Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Giải pháp cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư vào tỉnh bắc kạn đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.56 KB, 110 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
CTMTĐT Cải thiện môi trường đầu tư
CCHC Cải cách hành chính
CCN Cụm công nghiệp
DAĐT Dự án đầu tư
GPĐT Giấy phép đầu tư
GPMB Giải phóng mặt bằng
HTX Hợp tác xã
KCN Khu công nghiệp
KHCN Khoa học công nghệ
KT-XH Kinh tế xã hội
NSNN Ngân sách nhà nước
TW Trung ương
TTHC Thủ tục hành chính
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
UBND Uỷ ban nhân dân
PCI Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
VNCI Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam
VĐT Vốn đầu tư
XHCN Xã hội chủ nghĩa
WTO Tổ chức thương mại thế giới
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ODA Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
USD Đô la Mỹ
WB Ngân hàng thế giới
i
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4


VỀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ 4
Chương 2 32
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
Chương 3 36
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ 36
TỈNH BẮC KẠN GIAI ĐOẠN 2008-2012 36
ii
DANH MỤC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
Sơ đồ 1.2: Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư

Error: Reference
source not found
Đồ thị 3.1: Lượng vốn SXKD của 3 loại hình DN giai đoạn 2008 – 2012 Error:
Reference source not found
Đồ thị 3.2: Kết quả sản xuất kinh doanh của 3 loại hình doanh nghiệp

giai đoạn
2008-2012 Error: Reference source not found

Đồ thị 3.3 : Kết quả PCI của các tỉnh thuộc Khu vực trung du và miền núi phía Bắc
năm 2012 Error: Reference source not found

Đồ thị 3.4: So sánh 9 chỉ số thành phần của PCI qua 2 năm 2010, 2011
Error: Reference source not found

Đồ thị 3.5: Kết quả 9 chỉ số thành phần PCI 2012 của

Bắc Kạn

Error:

Reference source not found
Đồ thị 3.6: Nguồn vốn đầu tư của tỉnh giai đoạn 2008-2012

Error:
Reference source not found
Đồ thị 3.7: Nguồn vốn đầu tư của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2008 - 2012
Error: Reference source not found

iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư là một hoạt động kinh tế quan trọng, quyết định đến sự phát triển kinh
tế - xã hội của một quốc gia cũng như của mỗi địa phương. Các quốc gia có nền
kinh tế phát triển, các địa phương trong nước có nguồn thu cao cho ngân sách phần
lớn là nhờ hoạt động đầu tư. Các địa phương trong cả nước tìm cách thu hút được
nhiều nhà đầu tư vào địa phương mình. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào bất kỳ địa
phương, lĩnh vực nào đều mong muốn thu được lợi nhuận cao. Do đó, họ thường
xem xét rất cụ thể các điều kiện đầu tư như: ưu đãi và khuyến khích đầu tư nói
chung và các ưu đãi cụ thể về thuê đất, miễn giảm thuế… nhằm mục đích thu được
nhiều lợi nhuận và các lợi ích khác. Trong phạm vi cả nước hoạt động đầu tư đã được
quy định tại Luật Đầu tư, để thu hút các nhà đầu tư các địa phương thường vận dụng quy
định chung và có những ưu đãi khác dựa trên điều kiện cụ thể của địa phương mình.
Bắc Kạn có nhiều tiềm năng, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, về
khoáng sản và tiềm năng phát triển hoạt động du lịch tại Hồ Ba Bể để phát triển
kinh tế và thu hút đầu tư. Theo đánh giá của các nhà đầu tư và doanh nghiệp đang
hoạt động đầu tư và kinh doanh tại Bắc Kạn, Bộ máy chính quyền các cấp cần nỗ
lực hơn nữa để đáp ứng tốt các yêu cầu của doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Một vài năm trở lại đây, chính quyền tỉnh Bắc Kạn đã và đang có nhiều nỗ
lực nhằm cải thiện môi trường đầu tư bằng việc ban hành nhiều cơ chế chính sách,
đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo những điều kiện thuận lợi khác cho các doanh

nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư tại tỉnh. Xuất phát ban đầu môi trường đầu tư được
coi là kém hấp dẫn với các nhà đầu tư như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng giao thông và các
cơ sở hạ tầng khác, nguồn nhân lực có tay nghề, quy mô thị trường Đến nay, Bắc
Kạn đã từng bước đạt được những kết quả nhất định trong thu hút đầu tư.
Thực tế, kinh tế của tỉnh phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế
mạnh. Môi trường đầu tư của tỉnh vẫn còn rất nhiều điểm hạn chế cần được cải
thiện để nâng cao hơn nữa sức hấp dẫn của tỉnh đối với các nhà đầu tư trong nước
và quốc tế. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI (chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh,
1
thành của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc
phát triển doanh nghiệp dân doanh) của Bắc Kạn năm 2012 ở vị trí rất thấp trên
bảng xếp hạng: xếp hạng 60/63 tỉnh, thành trong cả nước. Vì vậy, đặt ra yêu cầu là
cần nghiên cứu sâu hơn về thực trạng môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Kạn, thực
trạng chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh, chỉ rõ những mặt còn hạn chế, tồn tại để
có các giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh
tranh của tỉnh Bắc Kạn trong thời gian tới.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tác giả quyết định chọn đề tài
“Giải pháp cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư vào tỉnh Bắc Kạn
đến năm 2020” làm luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài tiến hành nghiên cứu, đánh giá thực trạng môi trường đầu tư nhằm tìm
ra các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Kạn, tạo điều kiện thuận
lợi để thu hút vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn từ nay đến năm 2020
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích rõ thực trạng môi trường đầu tư tỉnh Bắc Kạn và xác định các
nhân tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Kạn.
- Tìm ra được những lợi thế và bất lợi của môi trường đầu tư tỉnh Bắc Kạn.

- Đề xuất các giải pháp để cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu
hút đầu tư vào tỉnh Bắc Kạn từ nay đến năm 2020 góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của địa phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu môi trường đầu tư, các nhân tố thuộc môi
trường đầu tư của tỉnh trong đó tập trung đề cập tới các yếu tố cấu thành môi trường
đầu tư của tỉnh Bắc Kạn như: cơ chế chính sách, thủ tục hành chính, kết cấu hạ tầng
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại tỉnh Bắc Kạn.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài được thực hiện với các chỉ tiêu nghiên cứu và
số liệu được tập hợp từ 2008 - 2012.
2
- Phạm vi về nội dung: Nội dung nghiên cứu tập trung vào các hoạt động
của địa phương trong việc cải thiện môi trường nhằm thu hút đầu tư và các yếu tố
ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Kạn để từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm cải thiện môi trường và thu hút đầu tư từ nay đến năm 2020. Do nguồn vốn
ODA và FDI đầu tư vào tỉnh ít, quy mô nhỏ. Đồng thời, do giới hạn về thời gian
nên Luận văn tập trung vào nghiên cứu các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư
tỉnh Bắc Kạn nhằm thu hút đầu tư trong nước là chủ yếu.
4. Những đóng góp của Luận văn
Đây là đề tài lần đầu tiên nghiên cứu về giải pháp cải thiện môi trường nhằm
thu hút đầu tư, vì vậy kết quả nghiên cứu đã:
- Phân tích những yếu tố của môi trường ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư từ
đó tạo ra những tác động đến phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
- Tổng kết bài học kinh nghiệm về cải thiện môi trường đầu tư của một số
quốc gia trên thế giới và một số tỉnh thành trong nước.
- Phân tích thực trạng tình hình cải thiện môi trường đầu tư trên địa bàn tỉnh
Bắc Kạn, đánh giá khả năng cải thiện môi trường đầu tư của tỉnh Bắc Kạn so với các
địa phương khác. Trên cơ sở đó, xác định được những kết quả đạt được cũng như
những hạn chế và các nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất giải pháp cải thiện môi trường đầu tư trên bình diện vĩ mô để thực

hiện việc công tác chỉ đạo cũng như các giải pháp cụ thể để triển khai.
5. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu gồm 4 chương;
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cải thiện môi trường đầu tư.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng môi trường đầu tư tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2008 – 2012.
Chương 4: Giải pháp cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư vào
tỉnh Bắc Kạn từ nay đến năm 2020.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về đầu tư
Khái niệm đầu tư
Đầu tư có nghĩa là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai mà
kết quả này thường phải lớn hơn các chi phí về các nguồn lực đã bỏ ra. Nguồn lực
bỏ ra có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản vật chất khác, tài sản phi vật
chất hoặc sức lao động. Sự biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra trên
đây gọi là vốn đầu tư.
Theo Luật Đầu tư năm 2005, đầu tư được hiểu là “việc nhà đầu tư bỏ vốn
bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của pháp luật”. (Luật đầu tư – NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội năm 2005).
Trong kinh tế học vĩ mô, “đầu tư chỉ việc gia tăng tư bản nhằm tăng cường
năng lực sản xuất tương lai”. Đầu tư còn được gọi là hình thành tư bản hoặc tích lũy tư
bản. Nếu xem xét trên giác độ phát triển kinh tế, xã hội thì đầu tư là những hoạt động
sử dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và
trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của các tài

sản và nguồn lực sẵn có.
Ngoài ra, nếu xem xét dưới giác độ chuyển dịch của vốn thì đầu tư được xem
là biện pháp chuyển dịch vốn đến những nơi cần sử dụng trong điều kiện vốn phải
được bảo toàn và mang lại giá trị lợi nhuận cũng như lợi ích kinh tế, xã hội.
Từ những quan điểm trên, tác giả cho rằng đầu tư là hoạt động bỏ ra những
nguồn lực sản xuất ở hiện tại, bao gồm nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất và trí
tuệ được tiến hành qua các giai đoạn nhằm làm tăng khả năng sản xuất ở tương lai
và mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội.

4
Sơ đồ 1.1: Quá trình đầu tư
Từ sơ đồ trên, ta nhận thấy hoạt động đầu tư được tiến hành trải qua một quá
trình và người thực hiện là nhà đầu tư. Nhà đầu tư sở hữu vốn, mục đích của nhà
đầu tư là làm cho số vốn mà mình có ngày càng tăng lên. Vì mục tiêu lợi nhuận, nhà
đầu tư cần xem xét đầu tư vốn của mình vào lĩnh vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao
đồng thời giảm thiểu tối đa những rủi ro có thể xảy ra. Do đó, nhà đầu tư cần biết rõ
kết quả đầu tư tạo ra loại sản phẩm nào được thị trường ưa chuộng sẽ dễ dàng tiêu
thụ và thực hiện việc thu lợi nhuận. Vì vậy, bước đầu tiên của quá trình đầu tư là
nghiên cứu nhu cầu thị trường để xác định lĩnh vực đầu tư. Sau đó, nhà đầu tư xem
xét các điều kiện để đánh giá mức độ thuận lợi hay khó khăn có thể xảy ra đối với
quá trình đầu tư bằng cách lập dự án đầu tư. Nếu dự án đầu tư được thẩm định và
đánh giá mang lại hiệu quả cho cả nhà đầu tư và địa bàn đầu tư thì dự án đó được
triển khai và vận hành đầu tư để mang lại kết quả mong đợi. Nhà đầu tư sau khi đạt
được kết quả mong muốn (mức lợi nhuận kỳ vọng) có thể chấm dứt hoạt động đầu
tư và thu hồi vốn kết thúc quá trình đầu tư.
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản về môi trường đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm và phân loại môi trường đầu tư
a) Khái niệm
Trong tài liệu nghiên cứu Các vấn đề ảnh hưởng tới đầu tư, Wim P.M
Vijverberg đã đưa ra quan điểm về môi trường đầu tư bao gồm tất cả các điều kiện

liên quan đến kinh tế, chính trị, hành chính, kết cấu hạ tầng tác động đến hoạt động
đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Vijverberg đã chỉ ra rất nhiều các
vấn đề ảnh hưởng tới đầu tư đối với các doanh nghiệp nhất là các vấn đề liên quan
đến chính sách như: chính sách tài chính, tín dụng; chính sách lao động; chính sách
Nhà
đầu tư
Nghiên cứu
nhu cầu SP
Triển khai
DAĐT
Vận
hành
DA ĐT
(1)
(2) (3)
(4)
(5)
Thu
hồi
vốn
ĐT
Nghiên cứu
lập DADT
5
thuế; chính sách thương mại, các quy định, kết cấu hạ tầng và các vấn đề liên quan
đến thu mua, tiêu thụ; chính sách phát triển các khu công nghiệp và các vấn đề liên
quan đến hỗ trợ kỹ thuật khác. Tất cả các chính sách này do Chính phủ hoặc từng
địa phương ban hành đều liên quan đến hiệu quả hoạt động của các dự án đầu tư nói
chung và các doanh nghiệp nói riêng.
Mỗi địa phương ban hành và thực hiện hàng loạt các chính sách kinh tế, xã

hội sẽ tạo ra những tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp trong một quá
trình kinh doanh. Chính điều đó ảnh hưởng đến việc ra quyết định tái đầu tư sản
xuất ở các giai đoạn tiếp theo của các doanh nghiệp. Việc triển khai các chính sách
của Nhà nước hay chính sách riêng của địa phương nhằm mục đích để các đối
tượng thụ hưởng lợi ích được đối xử bình đẳng như nhau. Có như vậy, mới tạo ra sự
cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp trên thị trường và là động lực để nền
kinh tế phát triển.
Từ những phân tích trên có thể xác định: Môi trường đầu tư là tổng thể các
yếu tố cấu thành, có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, có khả năng ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình hoạt động và kết quả cuối cùng của doanh
nghiệp. Ở phạm vi rộng hơn, môi trường đầu tư là toàn bộ các yếu tố liên quan đến
việc đưa một dự án đầu tư từ ý tưởng đi vào thực tiễn.
b) Phân loại môi trường đầu tư
Có nhiều cách tiếp cận để phân loại môi trường đầu tư tuỳ thuộc vào mục
đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề:
Căn cứ tiêu chí phạm vi tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp có thể phân chia thành môi trường bên trong và môi trường bên
ngoài.
Căn cứ vào tiêu chí nội dung tác động có thể phân chia môi trường đầu tư
thành môi trường luật pháp, chính trị, thể chế; môi trường công nghệ; môi trường
kinh tế; môi trường tự nhiên; môi trường xã hội …
Tiếp cận vấn đề dưới quan hệ thị trường có thể hiểu môi trường đầu tư là
tổng thể các yếu tố ảnh hưởng hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
6
nghiệp và dự án đầu tư như: nguồn cung, việc kiểm soát của Nhà nước, cơ chế vận
hành của từng thị trường, điều kiện cạnh tranh,…
1.1.2.2. Các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư
Yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư bao gồm yếu tố bên ngoài và
các yếu tố bên trong doanh nghiệp quyết định quá trình đầu tư. Ở môi trường bên
ngoài, căn cứ vào thị trường hàng hoá dịch vụ, nhà đầu tư xác định được nhu cầu về

sản phẩm tức là xác định lĩnh vực đầu tư và hướng sản xuất kinh doanh. Còn dựa
vào việc xem xét thị trường các yếu tố sản xuất (thị trường bất động sản, thị trường
lao động, thị trường vốn và thị trường KHCN) nhà đầu tư đánh giá những điều kiện
thuận lợi đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh hay đó là sự sẵn có của các yếu tố
đầu vào. Nhưng để lựa chọn được các nguồn đầu vào có chất lượng, đảm bảo khối
lượng cũng như sản phẩm tạo ra đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, bản thân nhà đầu tư
cần phải sở hữu tiềm lực tài chính và năng lực quản lý kinh doanh, vì đó được coi là
sức mạnh bên trong của doanh nghiệp. (WimP.M Vijverberg (2005), Các vấn đề
ảnh hưởng tới đầu tư).
Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động cũng như độ đa dạng của các loại thị trường và
cơ chế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình đầu tư lại chịu sự chi phối bởi các yếu tố, cụ thể:
Sự ổn định chính trị và thể chế
Sự ổn định về chính trị và thể chế thể hiện sự nhất quán trong chủ trương,
đường lối chính sách của Nhà nước nhằm hướng tới một mục tiêu chiến lược của
quốc gia, thể hiện sự yên bình và an toàn cho hoạt động đầu tư. Thực tế cho thấy
sự thành công hay thất bại trong việc thu hút các nhà đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào
sự ổn định về chính trị và thể chế nhưng cũng tuỳ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ
thể của từng nước mà hệ thống luật pháp của mỗi nước có sự hấp dẫn đầu tư khác
nhau. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự ổn định này còn phụ thuộc vào các mối
quan hệ quốc tế thể hiện sự nhất trí, hợp tác hay đối đầu giữa quốc gia với các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới từ đó ảnh hưởng đến sự phân biệt đối xử của quốc
7
gia với “quốc tịch” của các nguồn vốn. Vì thế, nơi tiếp nhận đầu tư càng ổn định về
chính trị và thể chế thì càng có khả năng thu hút được nhiều vốn đầu tư, đặc biệt là
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư cho địa phương.
Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, thổ nhưỡng, tài
nguyên khoáng sản Những yếu tố này ảnh hưởng đến khả năng thu hút nguồn vốn

đầu tư tập trung vào các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng và du
lịch. Nếu địa phương nào sở hữu những yếu tố tự nhiên thuận lợi sẽ dễ dàng thực hiện
cơ chế cởi mở để khai thác sẽ tận dụng được lợi thế để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng khai thác lợi thế so sánh.
Điều kiện xã hội và chất lượng nguồn nhân lực
Yếu tố này gắn bó với đặc điểm của cộng đồng dân cư ở từng địa phương. Nó
bao gồm các thành phần như cấu trúc dân số, dân tộc, tôn giáo, trình độ văn hoá, giáo
dục, đặc tính tâm lý, cơ cấu nghề nghiệp… là những yếu tố cơ bản hình thành nhu cầu
thị trường và quy mô thị trường về sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ, do đó ảnh hưởng
trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm. Số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của địa
phương ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh và đầu tư của nhà
đầu tư, là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng phục vụ cho quá trình đầu tư và
quyết định kết quả đầu tư.
Yếu tố công nghệ
Công nghệ mới, hiện đại thường sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, sức lao
động, đáp ứng được những tiêu chuẩn bảo vệ môi trường Công nghệ là yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh là một trong các
yếu tố quyết định đến hiệu quả của dự án đầu tư. Nhà đầu tư cần tìm hiểu và lựa chọn
công nghệ có trình độ cao với giới hạn khả năng tài chính cho phép trên thị trường
công nghệ với mục tiêu là sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng vượt trội hoặc giá
cả cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Yếu tố kinh tế vĩ mô
8
Là những yếu tố như tổng giá trị sản phẩm quốc dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế,
lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái, thu nhập của người lao động
Tổng giá trị sản phẩm quốc dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập của
người lao động chi phối đến ngân sách chi tiêu của người tiêu dùng là một yếu tố ảnh
hưởng đến cầu của thị trường và ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp. Còn các yếu tố như lãi suất, chính sách tiền tệ, lạm phát hay tỷ giá hối đoái ảnh
hưởng đến việc tiếp cận nguồn vốn và quy mô vốn kinh doanh của doanh nghiệp do đó

ảnh hưởng đến khả năng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật
Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm các lĩnh vực: giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo
dục, ngân hàng, thông tin liên lạc, vui chơi giải trí… phục vụ trực tiếp nhu cầu sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc gián tiếp thông qua người lao động Do đó,
hệ thống cơ sở hạ tầng thực hiện việc kết nối doanh nghiệp với các thị trường có mối
quan hệ với doanh nghiệp để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động tốt trong thị trường.
Tình hình cạnh tranh
Bất cứ doanh nghiệp nào hoạt động trong kinh tế thị trường đều phải đối mặt
với cạnh tranh. Cạnh tranh là sự giành giật những điều kiện thuận lợi về cung cấp đầu
vào hoặc đầu ra trong sản xuất và cung cấp dịch vụ để các hoạt động sản xuất kinh
doanh đạt kết quả tốt nhất. Vì vậy, để có những đầu vào tốt nhất và đầu ra tiêu thụ
thuận lợi nhất cần tiến hành các hoạt động cạnh tranh và rà soát hành động của các đối
thủ của mình (có thể là doanh nghiệp hoạt động cùng ngành hay là các doanh nghiệp
không cùng ngành đối với doanh nghiệp). Mặt khác, nhờ hoạt động cạnh tranh thúc
đẩy các doanh nghiệp nỗ lực cải thiện không ngừng mọi yếu tố sản xuất, hợp lý hoá
quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu thị trường và tồn
tại tốt hơn trên thị trường và là cơ sở để doanh nghiệp phát triển. Vì lẽ đó, cần có các
chính sách khuyến khích và thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp để
chọn lọc được những doanh nghiệp tốt dẫn dắt sự phát triển chung cho nền kinh tế.
Hệ thống luật pháp và cơ chế chính sách
Bao gồm các cơ chế chính sách, cơ chế quản lý và các thủ tục hành chính để thực
hiện, các điều kiện cần đáp ứng đối với dự án đầu tư và cả các vấn đề về hành lang pháp
9
lý đảm bảo cho việc thực hiện được dự án đầu tư. Có thể chia nhóm yếu tố này với ba
nội dung:
Một là: các yếu tố về cơ chế chính sách đầu tư, tạo hành lang pháp lý để
thực hiện dự án đầu tư, bao gồm: các bộ Luật và các văn bản pháp quy dưới
luật do Nhà nước ban hành; các văn bản pháp quy của các Bộ Ngành TW và
UBND tỉnh ban hành.

Hai là: các yếu tố về quản lý đầu tư bao gồm các quy trình, thủ tục hành chính
thực hiện các công đoạn của công tác quản lý; Cơ chế phối hợp; Phương tiện quản lý;
Bộ máy quản lý; Đội ngũ nhân lực quản lý.
Ba là: các yếu tố về điều kiện hấp thụ dự án đầu tư, bao gồm: Các điều kiện về
nguồn lực tài chính, nguồn vốn đối ứng; điều kiện về nguồn nhân lực vận hành dự án;
điều kiện về đất đai để thực hiện dự án; điều kiện về kết cấu hạ tầng và dịch vụ; điều
kiện về môi trường tư vấn đầu tư; điều kiện về thị trường.
Điều kiện quốc tế
Tất cả các yếu tố trên đều gắn với môi trường kinh tế, xã hội của một địa
phương hoặc một quốc gia cụ thể. Nhưng trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, các
hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia bị tác động, ảnh hưởng bởi
mối quan hệ kinh tế, chính trị của các nước trong khu vực và thế giới. Môi trường
quốc tế cũng chi phối đến dung lượng và chất lượng các thị trường, do đó ảnh
hưởng gián tiếp đến hoạt động của các dự án đầu tư và các doanh nghiệp. Vì thế,
nó cũng là một yếu tố mà nhà đầu tư cần xem xét trước khi tiến hành triển khai
hoạt động đầu tư.
1.1.2.3. Tính chất của môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là một hệ thống tác động đến hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp có các tính chất sau:
Tính khách quan
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn gắn liền với môi
trường đầu tư. Song, việc hình thành và phát triển những yếu tố đó luôn tồn tại một
cách độc lập và khách quan không phụ thuộc vào các ý muốn chủ quan của doanh
nghiệp. Mỗi một yếu tố cấu thành môi trường đều vận hành theo một quy luật nội
10
tại của nó có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi hoặc gây ra những rủi ro cho hoạt
động của doanh nghiệp. Do vậy, trong quá trình triển khai các hoạt động, doanh
nghiệp cần rà soát các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh và dự báo mức độ ảnh hưởng để ứng phó kịp thời. Có như vậy,
doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển đi lên nhằm tiến đến mục tiêu đã đề ra.

Tính hệ thống
Môi trường đầu tư là tổng thể bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, bản thân các
yếu tố đó luôn có mối quan hệ qua lại và tương tác lẫn nhau theo từng cấp độ và
phạm vi khác nhau. Mỗi sự thay đổi của một yếu tố cấu thành đều tác động lên
các yếu tố còn lại và tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cho nên,
doanh nghiệp thường tiến hành phân loại các yếu tố ảnh hưởng, dự đoán sự ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố và dự báo sự ảnh hưởng đến từng lĩnh vực hoạt
động của mình.
Tính động
Chỉ có thể nghiên cứu bản chất của từng yếu tố thuộc môi trường trong
những điều kiện nhất định, còn thực tế các yếu tố này luôn vận động không ngừng
cùng với sự tồn tại và phát triển của tự nhiên, xã hội và kinh tế. Môi trường đầu tư
tác động đến hoạt động của doanh nghiệp và bản thân hoạt động của doanh nghiệp
cũng phản ứng lại các tác động của môi trường và góp phần làm thay đổi môi
trường đầu tư. Do vậy, doanh nghiệp khi tiếp nhận các tác động của môi trường đầu
tư cần xem xét cách thức phản ứng trở lại để có thể cải thiện môi trường theo hướng
có lợi cho hoạt động của mình.
Tính kế thừa
Môi trường đầu tư mặc dù tồn tại khách quan với doanh nghiệp nhưng bản
chất môi trường đầu tư bao gồm cả yếu tố tự nhiên và xã hội. Những yếu tố này vận
động theo quy luật tự nhiên, kinh tế và xã hội có ảnh hưởng đến hoạt động của con
người nói chung và các hoạt động kinh tế nói riêng. Nhưng hoạt động cải biến môi
trường đầu tư của con người có tính chất chủ quan. Do đó phải nắm vững được bản
11
chất và xu hướng vận động, xem xét sự tác động trong quá khứ để tác động cho phù
hợp giữ lại những nhân tố tích cực, có lợi và thực hiện các tác động phù hợp để cải
biến các yếu tố còn hạn chế, chưa phù hợp để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi.
Tính cạnh tranh
Hoạt động đầu tư của con người về bản chất là hoạt động kinh tế với mục
tiêu là thu về lợi ích lớn hơn so với các nguồn lực đã bỏ ra. Đầu tư được tiến hành ở

những khu vực lãnh thổ nhất định, mỗi khu vực có các điều kiện tự nhiên, kinh tế,
xã hội khác nhau, cho nên sẽ ảnh hưởng nhất định đến kết quả đầu tư. Bên cạnh đó,
khi các dự án đầu tư vận hành không chỉ mang lại lợi ích cho nhà đầu tư mà nó
mang lại cả lợi ích cho nơi tiếp nhận đầu tư. Chính vì thế, các hoạt động cải biến
môi trường đầu tư của các địa phương thường phải tạo ra sức hấp dẫn để thu hút các
nguồn đầu tư. Lãnh đạo các địa phương đều nắm được sự cần thiết của hoạt động
đầu tư trên địa phương của mình và do đó tích cực đưa ra những cơ chế, chính sách
thông thoáng hơn so với các địa phương khác để thu hút đầu tư. Do đó, muốn hấp
dẫn các nhà đầu tư thì môi trường đầu tư cần có tính cạnh tranh.
1.1.2.4. Thước đo chất lượng môi trường đầu tư (PCI)
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) được hợp tác nghiên
cứu và trợ giúp của Cơ quan hợp tác Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ US-Aid, đã xác
định các chỉ số (indicators) để đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của
Việt Nam trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển
doanh nghiệp dân doanh, đó chính là chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI.
PCI là từ viết tắt của cụm từ Tiếng Anh “Provincial Competitiveness Index”.
Nó được công bố thí điểm lần đầu tiên vào năm 2005 gồm tám chỉ số thành phần,
mỗi chỉ số thành phần lý giải sự khác biệt về phát triển kinh tế giữa các tỉnh, thành
phố của Việt Nam, theo đó đã có 47 tỉnh, thành phố của Việt Nam được xếp hạng
và đánh giá. Lần thứ hai, năm 2006 hai lĩnh vực quan trọng của môi trường kinh
doanh: Thiết chế pháp lý và Đào tạo lao động, được đưa vào xây dựng chỉ số PCI.
Từ năm 2006 trở đi, tất cả các tỉnh thành của Việt Nam đều được đưa vào
bảng xếp hạng, đồng thời các chỉ số thành phần cũng được tăng cường thêm. Năm
2009, phương pháp luận PCI được điều chỉnh để phản ánh kịp thời sự phát triển
12
năng động của nền kinh tế và các thay đổi trong môi trường pháp lý tại Việt Nam.
Sau khi loại bỏ chỉ số Ưu đãi doanh nghiệp nhà nước, hiện nay, PCI còn 9 chỉ số
thành phần, theo đó, một tỉnh được đánh giá là thực hiện tốt tất cả 9 chỉ số thành
phần này cần có:
1) Chi phí gia nhập thị trường thấp;

2) Doanh nghiệp dễ dàng Tiếp cận đất đai và có mặt bằng kinh doanh ổn định;
3) Môi trường kinh doanh công khai minh bạch, doanh nghiệp có cơ hội tiếp
cận công bằng các thông tin cần cho kinh doanh và các văn bản pháp luật cần thiết;
4) Thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính và
thanh tra kiểm tra hạn chế nhất (Chi phí thời gian);
5) Chi phí không chính thức ở mức tối thiểu;
6) Lãnh đạo tỉnh năng động và tiên phong;
7) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, do khu vực nhà nước và tư nhân cung cấp;
8) Có chính sách đào tạo lao động tốt;
9) Hệ thống pháp luật và tư pháp để giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả.
1- Chi phí gia nhập thị trường
Chỉ số thành phần này đo thời gian một doanh nghiệp cần để đăng ký kinh
doanh, xin cấp đất và nhận được mọi loại giấy phép, thực hiện tất cả các thủ tục cần
thiết để bắt đầu tiến hành hoạt động kinh doanh.
2- Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất
Chỉ số thành phần này được tính toán dựa trên hai khía cạnh về đất đai
mà doanh nghiệp phải đối mặt - việc tiếp cận đất đai có dễ dàng không và khi
có đất rồi thì doanh nghiệp có được đảm bảo về sự ổn định, an toàn trong sử
dụng đất hay không.
3- Tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin
Chỉ số thành phần này đánh giá khả năng mà doanh nghiệp có thể tiếp cận
những kế hoạch của tỉnh và văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh;
tính sẵn có của các loại văn bản này, liệu chúng có được đưa ra tham khảo ý kiến
doanh nghiệp trước khi ban hành; tính có thể dự đoán được trong quá trình triển
13
khai thực hiện các văn bản đó; mức độ tiện dụng của trang web của tỉnh đối với
doanh nghiệp.
4- Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước
Chỉ số thành phần này đo lường thời gian mà các doanh nghiệp phải tiêu tốn
khi chấp hành các thủ tục hành chính, cũng như mức độ thường xuyên và thời gian

doanh nghiệp phải tạm dừng kinh doanh để các cơ quan Nhà nước của tỉnh thực
hiện việc thanh tra, kiểm tra.
5- Chi phí không chính thức
Chỉ số thành phần này đo lường mức chi phí không chính thức mà doanh
nghiệp phải trả và những trở ngại do những chi phí này gây nên đối với hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, việc trả những chi phí không chính thức như vậy có
đem lại kết quả hay "dịch vụ" như mong đợi không và liệu có phải các cán bộ nhà
nước sử dụng các quy định pháp luật của địa phương để trục lợi không?
6- Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Chỉ số thành phần này đo lường tính sáng tạo, sáng suốt của tỉnh trong quá
trình thực thi chính sách Trung ương cũng như trong việc đưa ra những sáng kiến
riêng nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời đánh giá khả năng hỗ trợ
và áp dụng những chính sách đôi khi chưa rõ ràng của Trung ương theo hướng có
lợi cho doanh nghiệp.
7- Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp
Chỉ số thành phần này đo lường số lượng và chất lượng các dịch vụ về pháp
lý, đầu tư, quan hệ công chúng, các dịch vụ đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất
và cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp trên địa bàn do khu vực nhà nước và tư
nhân có khả năng đáp ứng đươc.
8- Đào tạo lao động
Chỉ số thành phần này phản ánh mức độ và chất lượng những hoạt động đào
tạo nghề và phát triển kỹ năng do tỉnh triển khai nhằm hỗ trợ cho các ngành công
nghiệp địa phương cũng như tìm kiếm việc làm cho lao động địa phương.
9- Thiết chế pháp lý
14
Chỉ số thành phần này phản ánh lòng tin của doanh nghiệp tư nhân đối với
các thiết chế pháp lý của địa phương, việc doanh nghiệp có xem các thiết chế tại địa
phương này như là công cụ hiệu quả để giải quyết tranh chấp hoặc là nơi mà doanh
nghiệp có thể khiếu nại những hành vi nhũng nhiễu của cán bộ công quyền tại địa
phương hay không.

Phương pháp tiếp cận PCI có bốn đặc điểm đáng chú ý
Thứ nhất, chỉ số PCI khuyến khích chính quyền các tỉnh cải thiện chất lượng
công tác điều hành bằng cách chuẩn hóa điểm số xung quanh các thực tiễn điều
hành kinh tế tốt sẵn có tại Việt Nam mà không dựa trên các tiêu chuẩn điều hành
kinh tế lý tưởng nhưng khó đạt được, do đó đối với từng chỉ tiêu, có thể xác định
được một tỉnh “ngôi sao” hoặc tỉnh đứng đầu của chỉ tiêu đó, và về lý thuyết bất kỳ
tỉnh nào cũng có thể đạt được điểm số PCI tuyệt đối là 100 điểm bằng cách áp dụng
các thực tiễn tốt sẵn có.
Thứ hai, bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các điều kiện truyền thống ban
đầu (các nhân tố cơ bản đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trong một tỉnh và gần như
không thể thay đổi trong ngắn hạn như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, quy mô của thị
trường và nguồn nhân lực), chỉ số PCI giúp xác định và hướng vào các thực tiễn
điều hành kinh tế tốt có thể đạt được ở cấp tỉnh.
Thứ ba, bằng cách so sánh đối chiếu giữa các thực tiễn điều hành với kết
quả phát triển kinh tế, chỉ số PCI giúp lượng hóa tầm quan trọng của các thực tiễn
điều hành kinh tế tốt đối với thu hút đầu tư và tăng trưởng. Nghiên cứu chỉ ra được
mối tương quan giữa thực tiễn điều hành kinh tế tốt với đánh giá của doanh nghiệp,
và sự cải thiện phúc lợi của địa phương. Mối liên hệ cuối cùng này đặc biệt quan
trọng vì nó cho thấy các chính sách và sáng kiến thân thiện với doanh nghiệp
khuyến khích họ hoạt động theo hướng đem lại lợi ích cho cả chủ doanh nghiệp,
người lao động và cộng đồng thông qua tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho cả
nền kinh tế.
Thứ tư, các chỉ tiêu cấu thành chỉ số PCI được thiết kế theo hướng dễ hành
động, đây là những chỉ tiêu cụ thể cho phép các cán bộ công chức của tỉnh đưa ra
các mục tiêu phấn đấu và theo dõi được tiến bộ trong thực hiện. Các chỉ tiêu này
15
cũng rất thực chất vì được doanh nghiệp nhìn nhận là các chính sách then chốt đối
với sự thành công của công việc kinh doanh.
1.1.3. Sự cần thiết phải cải thiện môi trường đầu tư
1.1.3.1. Vai trò của đầu tư

Để thực hiện được mục tiêu cơ bản của quá trình phát triển kinh tế-xã hội
qua các thời kỳ khác nhau đều cần phải tiến hành chuyển đổi từ cơ cấu kinh tế lạc
hậu sang cơ cấu kinh tế hợp lý và hiện đại. Muốn làm được điều đó phải thực hiện
quá trình đầu tư, thông qua các chính sách đầu tư, Nhà nước hướng dòng vốn tập
trung vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ trên cơ sở nâng cao được tỷ trọng
ngành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Từ đó, nâng cao trình
độ kỹ thuật của nền kinh tế phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công
nghệ trên thế giới, cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các
địa phương, các ngành và các thành phần kinh tế và tham gia vào phân công lao
động quốc tế. Trên cơ sở đó tạo động lực để kinh tế của các vùng, các ngành và các
thành phần kinh tế phát triển nhanh hơn và giảm dần tình trạng mất cân đối trong cơ
cấu kinh tế quốc gia.
1.1.3.2. Cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư, khai thác lợi thế so sánh
để phát triển kinh tế địa phương
Để đáp ứng điều kiện về nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội thì bản thân địa phương cần có sự hấp dẫn để thu hút sự chú ý của các nhà đầu
tư. Sức hút của một nền kinh tế địa phương không có gì khác là phải thể hiện được
quy mô và tốc độ phát triển kinh tế, xã hội. Điều đó chỉ có được thông qua việc phát
triển các doanh nghiệp địa phương.
Những tiềm năng, lợi thế sẵn có của mỗi địa phương chỉ trở thành nguồn lực
thực sự khi được sử dụng phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa
phương. Những tiềm năng này không phải là vô hạn cho nên trong quá trình khai
thác và sử dụng cần tính toán hiệu quả. Khi chúng trở thành các nguồn lực đáp ứng
nhu cầu đầu tư cần có sự hỗ trợ thuận lợi từ phía môi trường. Như vậy, nếu môi
16
trường đầu tư không tốt sẽ dẫn đến việc khai thác, sử dụng lãng phí các nguồn lực
và đưa đến tình trạng phát triển không bền vững của địa phương trong tương lai.
1.1.3.3. Do sự cạnh tranh gay gắt giữa các địa phương và các quốc gia nhằm thu
hút vốn đầu tư
Để thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, bản thân các địa

phương cần tạo ra những điều kiện hấp dẫn và gợi ra được những kết quả tốt đẹp mà chủ
đầu tư sẽ nhận được trên địa phương của mình. Vì lẽ đó, dựa trên chính sách đầu tư
chung của Nhà nước và điều kiện cụ thể, các địa phương tiến hành nhiều biện pháp,
chính sách ưu đãi đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư ở bên ngoài địa phương.
Nhưng vấn đề đặt ra là hệ thống các chính sách ưu đãi đầu tư khi ban hành,
triển khai thực hiện hay xảy ra sự chồng chéo và mâu thuẫn, và mỗi chính sách có
hiệu lực trong một khoảng thời gian riêng. Do vậy, để tạo ra sự thống nhất trong thu
hút vốn đầu tư, cũng như quản lý hoạt động đầu tư, các địa phương đã nghiên cứu,
rà soát và triển khai đồng bộ các chính sách nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi
thay thế cho những biện pháp, chính sách ưu đãi đầu tư riêng lẻ.
Vì vậy, trong điều kiện cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư mỗi địa phương cần
phải hoàn thiện hơn nữa về môi trường đầu tư để tăng cường sự thu hút đầu tư bên
ngoài. (Nguyễn Thị Thơm (2008), "Cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu
tư, giải quyết việc làm ở Việt Nam", Tạp chí nghiên cứu kinh tế.).
1.1.4. Nội dung cải thiện môi trường đầu tư
1.1.4.1. Cải thiện môi trường pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh minh bạch
và bình đẳng
Để thu hút đầu tư, trước hết hệ thống luật pháp đầu tư của nước sở tại phải
đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư nếu hoạt động đầu
tư của họ không làm phương hại đến an ninh quốc gia và môi trường cạnh tranh
lành mạnh
Cùng hoạt động trong một môi trường có rất nhiều doanh nghiệp hay dự án
vận hành. Có cả những dự án, doanh nghiệp cùng hoạt động trong một ngành. Có
những dự án, doanh nghiệp có sản phẩm có thể thay thế cho nhau, hoặc có những
dự án, doanh nghiệp sử dụng giống nhau một số yếu tố đầu vào. Vì lẽ đó, giữa các
17
dự án hay các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động có thể xảy ra tình trạng tranh
giành khách hàng khi tiêu thụ sản phẩm hoặc tranh giành những yếu tố đầu vào. Một
thực tế đang tồn tại là các doanh nghiệp, dự án thuộc thành phần kinh tế Nhà nước
(hoặc có vốn góp Nhà nước) thường được hưởng những đặc ân và đặc quyền giúp

họ luôn chiến thắng trong cạnh tranh, từ đó làm méo mó các quy tắc cạnh tranh,
phương hại đến các thành viên khác trên thị trường, không khuyến khích được các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển, làm hạn chế nguồn vốn
đầu tư.
Vì lí do đó, môi trường pháp lý thuận lợi phải thể hiện được vai trò đảm bảo
khả năng thực thi của hệ thống pháp luật thông qua việc bảo vệ những quyền và lợi
ích hợp pháp của các pháp nhân đối với tài sản của họ. Trong bối cảnh sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật ngày càng gia tăng, giá trị tài sản của doanh nghiệp tăng lên
nhanh chóng đặc biệt là các tài sản vô hình như nhãn hiệu, bản quyền, bằng phát
minh, sáng chế… do quá trình lao động trí óc tạo ra lại rất dễ bị đánh cắp và vi
phạm dưới sức ép cạnh tranh ở trên thị trường. Cho nên, một vấn đề đặt ra cho môi
trường pháp lý là việc thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tài sản của
doanh nghiệp. Do đó, cần phải xây dựng Luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và đưa ra
các quy định, chế tài phù hợp để thực hiện quyền này của các doanh nghiệp.
1.1.4.2. Cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
Bộ máy công quyền với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng và
cải cách các thủ tục hành chính để hạn chế việc phát sinh các chi phí không chính
thức và tiết kiệm thời gian giao dịch cho doanh nghiệp. Bộ máy hành chính hiệu
quả không chỉ quyết định sự thành công trong thu hút vốn đầu tư mà trong cả vấn
đề sử dụng nguồn vốn. Bộ máy hành chính gọn nhẹ, sáng suốt, các thủ tục hành
chính và những quy định pháp lý đơn giản, công khai và nhất quán, được thực hiện
bởi những con người có trình độ chuyên môn cao và tôn trọng pháp luật sẽ là những
yếu tố quan trọng khi quyết định đầu tư và mở rộng đầu tư của các nhà đầu tư trong
nước cũng như nước ngoài.
Hiệu lực quản lý nhà nước gắn liền với sự vận hành của bộ máy công quyền
đảm bảo việc thực thi các quy định cũng như thủ tục hành chính. Ở mỗi địa phương
18
hay quốc gia khác nhau hiệu lực quản lý Nhà nước là khác nhau sẽ tạo ra những
môi trường đầu tư khác nhau. Chính vì thế, ngay trong một quốc gia môi trường đầu
tư cũng có sự phân hoá giữa các địa phương và nó cũng là yếu tố quan trọng để tạo

ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương.
Để đánh giá hiệu quả công tác cải thiện môi trường đầu tư cần có các tiêu chí
để đo lường sự thay đổi tích cực về môi trường đầu tư do sự quản lý, giám sát của
các cơ quan chức năng ở từng địa phương. Những tiêu chí đánh giá này sẽ đánh giá
sự nỗ lực của bộ máy hành chính trong việc cải thiện môi trường đầu tư để thu hút
các tổ chức, cá nhân đến địa phương tiến hành hoạt động đầu tư. Các tiêu chí đó là:
Sự nhạy cảm kinh tế và hiếu khách của lãnh đạo địa phương.
Việc cung cấp thông tin đầu tư ban đầu rõ ràng và đáng tin cậy.
Thời gian cấp phép nhanh, các thủ tục đơn giản.
Sự hỗ trợ hiệu quả của các cơ quan chức năng trong quá trình hoạt động.
Công việc trả lời nhanh chóng của các cơ quan nhà nước đối với các yêu cầu
của nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Môi trường thân thiện giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp.
Thực hiện đối thoại chính sách thường xuyên và có hiệu quả giữa nhà đầu tư,
doanh nghiệp với lãnh đạo.
Khả năng cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh.
1.1.4.3. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng sản xuất, kỹ thuật
Việc phát triển và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật không chỉ là điều
kiện để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu
tư triển khai các dự án mà còn là một cơ hội thuận lợi cho những địa phương tiếp nhận
đầu tư có thể khai thác lợi ích nhiều hơn, đầy đủ hơn những lợi ích phục vụ nhu cầu xã
hội khi vận hành hệ thống này.
Tuy vậy, hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng sản xuất, kỹ thuật này đòi hỏi nguồn
vốn đầu tư rất lớn, cho nên địa phương phải huy động cao độ mọi nguồn lực ở bên
trong cũng như mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại để thu hút các nguồn lực ở bên
ngoài. Chính vì thế để xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng sản xuất, kỹ thuật có trình
độ cao đáp ứng đòi hỏi của các dự án đầu tư, địa phương phải tiến hành việc lựa chọn
19
trình độ công nghệ phù hợp với trình độ công nghệ của địa phương và quốc gia đồng
thời phải có khả năng bắt kịp với công nghệ tiên tiến ở khu vực và thế giới. Do đó, môi

trường khoa học công nghệ của quốc gia cũng như khu vực và thế giới sẽ tác động đến
việc lựa chọn công nghệ của địa phương trong quá trình cải thiện môi trường đầu tư.
1.1.4.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên sự thành
công của doanh nghiệp. Muốn trở thành một doanh nghiệp hàng đầu có khả năng
chiếm lĩnh được thị trường, vấn đề quan trọng là doanh nghiệp đó phải có nhiều
lao động có tay nghề và những nhà quản lý giỏi. Thực tế chứng minh rằng, chất
lượng nguồn nhân lực có tác động rất lớn đến khả năng thu hút đầu tư của các nước,
kể cả những nước nghèo. Chất lượng nguồn nhân lực của một quốc gia thấp sẽ hạn
chế khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý yếu kém, gây ảnh hưởng
trực tiếp đến sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm và làm giảm tính cạnh tranh
của quốc gia đó. Ngược lại, chất lượng nguồn nhân lực của một quốc gia cao sẽ là
điều kiện hàng đầu để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và phát triển
mạnh mẽ, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ có ý nghĩa quan
trọng cho sự phát triển kinh tế mà còn đóng vai trò tích cực trong việc thu hút đầu
tư. Vì thế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đầu tư cho hệ thống giáo
dục, đào tạo sẽ trở thành một sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư ở cả trong nước và
ngoài nước. Việc ưu tiên cho giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực là không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc
gia, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh để thu hút đầu tư hiện nay.
1.1.4.5. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường xúc tiến đầu tư
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại vô cùng quan trọng vì nó là điều kiện tiên quyết để đảm bảo đầy đủ các nguồn
lực phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua quá trình tự do hoá thương
mại và đầu tư. Để có thể mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, địa phương cần chủ
động tiến hành các hoạt động giao lưu văn hoá, kinh tế, du lịch, giáo dục… thông
qua đó để các địa phương hay quốc gia bên ngoài hiểu biết về những lợi thế, tiềm
năng và các cơ hội hợp tác kinh doanh. Trên cơ sở đó, sẽ thu hút các nguồn lực
20

thông qua hoạt động đầu tư quốc tế trực tiếp. Nhờ có hoạt động này chủ đầu tư sẽ di
chuyển các yếu tố như vốn, công nghệ, nhân lực trình độ cao cùng với kỹ năng quản
lý tiến bộ trong quá trình điều hành dự án. Như vậy, các yếu tố này lại có tác động
tích cực đến môi trường đầu tư của nó cụ thể là nâng cao kiến thức, kỹ năng, tay
nghề của lao động; nâng cao trình độ công nghệ của nơi tiếp nhận và bản thân địa
phương sẽ tiến hành cải cách các điều kiện tiếp nhận dự án …
Vì thế, thiết lập và duy trì tốt các mối quan hệ quốc tế, xây dựng các chương
trình xúc tiến đầu tư để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển các yếu
tố sản xuất phục vụ cho quá trình đầu tư cũng là một biện pháp để mở rộng thị
trường tiêu thụ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là
một nhân tố tích cực kích thích cũng như thu hút các nguồn vốn đầu tư phục vụ cho
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tóm lại, để có được môi trường đầu tư thuận lợi phục vụ tốt hoạt động đầu
tư cần tạo ra môi trường pháp lý minh bạch, công khai; đơn giản hoá các thủ tục
hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng
sản xuất, kỹ thuật hiện đại trên cơ sở sử dụng các nguồn lực bên trong và thu hút
các nguồn lực bên ngoài thông qua việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ
động xúc tiến đầu tư. Những hành động đó có ý nghĩa to lớn trong việc thu hút vốn
đầu tư và cho phép vận hành dự án đầu tư có hiệu quả. Từ đó nâng cao tốc độ phát
triển kinh tế, lành mạnh các yếu tố kinh tế vĩ mô và thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh và tái đầu tư mở rộng.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư
Để tiến hành đầu tư, trước hết chủ đầu tư cần tiếp cận thị trường, do đó cần
xem xét các yếu tố của hoạt động này bao gồm: tình hình an ninh, chính trị - xã hội,
sự thân thiện và năng động của chính quyền, thủ tục thành lập doanh nghiệp, vấn đề
xuất nhập cảnh; sự công khai, minh bạch chính sách đầu tư
Giai đoạn tiếp theo, khi tiến hành triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh
tức là vận hành quá trình đầu tư. Trong giai đoạn này, nhà đầu tư cần phải kiểm soát
chặt chẽ mọi hoạt động và xác định rõ các yếu tố có liên quan đến hoạt động kinh
doanh, đó là: ưu đãi đầu tư; thuế; xuất nhập khẩu; tuyển dụng lao động; tiếp cận đất

đai; chi phí sản xuất; khiếu kiện; bảo hộ tài sản; lĩnh vực được phép kinh doanh;
chất lượng cơ sở hạ tầng …
21
Sau khi tiến hành đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định, nếu nhà đầu
tư không muốn tiếp tục kinh doanh hoặc dự án đầu tư bị phá sản thì nhà đầu tư cần
xem xét đến các yếu tố có liên quan đến việc chấm dứt hoạt động đầu tư như: Phá
sản, giải thể, khiếu kiện và giải quyết tranh chấp liên quan đến phân chia tài sản.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư được minh hoạ ở sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ 1.2: Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư
Từ sơ đồ trên, ta nhận thấy hầu hết là các yếu tố thuộc về cơ chế, chính sách,
thủ tục liên quan đến đầu tư và tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư. Việc tạo ra
các yếu tố này gắn với vai trò hoạt động của chính quyền điều hành các hoạt động
kinh tế, xã hội của từng địa phương hay của từng quốc gia.
Vì vậy, nghiên cứu môi trường đầu tư phần lớn là xem xét, phân tích đánh
giá các ảnh hưởng và các yếu tố tác động của Bộ máy chính quyền đến hoạt động
của các nhà đầu tư. (PGS.TS. Thái Bá Cẩn, "Làm gì để cải thiện môi trường đầu tư
ở Việt Nam", tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán số 6 (11)- 2004.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia về cải thiện môi trường đầu tư
1.2.1.1. Kinh nghiệm cải thiện môi trường đầu tư của Singapore
Nhà đầu

Tiếp cận thị
trường
Hoạt động
kinh doanh
Kết thúc hoạt
động KD
- An ninh chính trị, xã hội
- Thủ tục thành lập doanh

nghiệp
- Xuất nhập cảnh
- Minh bạch, công khai chính
sách đầu tư
- Thuế
- Xuất, nhập cảnh
- Tuyển dụng lao động
- Tiếp cận đất đai
- Yếu tố chi phí
- Khiếu kiện và giải quyết
tranh chấp
- Bảo hộ tài sản
- Lĩnh vực được phép KD
- Minh bạch, công khai -
Cơ sở hạ tầng
- Giải thể
- Phá sản
- Giải quyết tranh
chấp liên quan đến
phân chia tài sản
22

×