán bộ chủ chốt
- Khái niệm về cán bộ:
Theo Từ điển tiếng Việt khái niệm “cán bộ” được hiểu là: “1.Người làm công
tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước, cán bộ
khoa học, cán bộ chính trị; 2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan,
một tổ chức, phân biệt với người thường không có chức vụ” [60, tr.109].
Theo Điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008 do Quốc hội (khóa XII) ban
hành thì khái niệm “cán bộ” được hiểu là: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [43].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản
dị và dễ hiểu; theo Người: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình dân chúng
báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [46, tr.33].
Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên có thể hiểu "cán bộ" là khái niệm
dùng để chỉ những người có chức vụ do bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm làm việc trong
các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và các đơn vị lực lượng vũ
trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương, thuộc biên chế Nhà nước và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; giữ vai trò và cương vị nòng cốt trong cơ quan, tổ
chức (có thể là người lãnh đạo, người quản lý), có tác động, ảnh hưởng đến hoạt
động và sự phát triển của cơ quan, tổ chức.
- Khái niệm cán bộ chủ chốt:
Hiện nay có nhiều cách hiểu về thuật ngữ cán bộ chủ chốt.

Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “chủ chốt” được hiểu là “quan trọng nhất,
có tác dụng làm nòng cốt” [60, tr.174].
8
Có thể hiểu “cán bộ chủ chốt” là: Người có chức năng lãnh đạo, được giao
đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ; chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp trên về nhiệm vụ được phân
công; là người giữ vị trí quan trọng trong việc cụ thể hóa đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào điều kiện thực tiễn ở cơ sở; là người
chủ trì hoạch định chiến lược phát triển, xác định mục tiêu, phương hướng tổ chức
thực hiện tất cả các nhiệm vụ đề ra và nhiệm vụ cấp trên giao; kiểm tra, giám sát,
kịp thời sửa chữa những hiện tượng lệch lạc, bổ sung, điều chỉnh những chủ trương,
giải pháp nếu thấy cần thiết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ đề ra.
Hiểu theo nghĩa chung nhất "cán bộ chủ chốt" là người có chức vụ, nắm giữ
các vị trí quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức bộ máy, làm nòng
cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được
giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy,
có vai trò tham gia định hướng lớn, điều khiển hoạt động của bộ máy thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về
lĩnh vực công tác được giao.
Từ phân tích trên, cho thấy đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những người
đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống của tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội ở cấp xã; có tác động chi phối việc chấp hành
chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua
việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn nông
thôn mà cán bộ đó được phụ trách.
1.1.2. Vai trò của cán bộ chủ chốt cấp xã
1.1.2.1. Vai trò của cấp xã
Cấp xã theo quy định của Hiến pháp năm 1992 là đơn vị hành chính nhà
nước ở địa phương thuộc hệ thống hành chính 4 cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam; cấp xã, là hình ảnh xã hội của một đất nước thu nhỏ, là cơ sở,
là nền tảng, là nơi tiếp thu, triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi hoạt động trên
tất của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh; là nơi trực
9
tiếp, thường xuyên quan hệ, tiếp xúc với quần chúng nhân dân, nơi thể hiện rõ nhất
và kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu quả mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp xã
là gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều
xong xuôi” [47, tr.371 và 372]. Do vậy, cấp xã có vai trò rất quan trọng trong công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong thời kỳ hoạt động bí mật, cấp
xã là địa bàn quan trọng, ở đó có các tổ chức của Đảng được nuôi dưỡng, bảo vệ và
hoạt động tuyên truyền, giác ngộ nhân dân lôi cuốn họ vào phong trào đấu tranh
cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân. Khi giành được chính quyền trên
phạm vi cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, giữ vai trò
lãnh đạo đối với xã hội thì cấp xã càng trở nên quan trọng hơn, bởi lẽ cấp xã là cấp
cuối cùng, là nơi tổ chức thực hiện, biến các đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước thành hiện thực; đồng thời, cấp xã cũng là nơi
cung cấp những thông tin, kinh nghiệm cho Đảng tổng kết thực tiễn để điều chỉnh,
bổ sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách mới, từ đó tiếp tục xây dựng quan điểm lý
luận cách mạng mới của Đảng ta.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò
cấp xã được nâng lên một tầm cao mới; cấp xã không chỉ là nơi tổ chức, thực hiện
thắng lợi mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước mà nó còn là nơi phản ánh trực tiếp tâm tư tình cảm và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân lên cấp trên; đồng thời, cấp xã còn là nơi tập trung mọi tiềm
năng lao động, đất đai, ngành nghề, là nơi sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã
hội mà trọng tâm là lương thực, thực phẩm, là nơi tiêu thụ sản phẩm, cung cấp

nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; xã còn là
nơi cung cấp nguồn nhân lực, lao động dồi dào cho nhiều lĩnh vực, nhiều ngành
kinh tế khác, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất
nước nói chung và của địa phương nói riêng.
Mặt khác, cấp xã còn là một trong những nơi giao lưu nhiều nhất giá trị lịch
sử và giá trị hiện thực của văn hóa quê hương; những di tích văn hóa, lịch sử, cách
10
mạng, những phong tục tập quán, những giá trị văn hóa truyền thống… Có giá trị về
thẩm mỹ, giáo dục truyền thống, lịch sử cách mạng của đất nước và quê hương sâu
sắc, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát triển giá trị truyền thống của dân
tộc và nét đẹp văn hoá, truyền thống của mỗi địa phương.
1.1.2.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
+ Vai trò của cán bộ nói chung:
Trong bất cứ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán bộ và
công tác cán bộ cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, cán bộ là một trong những
nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng; Mác - Ăngghen
đã khẳng định: “Muốn thực hiện tốt những tư tưởng cần có con người sử dụng một
thực tiễn” [45, tr.181]. Lịch sử đã chứng minh mỗi chính đảng của một giai cấp
muốn giành và giữ chính quyền đều phải chăm lo và xây dựng đội ngũ cán bộ, đây
là đại biểu trung thành của giai cấp mình, có khả năng thực hiện những yêu cầu,
mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và giai cấp đó đề ra"; do vậy, phải chăm
lo xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu,
nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Ngay từ những ngày đầu giành chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp
thu và vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cán bộ của Chủ nghĩa Mác - Lênin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; Người đã đề cập đến vấn đề cán bộ và tầm quan
trọng của công tác cán bộ; Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng công việc thành công
hoặc thất bại là do cán bộ tốt hay kém; “Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”
[47, tr.54] và vai trò của cán bộ được thể hiện trong các mối quan hệ chủ yếu: Cán

bộ với đường lối chính sách, cán bộ với công việc và cán bộ với quần chúng.
Về mối quan hệ với đường lối chính sách, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cán
bộ là người đem chính sách của Chính phủ, Đoàn thể thi hành trong nhân dân”; do
đó, “nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [47, tr.54].
Với công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “cán bộ là cái gốc của mọi
công việc” [47, tr.269]; theo Người, cây phải có gốc, “gốc” ở đây hiểu là từ đó sinh
ra, làm cho cây mạnh khỏe, tốt tươi hay ngược lại thì cây héo; vì vậy, trong mọi
công việc mà không có cán bộ thì không thể hoàn thành.
11
Đối với quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và
thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [47, tr.269]. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh cán bộ không những chỉ là người có vai trò giác ngộ và hướng dẫn, lãnh đạo
quần chúng và còn là “chiếc cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là “công
bộc” của nhân dân.
Thấm nhuần Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán
bộ, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú
trọng và đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của từng
thời kỳ cách mạng, đó chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam; Đảng ta xác định phải “có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây
dựng đường lối chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, đó là
vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền” [32, tr.27]. Trong
công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh
vai trò của cán bộ trong chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: “Cán bộ
là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng,
của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [32, tr.
66]. Theo quan điểm của Đảng, trong khi phải xây dựng đội ngũ cán bộ một cách
đồng bộ, đáp ứng với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, cần đặc biệt chú trọng
xây dựng đội ngũ CBCC các cấp, nhất là cấp chiến lược và cấp cơ sở.

Như vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ trong bất cứ thời điểm nào, ở đâu cũng
rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng, quyết định đến sự nghiệp của Đảng,
góp phần quan trọng trong việc xây dựng, bảo vệ, phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, của địa phương.
+ Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những người tiếp nhận các chủ trương,
nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước để cụ thể hóa, xây dựng thành
chương trình, kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện ở địa phương; chịu trách
nhiệm trước Đảng, Nhà nước và cấp trên về các quyết định của mình. Do vậy, đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định đến thành
12
công, hiệu quả triển khai, thực hiện mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nếu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hạn
chế về trình độ, năng lực công tác, không nắm vững các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của cấp trên, sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy, đến công tác lãnh
đạo xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương;
ngược lại, nếu đội ngũ CBCC cấp xã có trình độ và năng lực công tác, hiểu rõ, nắm
vững các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và của cấp trên, có
khả năng phân tích, đánh giá, vận động quần chúng, am hiểu sâu sắc đặc điểm, tình
hình của địa phương mình quản lý thì nhất định mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên sẽ được
tổ chức triển khai, thực hiện có hiệu quả, kinh tế - xã hội của địa phương sẽ phát
triển, ổn định tình hình chính trị địa phương, đời sống của các tầng lớp nhân dân
không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là những người trực tiếp gần gũi, gắn bó với
nhân dân, sống, làm việc và hàng ngày có mối quan hệ chặt chẽ với dân. Họ thường
xuyên lắng nghe, tham khảo ý kiến của nhân dân; nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân để báo cáo, đề xuất với cấp trên được biết. Trong quá trình triển khai, vận
động, dẫn dắt nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước, họ tạo ra cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, giải thích
cho nhân dân hiểu rõ các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thông qua họ mà ý Đảng, lòng dân tạo thành một khối thống nhất, tạo nên quan hệ
máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ. Như vậy, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước có đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực sinh động hay không, tùy
thuộc phần lớn vào sự tuyên truyền và tổ chức vận động nhân dân thực hiện của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có vai trò quyết định trong việc xây dựng,
củng cố tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị (HTCT) cấp xã vững mạnh. Thực tế
cho thấy, sự mạnh, yếu của HTCT và phong trào cách mạng của quần chúng gắn
liền với vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; họ là trụ cột, tổ chức sắp xếp,
13
tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ chức trong HTCT cấp xã, là trung tâm
đoàn kết, tập hợp mọi tiềm năng, nguồn lực ở địa phương, động viên mọi tầng lớp
nhân dân ra sức thi đua hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có vai trò quan trọng đối với năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ cấp xã, đối với năng lực và hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều
hành của chính quyền xã, hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã; là
người dẫn dắt, định hướng các phong trào quần chúng ở địa phương, tổng kết rút
kinh nghiệm, biểu dương và nhân rộng các điển hình tiên tiến trong các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, xây dựng đời sống văn hóa, phòng chống các tệ nạn xã hội
ở địa phương. Qua đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đóng góp quan trọng vào
việc xây dựng, hoàn thiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, góp phần ổn định hoạt động của bộ máy trong hệ thống chính trị, giữ vững sự
ổn định chính trị ở cơ sở, tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội địa
phương không ngừng phát triển.
1.1.3. Chất lượng và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã
1.1.3.1. Chất lượng cán bộ

Theo Từ điển tiếng Việt khái niệm “chất lượng” được hiểu là: “Chất lượng:
Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc” [60, tr.44].
Chất lượng của cán bộ là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá về phẩm chất đạo đức, trình độ,
năng lực hay khả năng giải quyết công việc và được thể hiện cụ thể như sau:
- Về phẩm chất đạo đức: Người cán bộ muốn xác lập được uy tín của mình
trước nhân dân, trước hết đó phải là người cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt. Xây
dựng các tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ và hình thành ở họ các phẩm chất đạo
đức tương ứng với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là việc làm
cần thiết, cấp bách, nhất là trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
ta hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ của đất nước ta hiện nay, có sự chuyển
biến nhanh chóng, xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp của quốc tế và khu vực, trình độ
dân trí ngày một nâng cao thì sự đòi hỏi của xã hội đối với đội ngũ cán bộ và cán bộ
chủ chốt cơ sở cũng ngày một cao hơn; cùng với đó, công tác quản lý xã hội cũng đòi
hỏi người cán bộ phải tạo lập cho mình một uy tín nhất định đối với nhân dân.
14
Việc nâng cao phẩm chất, đạo đức ở người cán bộ, công chức đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nhất là sau khi cách mạng thành công,
ngoài việc lãnh đạo, quản lý đất nước, trước những khó khăn phải chống thù trong,
giặc ngoài, Người vẫn chăm lo đến việc rèn luyện, giáo dục đạo đức cho đội ngũ
cán bộ trong các cơ quan chính quyền nhà nước non trẻ; Người yêu cầu: “Một
người cán bộ tốt phải có đạo đức cách mạng” [47, tr.223]; và muốn có đạo đức cách
mạng, theo Người phải có được các phẩm chất trí, tín, nhân, dũng, liêm; khi điều
kiện và tình hình cách mạng thay đổi, trong khi nói chuyện với anh, chị em công
chức ở Thủ đô, Bác đã nhắc nhở: “Chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính”; Bác nói: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành.
Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt
của dân” [47, tr.104].
Từ kinh nghiệm thực tiễn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết, cho thấy rõ
tầm quan trọng về phẩm chất đạo đức của cán bộ; nếu cán bộ có trình độ, được đào
tạo bài bản, có năng lực công tác, nhưng không có phẩm chất đạo đức, không có

tinh thần yêu nước, tận tuỵ phục vụ nhân dân, không nghĩ đến việc chung mà chỉ lo
làm lợi, lo đến bản thân mình, chi tiêu tiền của công xa hoa, lãng phí, không chính
trực, nghiêm minh trong giải quyết công việc… thì chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng đến
hoạt động của tổ chức bộ máy, làm mất uy tín của Đảng, Nhà nước, sẽ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân.
- Về trình độ: Trình độ của cán bộ được hiểu là trình độ về bằng cấp chuyên
môn, trình độ về lý luận chính trị đã được đào tạo để có kiến thức, trình độ về lý
luận, kiến thức về kinh tế - xã hội, khoa học - kỹ thuật, có khả năng tổ chức triển
khai, ứng dụng vào thực tiễn công tác.
Trước đây, do đất nước còn nhiều khó khăn, kinh tế còn chậm phát triển, một
bộ phận đội ngũ cán bộ cấp xã chưa được đào tạo, còn hạn chế về trình độ văn hóa,
trình độ nghiệp vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế đã dẫn tới hạn chế trong
năng lực quản lý điều hành công việc, lúng túng trong việc tổ chức triển khai các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong việc giải quyết
những phát sinh khó khăn, phức tạp ở cơ sở, đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
15
Trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập, đòi hỏi đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã phải được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính
trị, quản lý nhà nước, tin học , phải am hiểu công việc, lĩnh vực chuyên môn do
mình phụ trách, phải có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn; đồng thời, phải có sự ham
mê, yêu nghề, chịu khó học hỏi, tích lũy kinh nghiệm; phải có khả năng thu thập
thông tin, chọn lọc thông tin, khả năng quyết định đúng đắn, kịp thời.
- Về năng lực: Năng lực, là một khái niệm rộng, tùy thuộc vào môi trường và
trách nhiệm, vị thế của mỗi người, mỗi cán bộ trong những điều kiện cụ thể. Năng
lực là những phẩm chất tâm lý mà nhờ chúng con người tiếp thu tương đối dễ dàng
những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và tiến hành một hoạt động nào đấy một cách có
kết quả.
Năng lực, là tổng hợp các đặc điểm, phẩm chất, tâm lý phù hợp với những
yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định bảo đảm cho hoạt động đó đạt được

kết quả; năng lực hình thành một phần dựa trên cơ sở tư chất tự nhiên của cá nhân,
một phần lớn dựa trên quá trình đào tạo, giáo dục và hoạt động thực tiễn, cũng như
tự rèn luyện của cá nhân.
Năng lực ở con người có nhiều cấp độ khác nhau, ở cấp độ cao thì đó là tài
năng - thiên tài; cần phân biệt sự kém hiểu biết với sự thiếu năng lực. Trong những
điều kiện bên ngoài như nhau, ở những con người khác nhau có thể tiếp thu những
kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo khác nhau; có người tiếp thu nhanh, có người phải tốn
nhiều thì giờ và sức lực; ở người này có thể ở mức điêu luyện, ở người khác chỉ ở
mức trung bình; khi xem xét bản chất của năng lực, cần chú ý ba dấu hiệu cơ bản
của năng lực như sau:
Một là, năng lực là sự khác biệt nhau về phẩm chất tâm lý cá nhân làm cho
người này khác người kia.
Hai là, năng lực là những khác biệt có liên quan đến hiệu quả của việc thực hiện
một hoạt động nào đó chứ không phải bất cứ những sự khác biệt chung chung nào.
Ba là, năng lực không phải được đo bằng những kiến thức, kỹ năng và kỹ
xảo đã được hình thành ở một người nào đó; năng lực chỉ làm cho việc tiếp thu các
kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trở nên dễ dàng hơn.
16
Có thể hiểu, năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có
để thực hiện một hoạt động nào đó; năng lực là những phẩm chất tâm lý, sinh lý tạo
cho con người có khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao;
mỗi con người có khả năng trong một hoạt động nhất định nào đấy có ích cho xã
hội. Nghiên cứu năng lực con người, là nghiên cứu sức lực dự trữ của con người
trong lao động hay là tiềm năng của con người đối với lao động.
Năng lực thể hiện ở chỗ, con người làm việc tốn ít sức lực, ít thời gian, của
cải, mà kết quả lại tốt; việc phát hiện ra năng lực của con người thường căn cứ vào
những dấu hiệu sau: Sự hứng thú đối với công việc nào đó; sự dễ dàng tiếp thu kỹ
năng nghề nghiệp; hiệu suất lao động trong lĩnh vực đó.
Năng lực, có năng lực chung và năng lực chuyên môn, giữa chúng có mối
quan hệ ảnh hưởng, tương hỗ lẫn nhau; năng lực chung, cho phép con người có thể

thực hiện có kết quả những hoạt động khác nhau như hoạt động học tập, lao động ;
năng lực chuyên môn, cho phép người ta làm tốt một loại công việc nào đó như âm
nhạc, hội họa, văn học, toán học
Năng lực con người thường gắn liền với sở thích của người ấy. Con người có
sở thích, hứng thú về một hoạt động nào đấy thường nói lên năng lực của người đó
về mặt hoạt động đó; năng lực không chỉ thể hiện trong những hoạt động lao động
trí óc thuần túy, mà thể hiện cả trong hoạt động thể lực; năng lực phát triển trong
quá trình hoạt động; người lười biếng, trốn tránh hoạt động lao động trí óc cũng như
lao động chân tay thì năng lực không thể phát triển được.
Đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, năng lực thường bao gồm: Những tố
chất cơ bản về đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ nhân dân, về trình độ kiến
thức pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã hội ; sự am hiểu và nắm vững đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật
xử lý thông tin để giải quyết các vấn đề đặt ra trong giải quyết công việc một cách
khôn khéo, minh bạch, dứt khoát, hợp lòng dân và không trái pháp luật, nhằm thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế ở địa phương.
Vì vậy, khi nói đến chất lượng cán bộ là nói về phẩm chất đạo đức, trình độ,
năng lực hay tài năng của một cán bộ; tài năng của mỗi cán bộ không phải bỗng
nhiên mà có, mà là do quá trình rèn luyện, đào tạo, trải qua kinh nghiệm thực tiễn
17
mà có được; bất kỳ người cán bộ ở cấp nào, cương vị nào cũng cần phải có tài năng
và đức độ, nếu thiếu bất kỳ tiêu chuẩn nào cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của tổ
chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường nói: Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà
không có đức thì vô dụng. Nhưng chữ “đức” ở đây phải được hiểu cho đúng. Không
thể coi những người gọi dạ, bảo vâng, đúng cũng gật, sai cũng gật, không có chính
kiến gì… là những người có đức; trong khi đó, lại coi những người có chính kiến rõ
ràng, dám đấu tranh phê bình, dám chống lại những sai trái như quan liêu, tham
nhũng lại bị coi là kiêu căng, tự mãn, là thiếu “đức”.
Nói về tiêu chuẩn cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả đức và tài,

trong đó đức là gốc; Người chỉ rõ yêu cầu đối với cán bộ là: “Phải có chính trị trước
rồi có chuyên môn; chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là
hỏng Đức phải có trước tài” [47, tr.26]. Để nhấn mạnh tiêu chuẩn đạo đức của
người cán bộ cách mạng, Bác viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức; không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân” [47, tr.252 và 253].
Yêu cầu đặt ra hiện nay là nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã có đủ
phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển, thực hiện có kết quả đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tận tụy phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, xây dựng được lòng tin trong nhân dân, cần
kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực không cơ
hội, không tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền và kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng. Có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin
học, có đủ năng lực và sức khỏe để làm việc, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mà
tổ chức và nhân dân giao phó, nhất là đối với đội ngũ CBCC cấp xã.
1.1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ cán bộ, tuy nhiên đề tài
tập trung vào một số nhóm nhân tố sau:
- Nhóm nhân tố về sức khỏe: Sức khỏe của cán bộ được xem xét là tiêu chí
quan trọng đánh giá chất lượng của cán bộ; sức khỏe là trạng thái thoải mái về thể
18
chất, tinh thần và xã hội chứ không đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khỏe là
tổng hòa nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh
thần; sức khoẻ được thể hiện thông qua thể trạng của người cán bộ, như: To, cao,
béo, gầy, dáng đi nhanh nhẹn hay yếu ớt, tinh thần thoải mái hay bực tức …
Do vậy, tình trạng về sức khỏe có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực
hiện nhiệm vụ của cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp xã, nơi trực tiếp phải thường
xuyên trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, phải thường xuyên sâu sát địa bàn cơ sở, đi
trực tiếp xuống các thôn, bản, khu dân cư để giải quyết các công việc; nếu cán bộ

có sức khỏe tốt, họ có thể làm việc liên tục để giải quyết khối lượng công việc lớn,
trong những điều kiện, hoàn cảnh, môi trường khắc nghiệt, thường xuyên đi đến địa
bàn, cơ sở mình phụ trách để tổ chức triển khai nhiệm vụ, nắm bắt tình hình cơ sở,
tiếp thu những ý kiến phản hồi từ người dân để có hướng giải quyết hoặc báo cáo, đề
xuất với cấp trên. Ngược lại, nếu cán bộ không có sức khỏe, họ sẽ không có khả năng
làm việc liên tục, nhất là trong môi trường khó khăn, có khi bị chi phối bởi chỉ lo nghĩ
đến sức khỏe của mình, dẫn đến công việc có thể bị chậm trễ, nhất là hạn chế trong
việc đi nắm bắt, tình hình cơ cơ sở, địa phương mình phụ trách, gây ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động của bộ máy, chất lượng công việc do chính cán bộ đó thực hiện.
Tiêu chí sức khỏe đối với cán bộ là một tiêu chuẩn chung, phổ thông và cần
thiết xuất phát từ yêu cầu cụ thể đối với hoạt động của cán bộ; yêu cầu về sức khỏe
không chỉ là quy định bắt buộc khi tuyển chọn cán bộ, công chức, mà còn phải là
yêu cầu được duy trì trong suốt quá trình công tác của cán bộ. Vì vậy, người cán bộ
phải được bảo đảm về mặt sức khỏe mới có thể duy trì công việc được liên tục.
- Nhóm nhân tố về kinh tế: Chúng ta đều biết con người với tư cách là một
sinh vật cao cấp có ý thức, mọi hoạt động đều có mục đích và bao giờ cũng có một
động lực tương ứng, nhằm thúc đẩy hoạt động để thỏa mãn nhu cầu nhất định về vật
chất và tinh thần; nhu cầu vật chất là những đòi hỏi về điều kiện kinh tế để con
người tồn tại và phát triển về thể lực, nhu cầu về tinh thần là những điều kiện để con
người tồn tại phát triển trí lực.
Nếu thiếu những nhu cầu kinh tế, thì con người nói chung hay cụ thể là
người cán bộ sẽ không đủ khả năng để nuôi sống bản thân mình hay gia đình của
họ; do vậy, họ không thể yên tâm công tác, lo giải quyết nhiệm vụ được giao mà sẽ
19
bị chi phối bởi việc phải lo nghĩ về nhu cầu kinh tế và có thể dẫn đến tình trạng tiêu
cực trong thực thi nhiệm vụ, làm nhũng nhiễu tổ chức bộ máy, ảnh hưởng trực tiếp
đến uy tín của Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương. Ngược lại, nếu cán bộ được thỏa mãn về nhu cầu vật chất và tinh thần thì
họ sẽ không còn bị phân tâm, chi phối thời gian công tác và sẽ giành nhiều thời
gian, chuyên tâm để tập trung nghiên cứu, giải quyết công việc có hiệu quả hơn,

góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy, phát triển kinh tế - xã hội ở
địa phương.
Vì vậy, để tạo động lực cho cán bộ yên tâm công tác, cống hiến thì Đảng,
Nhà nước cần có chính sách hợp lý, chăm lo tới quyền lợi chính đáng để cán bộ
đảm bảo cuộc sống, tạo động lực để họ làm việc, cống hiến.
- Nhóm nhân tố về môi trường xã hội: Môi trường xã hội là bộ phận quan
trọng có liên quan chặt chẽ đến đời sống của cán bộ, là một trong những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động, sự phát triển, cũng như quyết định
đến chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ. Thực tế cho thấy, cán bộ sống, công
tác ở những môi trường xã hội lành mạnh, trình độ dân trí cao, truyền thống văn
hóa, phong tục tốt đẹp được phát huy, cộng đồng dân cư đoàn kết, hăng say lao
động, phát triển kinh tế - xã hội… có tác động tích cực đến nhận thức của cán bộ,
đòi hỏi cán bộ phải tự nâng cao trình độ, năng lực để có đủ kiến thức, năng lực giải
quyết công việc.
Ngược lại, hiện nay vẫn còn nhiều địa bàn dân cư, nhất là ở khu vực nông
thôn, miền núi, hải đảo do điều kiện kinh tế, đời sống nhân dân còn khó khăn, vất
vả, nhân dân không có điều kiện để học tập, tiếp cận khoa học, văn hóa… nên trình
độ dân trí thấp, kiến thức hiểu biết còn hạn chế, bị ảnh hưởng bởi những hủ tục văn
hóa lạc hậu, tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng đến công tác quản lý, phát triển kinh tế -
xã hội, tác động đến chất lượng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Sống trong môi trường xã hội không lành mạnh, cán bộ nói chung và đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã nói riêng thường xuyên chứng kiến, tiếp xúc với mặt trái của xã
hội, những cám dỗ đời thường, nếu họ không có bản lĩnh, kiến thức, công tâm trong
công việc sẽ dễ lâm vào tình trạng bằng lòng với chính mình, hoặc nẩy sinh những
tiêu cực, sao nhãng công việc, tha hóa, biến chất.
20
- Nhóm nhân tố về trình độ năng lực: Người cán bộ muốn hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, đòi hỏi đầu tiên của người cán bộ là phải có trình độ và phải
được đào tạo, bồi dưỡng qua trường lớp và tự đào tạo, rèn luyện qua thực tế công
tác, cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin

học, ; người cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực công tác tốt sẽ thuận
lợi trong việc chỉ đạo, điều hành; ngược lại, sẽ rất khó hoàn thành nhiệm vụ; bên
cạnh trình độ chuyên môn, đòi hỏi cán bộ phải có trình độ lý luận chính trị, nắm
chắc các quy luật vận động của cuộc sống, biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của cơ quan, đơn vị; một cán bộ có chuyên môn giỏi, có trình độ lý luận chính
trị vững vàng, có năng lực tốt, sẽ có lợi thế lớn trong công tác lãnh đạo hay quản lý,
nhất là khi trình độ dân trí ngày càng cao.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, không ít cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp
xã có bằng cấp chuyên môn, chính trị đầy đủ nhưng lại không có đủ năng lực công
tác, không phát huy được khả năng; chưa nói đến không ít trường hợp cán bộ, năng
lực thực tế rất yếu nên khó, thậm chí không hoàn thành nhiệm vụ được giao trên
cương vị công tác của mình. Ngược lại, cũng có trường hợp cán bộ, tuy không được
đào tạo cơ bản, song qua thực tiễn công tác, họ biết tự nghiên cứu, nâng cao trình độ,
có khả năng tư duy, tự rút ra nhiều kinh nghiệm hay, chịu khó tổng kết nên có được
những phương pháp, cách làm hiệu quả để vận dụng sáng tạo vào từng điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể ở địa phương góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
Do vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thì các cấp
ủy đảng, chính quyền cần phải đánh giá đúng năng lực của cán bộ, quan tâm, đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mội mặt cho đội ngũ cán bộ cả về chuyên môn
nghiệp vụ, lý luận chính trị, năng lực, kỹ năng công tác để cán bộ có đủ khả năng
đảm nhận, thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Nhóm nhân tố về thể chế: Thể chế bao gồm các luật lệ, quy tắc xã hội được
lập ra để quy định, ràng buộc các mối quan hệ trong xã hội, tác động đến tư duy và
hành động của con người trong xã hội. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, thể chế
ở đây được nêu nên các quy định về hệ thống luật pháp của Nhà nước và cũng như
các quy định, quy chế, phong tục, tập quán của địa phương… là nhân tố ảnh hưởng
đến hoạt động, chất lượng của đội ngũ cán bộ cấp xã ở địa phương.
21
Thực tiễn cho thấy trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước,
hệ thống pháp luật của nước ta đã từng bước hoàn thiện phù hợp với trình độ phát

triển của kinh tế - xã hội, có tính ổn định và thống nhất hơn, các mối quan hệ, quyền
hạn, trách nhiệm được phân định rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi để các cấp, các
ngành từ Trung ương đến địa phương áp dụng, thực hiện. Bên cạnh đó, việc phát huy
truyền thống văn hóa tốt đẹp có ý nghĩa nhân văn của dân tộc, địa phương đã được
quan tâm, duy trì, đồng thời những phong tục lạc hậu dần được xóa bỏ, đã tạo điều
kiện để con người và đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có cơ hội
được tiếp xúc, sống trong môi trường lành mạnh, có điều kiện phát triển, nâng cao
nhận thức, trình độ, kiến thức hiểu biết về luật pháp, xã hội để phát triển.
1.1.4. Yêu cầu tất yếu, khách quan phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã
- Xuất phát từ yêu cầu phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế: Trong giai đoạn
hiện nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế là tất yếu khách quan, các quốc gia
trong đó có Việt Nam dù muốn hay không cũng đều chịu tác động của quá trình
toàn cầu hóa. Để tồn tại, phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội… Đây
cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam, do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn
chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước
ngoài. Đòi hỏi cán bộ, trong đó có cán bộ cấp xã phải nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ chuyên môn, năng lực công tác, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng
cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, lối sống hưởng thụ… nếu không
sẽ là thách thức, khó khăn rất khó khắc phục.
- Xuất phát từ yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước: Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là quá trình biến đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế, xã hội từ
sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra
năng suất lao động cao, nhằm đẩy mạnh nhịp độ phát triển, đồng thời hướng vào
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra.
22
Trước xu thế tất yếu của quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, nhận rõ cơ

hội và thách thức, Đảng ta xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 là đẩy mạnh CNH, HĐH. Từ yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn, nhất là đối với
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Trong khi đó, trình độ chuyên môn, lý luận chính
trị, kiến thức về khoa học, công nghệ của đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay nhìn
chung còn thấp, chưa thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng là thách thức lớn đặt
ra đối với công tác cán bộ của Đảng. Vì vậy, Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) đã
ban hành Nghị quyết về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở
xã, phường, thị trấn”; đây là một nghị quyết rất cơ bản và toàn diện nhằm xây dựng,
củng cố HTCT ở cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở, được xác định
là một trong những vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, là yêu cầu tất
yếu khách quan, nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
- Xuất phát từ sự phát triển của khoa học - kỹ thuật: Sự phát triển không
ngừng của những tiến bộ trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật đã tác động mạnh mẽ
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là việc ứng dụng khoa học vào
lĩnh vực lãnh đạo, quản lý. Các phương pháp và phương tiện lãnh đạo, quản lý
truyền thống đã dần lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình mới. Trong công tác
lãnh đạo, quản lý ngày nay, xu hướng ứng dụng công nghệ để xử lý thông tin ngày
càng phổ biến, triển khai rộng rãi, đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ, có khả
năng giải quyết, xử lý thông tin chính xác, kịp thời, có thể ra quyết định và tổ chức
thực hiện quyết định đó đạt hiệu quả, chất lượng đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
chính trị đặt ra.
- Trình độ dân trí, văn hóa của nhân dân ngày càng cao: Cùng với sự phát
triển của kinh tế, khoa học - kỹ thuật, thì trình độ văn hóa, trình độ dân trí của nhân
dân ngày càng phát triển, cùng với phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã
giúp người dân nâng cao kiến thức, hiểu biết về kinh tế, văn hóa, xã hội, hiểu rõ hơn
về chủ trương, đường lối của của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do
vậy, đòi hỏi cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã cũng phải nâng cao trình

23
độ về chuyên môn, lý luận chính trị, kiến thức hiểu biết, nắm chắc và hiểu sâu các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để lãnh đạo,
triển khai thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, đúng chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, đồng thời có đủ khả năng để đối thoại, trả lời, giải thích, vận động nhân
dân thực hiện chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã: Đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; hình
ảnh và uy tín của họ là niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy
nhiên, trong thực tế hiện nay một số CBCC cấp xã do trình độ, năng lực còn hạn
chế, chưa làm tròn bổn phận của mình, còn quan liêu hách dịch, cửa quyền, lên mặt
làm “quan cách mạng” của nhân dân; chưa kịp thời giải quyết và phản ánh những
yêu cầu chính đáng, cấp thiết của nhân dân, bản thân và gia đình chưa đi đầu gương
mẫu trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước; hiểu biết đường lối, chính sách chưa có hệ thống, chưa sâu sắc, tự trao cho
mình những đặc quyền, đặc lợi làm mất dân chủ ở cơ sở, dẫn đến hiệu lực quản lý
nhà nước chưa đảm bảo, hiệu quả chưa cao, ảnh hưởng đến sự ổn định của cả hệ
thống chính trị. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn lợi dụng tình hình để thực
hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, "tự diễn biến từ bên trong" làm cho lòng tin của
nhân dân bị giảm sút…; do vậy, để khắc phục hạn chế, tồn tại trên việc chăm lo, đào
tạo, bồi dưỡng, năng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là rất quan
trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm thực tiễn ở một số tỉnh
Nhận thức rõ vai trò của đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ
sở; đặc biệt từ sau khi có Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) “về đổi mới và nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, việc thể chế, cụ thể
hóa các nội dung Nghị quyết được các địa phương, các ngành, đơn vị trong cả nước
triển khai tích cực, đồng bộ và đã thu được kết quả; gắn với thực hiện các nghị

quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách khác của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ ở
cơ sở, sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các cấp ủy, chính quyền, MTTQ và
24
các đoàn thể để củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở,
điểm hình ở một số tỉnh:
* Kinh nghiệm của tỉnh Cao Bằng: Những năm qua, đội ngũ cán bộ cơ sở
của tỉnh Cao Bằng ngày càng được củng cố cả về số lượng và chất lượng; năm
2011, Tỉnh uỷ Cao Bằng thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cơ sở bằng cách chú trọng quy hoạch, tạo nguồn và bồi dưỡng cán bộ trẻ tại chỗ,
đồng thời tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng vào làm
việc; điển hình là ở xã Hạ Thôn, huyện Hà Quảng đã thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán
bộ chủ chốt của xã, độ tuổi trung bình là 30 và 100% tốt nghiệp đại học; hơn 90%
số cán bộ, công chức cũng được chuẩn hóa, có trình độ, thông thạo ngôn ngữ,
phong tục tập quán địa phương, đây là điều kiện thuận lợi để lãnh đạo, vận động
nhân dân thực hiện các chủ trương đường lối, chính sách của tỉnh, của huyện.
Không chỉ bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, Cao Bằng là một trong những tỉnh đầu
tiên thực hiện chủ trương đưa trí thức trẻ về công tác tại cơ sở; từ đầu năm 2012 đến
nay, đã có 44 sinh viên tốt nghiệp các trường đại học được phân công về làm phó
chủ tịch các xã vùng cao, biên giới, khó khăn. Theo Chủ tịch UBND tỉnh Cao
Bằng, chuyển biến rõ nét nhất ở các xã nghèo được bổ sung trí thức trẻ là triển khai
nhanh các dự án phát triển kinh tế - xã hội; đội ngũ này với ưu điểm được đào tạo
cơ bản, nắm bắt công việc nhanh, sáng tạo và có tinh thần trách nhiệm cao.
Để có được kết quả đó Tỉnh uỷ Cao Bằng rất coi trọng việc phát hiện, bồi
dưỡng cán bộ trẻ; hiện nay, số cán bộ trẻ ở các xã chiếm hơn 60%; đặc điểm của cán
bộ trẻ có năng lực, trình độ nếu tin tưởng giao việc để thử thách, kết hợp giám sát,
bồi dưỡng thì phát huy tốt tính năng động, dám nghĩ, dám làm của lớp trẻ. Để thực
hiện tốt công tác trẻ hóa cán bộ ở cơ sở, Tỉnh uỷ Cao Bằng đang tiếp tục rà soát,
điều chỉnh quy hoạch; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể theo từng chức
danh, khắc phục tình trạng mất cân đối trong đào tạo; tỉnh dành một số chỉ tiêu biên
chế ở cơ sở để tuyển chọn những trí thức trẻ tốt nghiệp đại học; xây dựng cơ chế

chính sách, bố trí kinh phí để thực hiện giải quyết đối với những cán bộ, công chức
cơ sở tuổi cao, năng lực hạn chế, không đạt chuẩn, nhưng chưa đủ điều kiện về tuổi
và năm công tác nghỉ chế độ để nhường chỗ cho cán bộ trẻ [59].
25
* Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng: Thực hiện Nghị quyết Trung ương
3 (khoá VIII) về Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; Thành uỷ Đà Nẵng đã ban hành Chương trình hành động số 31-
CTr/TU ngày 25-10-2008; trong đó, nhấn mạnh tầm quan trọng đối với việc “trọng
dụng tài năng trẻ, tạo đột phá trong bố trí và sử dụng cán bộ trẻ”, phát huy nguồn
nhân lực trẻ trong sự nghiệp đổi mới, phát triển thành phố văn minh, hiện đại.
Để tạo nguồn cán bộ trẻ chất lượng cao, Thành phố Đà Nẵng đã ban hành Đề
án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (Đề án 922); tính đến ngày 15-12-2011,
đã có 324 học sinh được cử đi học đại học, trong đó có 154 học trong nước và 170
học ở nước ngoài; 88 lượt cán bộ, công chức, viên chức và học viên được cử đi học
sau đại học ở nước ngoài, gồm 70 thạc sĩ và 18 tiến sĩ; đã có 94 học viên bậc đại
học và 58 học viên bậc sau đại học tốt nghiệp về nhận công tác. Đến nay, thành phố
Đà Nẵng đã đạt những kết quả tích cực trong công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử
dụng cán bộ trẻ.
Xác định tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cơ sở, ngày 12-6-2008 Ban
Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành Kết luận số 89-TB/TU, mở lớp “tạo
nguồn cán bộ cho chức danh Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch UBND phường, xã trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng” (Đề án 89). Mục đích của Đề án là tạo nguồn, bổ sung cán
bộ trẻ, có năng lực cho cấp cơ sở; nâng cao hơn tính chuyên nghiệp trong xử lý trực
tiếp công việc với người dân. “Đầu vào” là sinh viên chính quy tốt nghiệp xuất sắc,
giỏi, khá tại các trường đại học công lập; hoặc do phường, xã cử đi thi, nhưng phải
bảo đảm các tiêu chí đầu vào, các đối tượng tham gia đề án phải dưới 35 tuổi, là đoàn
viên thanh niên, phần lớn chưa là đảng viên; đây là biểu hiện cụ thể, sinh động đối
với việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trẻ cho cơ sở. Đến nay, thành phố Đà
Nẵng đã mở được 2 lớp với 136 học viên tốt nghiệp và được phân công về các
phường, xã, trong đó có 24 đồng chí được bầu giữ các vị trí chủ chốt tại phường, xã

(phó bí thư đảng uỷ, phó chủ tịch UBND phường, xã và phó chủ tịch HĐND xã).
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, thành phố Đà Nẵng có cách
làm sáng tạo với việc thành lập Câu lạc bộ cán bộ trẻ; với mục tiêu “Chung tay nâng
tầm ý tưởng”, Câu lạc bộ cán bộ trẻ là tổ chức xã hội, tập hợp các cán bộ, công
chức, viên chức có năng lực, có triển vọng, dưới 40 tuổi; đang công tác tại các cơ

×