i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CN : Công nghiệp
CNH : Công nghiệp hóa
DS : Dân số
HĐH : Hiện đại hóa
LLLĐ : Lực lượng lao động
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
UBND : Ủy ban nhân dân
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Đóng góp của luận văn 3
5. Bố cục luận văn 3
1.1. Việc làm và chính sách việc làm 4
1.1.2. Chính sách việc làm 15
1.2. Giải quyết việc làm 17
1.2.1. Giải quyết việc làm và vai trò của giải quyết việc làm 17
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm tại chỗ 20
1.3. Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới và của các địa phương khác về
giải quyết việc làm và bài học cho Phú Lương 28
1.3.1. Kinh nghiệm thực tế của các nước trên thế giới 28
1.3.2. Kinh nghiệm thực tế của các tỉnh trong nước 33
1.3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên 35
2.1. Câu hỏi nghiên cứu 37
2.2. Phương pháp nghiên cứu 37
2.2.1. Chọn điểm nghiên cứu 37
2.2.2. Thu thập dữ liệu 38
2.2.3. Phương pháp xử lý dữ liệu 39
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 40
3.1. Tổng quan về huyện Phú Lương - tỉnh Thái Nguyên 42
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 42
3.1.2. Điều kiện kinh tế 44
3.1.3. Điều kiện văn hóa 51
3.2. Thực trạng lao động, việc làm và giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn của
huyện Phú Lương 52
3.2.1. Thực trạng lao động 52
3.2.2. Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm 56
3.2.3. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm 62
iii
3.3. Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho lao động của huyện Phú Lương 63
3.3.1. Tổng quan các chương trình đã thực hiện để giải quyết việc làm 63
3.3.2. Thành tựu đạt được 68
3.3.3. Tồn tại và nguyên nhân 70
3.3.4. Bài học kinh nghiệm 72
4.1.Quan điểm và mục tiêu giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện Phú Lương
74
4.1.1. Quan điểm giải quyết việc làm tại chỗ 74
4.1.2. Mục tiêu giải quyết việc làm tại chỗ 77
4.2. Giải pháp giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện Phú Lương 78
4.2.1. Giải pháp gắn với phát triển kinh tế - xã hội 78
4.2.2. Giải pháp về thị trường lao động 82
4.2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 84
4.2.5. Giải pháp về sử dụng nguồn nhân lực của huyện 87
4.4. Điều kiện thực hiện các giải pháp giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện
Phú Lương 89
4.4.1. Về phía Nhà nước và các cơ quan công quyền 89
4.4.2. Về phía các doanh nghiệp 90
4.4.3. Về phía người lao động 90
iv
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Đóng góp của luận văn 3
5. Bố cục luận văn 3
1.1. Việc làm và chính sách việc làm 4
1.1.2. Chính sách việc làm 15
1.2. Giải quyết việc làm 17
1.2.1. Giải quyết việc làm và vai trò của giải quyết việc làm 17
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm tại chỗ 20
1.3. Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới và của các địa phương khác về
giải quyết việc làm và bài học cho Phú Lương 28
1.3.1. Kinh nghiệm thực tế của các nước trên thế giới 28
1.3.2. Kinh nghiệm thực tế của các tỉnh trong nước 33
1.3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên 35
2.1. Câu hỏi nghiên cứu 37
2.2. Phương pháp nghiên cứu 37
2.2.1. Chọn điểm nghiên cứu 37
2.2.2. Thu thập dữ liệu 38
2.2.3. Phương pháp xử lý dữ liệu 39
2.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 40
3.1. Tổng quan về huyện Phú Lương - tỉnh Thái Nguyên 42
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 42
3.1.2. Điều kiện kinh tế 44
3.1.3. Điều kiện văn hóa 51
3.2. Thực trạng lao động, việc làm và giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn của
huyện Phú Lương 52
3.2.1. Thực trạng lao động 52
3.2.2. Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm 56
3.2.3. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm 62
3.3. Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho lao động của huyện Phú Lương 63
v
3.3.1. Tổng quan các chương trình đã thực hiện để giải quyết việc làm 63
3.3.2. Thành tựu đạt được 68
3.3.3. Tồn tại và nguyên nhân 70
3.3.4. Bài học kinh nghiệm 72
4.1.Quan điểm và mục tiêu giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện Phú Lương
74
4.1.1. Quan điểm giải quyết việc làm tại chỗ 74
4.1.2. Mục tiêu giải quyết việc làm tại chỗ 77
4.2. Giải pháp giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện Phú Lương 78
4.2.1. Giải pháp gắn với phát triển kinh tế - xã hội 78
4.2.2. Giải pháp về thị trường lao động 82
4.2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 84
4.2.5. Giải pháp về sử dụng nguồn nhân lực của huyện 87
4.4. Điều kiện thực hiện các giải pháp giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện
Phú Lương 89
4.4.1. Về phía Nhà nước và các cơ quan công quyền 89
4.4.2. Về phía các doanh nghiệp 90
4.4.3. Về phía người lao động 90
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối
với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các
hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn
bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Giải quyết việc làm là vấn đề mang tính
toàn cầu, là một thách thức còn khá lâu dài với toàn thể nhân loại nhằm đảm bảo xã
hội công bằng, văn minh, duy trì và bảo tồn những giá trị văn hóa của dân tộc.
Đối với nước ta giải quyết việc làm còn là giải quyết một vấn đề cấp thiết
trong xã hội đồng thời là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao
động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động đáp ứng nhu cầu của quá trình CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế, là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người. Sau
hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm ở nước ta đã
từng bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật khách quan của kinh tế
hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, thực trạng vấn đề việc
làm ở nước ta hiện nay vẫn còn có nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát
triển của nền kinh tế, đặc biệt là từ sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại
quốc tế (WTO). Những tồn tại chủ yếu đó thể hiện trên nhiều mặt. Cung- cầu lao
động, việc làm mất cân đối lớn (cung lớn hơn cầu); tỉ lệ thất nghiệp giảm chậm; số
doanh nghiệp trên đầu dân số còn thấp nên khả năng tạo việc làm và thu hút lao
động còn hạn chế. Tình trạng thiếu việc làm còn cao, chính sách tiền lương, thu
nhập chưa động viên được người lao động gắn bó tận tâm với công việc. Do vậy,
giải quyết việc làm cho người lao động là đòi hỏi cấp bách.
Thái Nguyên là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi phía Bắc, có mật độ dân
số cao, điều kiện tự nhiên phức tạp, trình độ dân trí thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, thu
nhập thấp, đời sống khó khăn. Để thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX và Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI về phát triển kinh tế xã
hội tỉnh năm 2015, phấn đấu đưa Thái Nguyên thoát khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao một bước rõ rệt về đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề cơ
2
bản cho Thái Nguyên trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020 thì vấn đề hết sức
quan trọng là tạo việc làm cho người lao động nhằm nâng cao mức sống của người
dân, phát triển kinh tế xã hội.
Huyện Phú Lương là huyện có 85% dân số với công việc chính là sản xuất
nông nghiệp. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, cùng với việc
ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp ngày càng
nhiều và có hiệu quả nên dẫn đến tình trạng giảm đi rõ rệt về nhu cầu sử dụng lao
động. Thêm vào đó, nguồn lực đất đai hạn chế do nhu cầu phát triển đô thị và một
số mục đích khác đã dẫn đến tình trạng dư thừa lao động dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp ở
địa phương tăng lên là vấn đề bất cập cần được giải quyết. Xuất phát từ đó tôi lựa
chọn đề tài “Giải pháp giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện Phú Lương
- tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của đề tài là tìm ra giải pháp phù hợp để giải
quyết việc làm tại chỗ cho người lao động trên địa bàn huyện Phú Lương.
Từ mục tiêu cơ bản đó, các mục tiêu nghiên cứu chính được xác định là:
- Làm rõ bản chất và vai trò của việc làm và giải quyết việc làm;
- Phân tích và đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm trên địa
bàn huyện Phú Lương;
- Đề xuất các giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao
động trên địa bàn huyện Phú Lương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động. Với đối
tượng này, đề tài đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và tiến hành khảo sát
thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cùng với việc đề xuất giải pháp giải
quyết việc làm tại chỗ cho người lao động trên địa bàn huyện Phú Lương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm.
+ Về không gian: Giới hạn tại địa bàn huyện Phú Lương.
+ Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2010 đến 2013.
3
4. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn,
là tài liệu giúp huyện Phú Lương xây dựng kế hoạch phát triển nguồn lao động, đảm
bảo việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người dân, phát triển kinh
tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo huyện Phú Lương.
Luận văn nghiên cứu và phản ánh khá toàn diện về việc làm, lao động và tình
hình phát triển kinh tế xã hội để tạo việc làm ở huyện Phú Lương. Các giải pháp đưa ra
có ý nghĩa thiết thực đối với tạo việc làm cho người lao động cũng như đóng góp cho sự
phát triển kinh tế – xã hội chung của huyện Phú Lương và các địa phương có điều kiện
tương tự.
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và giải quyết việc làm.
Chương 2: Câu hỏi, phương pháp và chỉ tiêu nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về thực trang việc làm và giải quyết việc làm
tại chỗ trên địa bàn huyện Phú Lương – tỉnh Thái Nguyên
Chương 4: Giải pháp giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện Phú
Lương – tỉnh Thái Nguyên
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. Việc làm và chính sách việc làm
1.1.1. Việc làm và thị trường việc làm
1.1.1.1. Việc làm và nguồn lao động
Việc làm đối với mỗi người lao động, được làm việc gắn với mỗi công việc
cụ thể, không chỉ để tồn tại mà còn là sự hoàn thiện bản thân. Đối với xã hội, việc
làm tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Việc làm là mối quan tâm số một của người lao động và giải quyết việc làm là
công việc quan trọng của tất cả các quốc gia. Cuộc sống của bản thân và gia đình
người lao động phụ thuộc rất lớn vào công việc của họ. Sự tồn tại và phát triển của
mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách giải quyết việc làm.
Trong thời kỳ nguyên thủy với nền sản xuất giản đơn thì việc làm của con
người là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao
động theo mục đích lao động của mình. Các hoạt động săn bắn, hái lượm… là hoạt
động tạo ra của cải, là việc làm con người hoạt động để phục vụ đời sống của bộ tộc.
Trong cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp, người lao động được coi là
có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể) và quan niệm về việc làm là những
công việc đòi hỏi người làm việc phải có một chuyên môn nhất định nào đó để tạo ra
một thu nhập nhất định. Trong chế độ đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành
phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm và thất nghiệp…
Hiện nay, nước ta với nền kinh tế đã chuyển sang một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, với nhiều tư duy thay đổi thì quan niệm về việc làm cũng đã thay
đổi một cách căn bản, được hiểu rộng hơn, đúng đắn và khoa học hơn, đó là các
hoạt động của con người nhằm tạo ra thu nhập, mà pháp luật không cấm. Điều 13,
chương II Bộ luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận là việc làm”. [13,tr11]
5
Như vậy, việc làm là các hoạt động lao động được hiểu như sau: làm các
công việc để nhận tiền công, tiền lương hoặc hiện vật của công việc đó. Làm những
công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình, cho
cộng đồng, kể cả những công việc không được trả công bằng hiện vật.
Theo khái niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai
điều kiện:
- Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
các thành viên trong gia đình.
- Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị pháp
luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện này có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của
một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Quan niệm này đã góp phần mở rộng
khái niệm về việc làm, khi đa số lao động đương thời chỉ muốn chen chân vào các
doanh nghiệp, cơ quan nhà nước. Về mặt khoa học, quan điểm của Bộ luật Lao
động nêu đầy đủ yếu tố cơ bản nhất của việc làm.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy việc làm phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong các giai đoạn phát triển khác
nhau. Mặt khác, việc mở rộng hay thu hẹp việc làm, phát huy hay kìm hãm năng
lực tạo việc làm phụ thuộc nhiều vào yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, địa
phương, doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong quan điểm đó còn có một số hạn chế sau khi áp dụng vào thực
tế như sau: Thứ nhất, hoạt động nội trợ không được coi là việc làm trong khi đó hoạt
động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi ích vật chất không hề
nhỏ. Thứ hai, khó có thể so sánh tỷ lệ người có việc làm giữa các quốc gia với nhau
vì quan niệm việc làm giữa các quốc gia có thể khác nhau phụ thuộc vào pháp luật,
phong tục tập quán… có những nghề ở nước này cho phép và được coi là việc làm,
nhưng ở quốc gia khác lại cấm và không được coi là việc làm.
“Người có việc làm” là những người làm việc và được trả tiền công, lợi
nhuận hoặc thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo ra việc làm vì lợi ích và thu nhập của gia đình nhưng không
6
nhận được tiền công hoặc hiện vật cho những công việc đó. Như vậy, người có việc
làm khi làm những công việc mà pháp luật không cấm và được trả công, hoặc thu
được lợi nhuận hoặc có ích cho gia đình…
Trong nền kinh tế thị trường, việc làm được giải quyết thông qua quan hệ
cung, cầu lao động và cạnh tranh trên thị trường lao động. Cơ chế thị trường có khả
năng điều tiết việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực lao động của xã hội. Cơ chế
này có mặt tích cực là đảm bảo quyền tự do lựa chọn của người lao động và người
sử dụng lao động, kích thích tính tích cực, năng động của họ, điều chỉnh nhu cầu lao
động xã hội hết sức linh hoạt. Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm đầy đủ, việc làm
hợp lý, việc là tự do.
“Việc làm đầy đủ” là thỏa mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế, hay nói cách khác việc làm đầy đủ ở trạng thái mà
mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm được việc làm trong
thời gian tương đối ngắn” [16,tr23]. Để đạt được mức độ đảm bảo việc làm đầy đủ
phải có một quá trình nhất định. Quá trình ấy ngắn hay dài tùy thuộc vào trình độ,
hoàn cảnh khách quan, chủ quan của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Việc làm đầy
đủ mới chỉ nói lên sự giải quyết việc làm về mặt số lượng, chưa tính đến việc làm
đó có phù hợp với khả năng, trình độ sở trường của người lao động hay không.
“Việc làm hợp lý” là sự thỏa mãn nhu cầu làm việc cho bất kỳ ai có khả năng
làm việc, không chỉ tính trong nền kinh tế và phù hợp với trình độ và nguyện vọng
của họ. Việc làm hợp lý là việc làm không chỉ tính về mặt số lượng, mà còn tính
đến khả năng, trình độ, nguyện vọng, năng khiếu của người lao động, là sự phù hợp
về cả số lượng và chất lượng của các yếu tố con người, vật chất của sản xuất và xã
hội, sự hợp lý giữa lợi ích cá nhân người lao động với lợi ích xã hội. Việc làm hợp
lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn hẳn so với việc làm
đầy đủ. Đó là bước phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ.
Hiện nay, ở nước ta số người chưa có việc làm còn khá lớn, vì vậy nhiệm vụ
đặt ra trước mắt là giải quyết việc làm đầy đủ. Cùng với quá trình phát triển kinh tế
xã hội, cũng đồng thời giải quyết việc làm một cách hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh
tế xã hội. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại ngày càng phát
triển và quá trình toàn cầu hóa từng bước nâng cao tỷ trọng việc làm hợp lý.
7
“Việc làm tự do” là việc làm trong đó người lao động được tự do chọn việc
làm với nghề nghiệp, thời gian thích hợp, phát huy cao nhất hiệu quả sáng tạo của
mình. Hiện nay, việc làm tự do ở nước ta còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Tỷ lệ việc làm tự do
sẽ tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và khoa học kỹ thuật.
“Việc làm bền vững” gồm 6 yếu tố: (1) Cơ hội việc làm; (2) làm việc trong
điều kiện tự do; (3) việc làm có năng suất; (4) công bằng; (5) an ninh việc làm và
(6) bảo vệ nhân phẩm. Hai yếu tố đầu tập trung vào tính sẵn có của việc làm, trong
khi 4 yếu tố sau tập trung vào tình trạng, chất lượng của việc làm.
Nguồn lao động luôn được xem xét trên hai mặt, biểu hiện đó là số lượng và
chất lượng.
Số lượng lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động gồm: Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm công
việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu việc làm và những người thuộc tình
trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định)
Chất lượng lao động: Cơ bản đánh giá ở trình độ chuyên môn, tay nghề (trí
lực) và sức khỏe (thể lực) của người lao động.
Một nền kinh tế muốn tăng trưởng và phát triển bền vững cần chú trọng đến
chất lượng lao động hơn là số lượng lao động, vì năng suất lao động, trình độ công
nghệ, nền kinh tế tri thức… đều do chất xám, trình độ, kiến thức và sức khỏe của
người lao động đem lại.
Lực lượng lao động (LLLĐ): Theo quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo thực tế đang có việc làm và
những người thất nghiệp.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam và Bộ Lao động, thương binh và Xã hội
Việt Nam cho rằng: LLLĐ (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) gồm toàn bộ
những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc những người thất nghiệp
trong thời gian quan sát.
LLLĐ trong độ tuổi lao động (tương đương với khái niệm dân số hoạt động
kinh tế trong độ tuổi lao động) gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động
8
(nam từ 15 tuổi đến hết 60 tuổi, nữ từ 15 tuổi đến hết 55 tuổi) đang có việc làm hoặc
không có việc làm (thất nghiệp) những có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
1.1.1.2. Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển
kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước
trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một quốc gia.
Có rất nhiều quan điểm định nghĩa về tăng trưởng kinh tế song có thể định
nghĩa một cách khái quát như sau:
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một
thời gian nhất định”.[10,tr226]
Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng công cụ phản ánh là
tốc độ tăng trưởng kinh tế
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế” được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy
mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước rồi chia cho quy mô kinh tế
kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị % (quy mô kinh tế
thường được đo bằng chỉ tiêu GDP hoặc GNP).
Công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế
y = dY/Y x 100 (%)
Với y là tốc độ tăng trưởng kinh tế
Y là quy mô của nền kinh tế (GDP hoặc GNP)
Thông thường tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng chỉ tiêu GNP
thực tế.
Khi nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng đồng nghĩa với việc quốc gia
đó đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng, tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) tăng cho thấy sự thay đổi mức sống của người dân, đời sống
nhân dân được cải thiện, giảm thiểu những tiêu cực, những tệ nạn xã hội, xã hội ổn
định, đất nước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội
và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế tạo điều
kiện giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo tiền đề vật chất để củng cố an
9
ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của Nhà
nước đối với xã hội, là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn của các
nước chậm phát triển.
Tuy nhiên không phải bất kỳ lúc nào tăng trưởng kinh tế cũng có lợi. Khi nền
kinh tế tăng trưởng quá nóng sẽ gây ra lạm phát cao và kéo theo sự bất ổn bên trong
nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần phải tăng trưởng kinh tế một cách ổn định và bền
vững
Trong nền kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp có mối liên quan vì
hai khái niệm này gắn bó với nhau. Mức độ thất nghiệp trong nền kinh tế có thể ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế bởi tỷ lệ thất nghiệp chỉ là một chỉ số về tình
trạng tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu tăng trưởng kinh tế được duy trì, mức độ chung
của việc làm không giảm xuống dưới một mức độ nhất định. Tại thời điểm mà việc làm
giảm xuống quá mức xác định này nó sẽ gây phương hại đến tăng trưởng kinh tế.
Trong “kinh tế học” cho rằng: Thất nghiệp làm những người không có việc
làm nhưng đang chờ để trở lại làm việc hoặc đang tích cực đi xin việc.[10,tr235]
Những người có việc làm hoặc không có việc làm đều nằm trong LLLĐ.
Những người đang đi học, trông coi nhà cửa, về hưu, ốm đau không đi làm được
hoặc thôi không đi làm việc nữa, đó là những người nằm ngoài LLLĐ.
Quan niệm của A. Sammuelson cho rằng “Người có việc làm là người đi
làm, người không có việc làm là người thất nghiệp. Những người không có việc
làm, nhưng không tìm được việc làm là những người ngoài lực lượng lao
động”[10,tr235]. Quan niệm này khá chung chung không cụ thể và có vấn đề không
phù hợp với thực tế hiện nay, như những người làm nội trợ, tàn tật, nghỉ hưu…
không thể coi họ là những người thất nghiệp do vậy quan niệm của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội về người thất nghiệp có phần hợp lý hơn: “Những người
thuộc lực lượng lao động có khả năng lao động trong tuần lễ điều tra không có việc
làm, có nhu cầu về việc làm nhưng không tìm được việc làm” [13,tr23].
Như vậy, người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc LLLĐ hay dân số hoạt
động kinh tế. Một người thất nghiệp thường có 3 đặc trưng:
+ Đang mong muốn và tìm việc làm
+ Có khả năng làm việc
10
+ Hiện chưa có việc làm
Với cách hiểu như trên, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng chưa
có việc làm đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu chí quan trọng để xem xét
một người được coi là thất nghiệp thì cần phải biết được người đó có muốn đi làm
hay không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khỏe, có nghề nghiệp song
không có nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự trữ” như thừa kế
của bố mẹ, nguồn tài trợ.
Theo ILO, “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi
lao động muốn có việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công
nhất định. Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,
không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm” [9,tr27]
Hình 1.1. Cân bằng thị trường việc làm
(Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á - 2007)
Trong đó: S: Đường cung
D: Đường cầu
E: Điểm cân bằng thị trường – Cầu việc làm phù hợp với cung việc làm
LA: Lượng cầu việc làm
LB: Lượng cung việc làm
W: Tiền lương
Khi ở mức tiền công W1 thì dư cung việc làm và thiếu cầu việc làm, đó là quy
mô nền kinh tế được mở rộng và không có thất nghiệp. Ở mức tiền công W0 thì cung
cầu việc làm vận động phù hợp với nhau tại điểm cân bằng E, không có dư thừa, cũng
W1
W0
W2
W
La Lc L0 Lb Ld
A R
E
S
D
L
11
không có thất nghiệp. Trên thực tế không tồn tại điểm E, chỉ là tương đối với việc làm
của từng nước, từng địa phương. Còn ở mức tiền công W2 thì dư thừa nhu cầu việc làm
và thiếu cung việc làm, xuất hiện tình trạng thất nghiệp và lượng thất nghiệp là (Ld - Lc).
Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp có thể được giải
thích dưới dạng sản lượng hàng hóa cần thiết sản xuất ra của việc làm cung cấp bởi
những người lao động cần có để duy trì nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi tỷ lệ thất nghiệp cao, mức sản lượng sẽ giảm do việc giảm số lượng đóng góp
cho sản lượng hàng hóa sản xuất ra. Mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ
lệ thất nghiệp này có thể được rút ra từ thực tế là tỷ lệ thất nghiệp tăng cao nhất
trong giai đoạn khủng hoảng của nền kinh tế. Ngược lại, giảm tối đa trong trường
hợp có sự phát triển nhanh chóng, hoặc trong giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp được các nhà kinh tế sử dụng làm một trong những nhân tố
kinh tế vĩ mô đo lường tốc độ tăng trưởng và sức khỏe hiện tại của nền kinh tế. Khi
tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu giảm, nó thường kết nối với các nhân tố vĩ mô khác như sự
gia tăng nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, được coi là chất xúc tác cho sự gia
tăng việc làm. Ví dụ, khi khách hàng bắt đầu đặt những đơn hàng cho các sản phẩm,
doanh nghiệp sẽ thuê thêm lao động để kịp theo tiến độ của nhu cầu. Khi nhu cầu
giảm, người lao động sẽ bị sa thải do các doanh nghiệp phải giảm gánh nặng không
cần thiết để bảo tồn nguồn lực. Do vậy khi nền kinh tế tăng trưởng kéo theo việc
làm gia tăng và do đó tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
Thất nghiệp được phân thành các loại sau:
Thất nghiệp tự nhiên: là loại thất nghiệp được dùng để chỉ mức thất nghiệp
mà bình thường nền kinh tế trải qua. Nó đơn giản là loại thất nghiệp không tự biến
mất ngay cả trong dài hạn.
Thất nghiệp tạm thời: là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không
ngừng của lao động giữa các vùng, các loại công việc hoặc giữa các giai đoạn khác
nhau của cuộc sống (sinh viên tốt nghiệp tìm kiếm việc làm, phụ nữ sau sinh con có
thể quay lại LLLĐ…)
Thất nghiệp cơ cấu: là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối giữa
cung – cầu lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó do biến đổi cơ cấu kinh
12
tế, thay đổi công nghệ. Vì vậy loại thất nghiệp này còn có tên là thất nghiệp công
nghệ (thường xảy ra trong nền kinh tế hiện đại)
Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản
lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị
sản lượng của nền kinh tế giảm dần hầu hết các nhà sản xuất giảm sản lượng cầu
đối với đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính
sách khuyến khích tăng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người
lao động không muốn làm việc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh con) thất
nghiệp này thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó
người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái,
cung lớn hơn cầu về lao động.
Thất nghiệp trá hình: là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được sử
dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sang làm việc. Hiện
tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp. Thất nghiệp
loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.
Xét theo hình thức thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp theo giới tính: là loại thất nghiệp của lao động nam (hoặc nữ)
Thất nghiệp theo lứa tuổi: là loại thất nghiệp của một lứa tuổi nào đó trong
tổng số LLLĐ.
Thất nghiệp theo vùng lãnh thổ: là hiện tượng thất nghiệp xảy ra thuộc vùng
lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi).
Thất nghiệp theo ngành nghề: là loại thất nghiệp xảy ra ở một ngành nghề nào đó.
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên người ta còn có thể chia thất nghiệp theo
dân tộc, chủng tộc, tôn giáo…
1.1.1.3. Thị trường việc làm
- Cung việc làm:
Cung việc làm là mối quan hệ giữa lượng cung việc làm với giá cả của lao
động, với giả thiết là các yếu tố khác không thay đổi.
13
Trong nền kinh tế, cung việc làm được tạo ra nhiều hay ít phụ thuộc vào các
đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước, tư nhân và của các hộ gia đình (chính
những người lao động). Khi việc làm tăng lên là các doanh nghiệp thuê mướn lao
động nhiều hơn, việc thuê mướn nhiều hay ít phụ thuộc vào việc người tiêu dùng
mua hàng hóa và dịch vụ của họ sản xuất ra nhiều hay ít. Nhu cầu thuê mướn lao
động cũng như về các đầu vào khác của quá trình sản xuất (đất đai, nhà xưởng, máy
móc, vốn, công nghệ,…) là cầu phát sinh, xuất phát từ mong muốn của khách hàng.
Vì thế, người sử dụng lao động thuê nhiều hay ít phụ thuộc vào cầu sản phẩm, điều
kiện hoàn cảnh của từng tổ chức, từng doanh nghiệp và của nền kinh tế dẫn đến
cung việc làm nhiều hay ít biến động theo. Ngoài ra, khi quyết định tạo ra thêm một
hay nhiều việc làm, cả hai bên người lao động và người sử dụng lao động cần chú
trọng đến số lượng lao động, chất lượng lao động để xác định giá cả sức lao động và
các quyết định về quan hệ lao động như điều kiện làm việc, các chế độ khuyến
khích, chính sách tiền lương, bảo hiểm… Số lượng việc làm trong nền kinh tế có
tăng lên hay không là phụ thuộc vào quyết định thuê lao động của các đơn vị sản
xuất kinh doanh. Giả sử trong một doanh nghiệp mục đích cuối cùng là tối đa hóa
lợi nhuận và là một đối tác không làm thay đổi đến các giá cả thị trường thì doanh
nghiệp đó tối đa hóa lợi nhuận bằng cách thuê “đủ và đúng” số lượng vốn và lao
động cần thiết. Và mức độ thuê này khác nhau trong dài hạn và trong ngắn hạn.
Ngắn hạn là một khoảng thời gian mà doanh nghiệp không thể thay đổi quy mô nhà
xưởng hoặc thay đổi thiết bị máy móc nên số lượng vốn của đơn vị là cố định ở một
mức K nào đó. Cung việc làm ngắn hạn cho biết những thay đổi về số việc làm (hay
số lao động cần thuê) của đơn vị sản xuất khi tiền công thay đổi và số vốn được giữ
nguyên. Trong dài hạn, doanh nghiệp có thể tối đa hóa lợi nhuận bằng cách thay đổi
cả số lượng lao động thuê và số lượng vốn đầu tư vào nhà xưởng, thiết bị. Vì ngoài
việc thay đổi số lượng lao động, lượng vốn của doanh nghiệp còn thay đổi dẫn đến
kết quả sản xuất khác nhau và từ đó cung việc làm cũng khác nhau.
- Cầu việc làm
Mỗi người lao động ở thời điểm khác nhau của cuộc đời đều phải tự quyết
định có làm việc hay không làm việc, nếu làm việc thì làm việc cho ai và với thời
gian bao lâu? Đó chính là biểu hiện của cầu việc làm ở mỗi thời điểm nhất định.
14
Cầu việc làm là mối quan hệ giữa lượng cầu việc làm với giá cả lao động
trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Nó được thể hiện ở số lượng, chất
lượng con người hoặc ở thời gian của những người tham gia và mong muốn tham
gia lao động trên thị trường lao động.
Cầu việc làm là yếu tố xuất phát từ chính người lao động và những người
mong muốn làm việc. Cầu việc làm thay đổi như thế nào là phụ thuộc vào quy mô,
tốc độ, cơ cấu dân số, số lượng lao động, chất lượng lao động và thời gian làm việc.
Khi quy mô dân số càng lớn sẽ tạo ra nguồn lực sẵn sàng cung cấp sức lao động cho
xã hội càng lớn. Trong quy mô dân số yếu tố cấu thành lên đường cầu việc làm là
dân số hoạt động kinh tế có việc làm hay chính là tỷ lệ tham gia LLLĐ quyết định
cầu việc làm về số lượng. Khi tỷ lệ tham gia của LLLĐ càng tiến gần đến 100%
chính là tạo ra cầu việc làm càng lớn, thu hút nguồn nhân lực càng lớn. Tuy nhiên,
phần lớn những người có việc làm (làm việc được trả công) đều được tính vào
LLLĐ mà không cần biết họ làm việc bao nhiêu giờ trong ngày, trong tuần hoặc
trong năm. Thời gian làm việc khác nhau của người lao động sẽ tạo nên cầu việc
làm và cung thời gian lao động là khác nhau. Với một khoảng thời gian nhất định có
sự đánh đổi thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Theo “mô hình lựa chọn làm
việc – nghỉ ngơi” nếu nghỉ ngơi nhiều, chúng ta sẽ sống không có những tiện nghi.
Còn nếu làm việc, chúng ta sẽ có tiền để mua hàng hóa như mong muốn và phải từ
bỏ thời gian nghỉ ngơi của mình. Vậy quyết định làm việc của con người phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như sự tăng lương và thu nhập thực tế trên thị trường hay sự
thay đổi sở thích, hành vi nghề nghiệp hứng thú và hoàn cảnh gia đình. Khi quyết
định đi làm thì người lao động mong muốn có một mức tiền lương và đó là mức tiền
lương giới hạn. Người lao động sẽ không làm việc nếu tiền lương trên thị trường (là
mức tiền lương mà người chủ sẵn sàng trả) thấp hơn tiền lương giới hạn (là mức
lương người lao động muốn có đề chấp nhận việc làm). Như vậy, cầu việc làm là
yếu tố do người lao động và những người mong muốn có việc làm quyết định, trái
lại với cung việc làm là yếu tố do các đơn vị sản xuất kinh doanh tạo GDP cho nền
kinh tế quyết định. Sự vận động giữa hai yếu tố này như thế nào và đem lại kết quả
gì, có như mong muốn của các nhà lãnh đạo, của người lao động không?
15
1.1.2. Chính sách việc làm
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc
gia nhằm góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Hội nghị thượng
đỉnh Copenhagen tháng 3 năm 1995 đã coi mở rộng việc làm là một trong những nội
dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển xã hội của các nước trên thế giới.
Đối với nước ta, tạo thêm việc làm cho người lao động, kiềm chế thất nghiệp
ở tỷ lệ thấp là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước thường xuyên
quan tâm thực hiện.
Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, các
giải pháp và công cụ nhằm sử dụng LLLĐ và tạo việc làm cho LLLĐ đó.
Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hóa pháp luật của Nhà nước
trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục
tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động nhằm góp phần ổn
đinh, an toàn và phát triển xã hội.
Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các chính sách chung có quan
hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho LLLĐ của toàn xã hội,
như các chính sách: Khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những ngành nghề có khả
năng thu hút nhiều lao động; chính sách tạo việc làm cho những đối tượng đặc biệt
(người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi hương,…); chính sách hợp tác và
xuất khẩu lao động đi nước ngoài…
Chính sách việc làm tác động đến một vấn đề nhạy cảm, vừa có ý nghĩa về
mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội. Việc hoạch định và thực hiện
không tốt chính sách việc làm sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại trực tiếp
cả về kinh tế (không sử dụng hết tiềm năng lao động để phát triển kinh tế) và cả về
chính trị, xã hội cho đất nước (Ví dụ: Thất nghiệp thì tệ nạn xã hội cũng tăng; thất
nghiệp đồng hành với nghèo đói…)
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với chính sách kinh tế và
các chính sách xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách như:
Chính sách dân số; chính sách giáo dục – đào tạo; chính sách cơ cấu kinh tế; chính
sách công nghệ. Có thể nhận thấy rằng: Giáo dục đào tạo tốt thì cơ hội việc làm
16
tăng; giảm tốc độ tăng dân số sẽ khắc phục được tình trạng thất nghiệp về lâu dài.
Việc phát triển các ngành nghề sản xuất, các lĩnh vực, các doanh nghiệp quy mô
nhỏ sử dụng nhiều lao động ở cả nông thôn lẫn thành thị là một vấn đề được tính
toán đến khi xây dựng chính sách cơ cấu kinh tế (theo ngành, theo vùng lãnh thổ
hoặc theo thành phần kinh tế). Việc lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử
dụng nhiều lao động đôi khi có hiệu quả kinh tế xã hội hơn là nhập những công
nghệ quá hiện đại (sử dụng ít lao động và sử dụng lao động có trình độ cao).
Để nhận biết chính sách việc làm với các chính sách khác, nhất là chính sách
kinh tế cần phải xem xét nó dưới góc độ xã hội, làm rõ khía cạnh xã hội, tính chất
xã hội của nó, mà nguyên tắc cơ bản là đảm bảo công bằng xã hội trong lĩnh vực
việc làm trên cơ sở Nhà nước tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi người có cơ
hội trong tìm kiếm và tự tạo việc làm, chống tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, thực hiện
chủ nghĩa bình quân, chia nhau việc làm với thu nhập thấp, Nhà nước làm từ A đến
Z theo kiểu hình thức trước đây. Đồng thời cũng chống quan điểm chạy theo cơ chế
thị trường tự do trong giải quyết việc làm, coi nhẹ trách nhiệm xã hội, làm cho tình
trạng thất nghiệp và không có việc làm trở thành vấn đề gay cấn, trở thành “điểm
nóng” dẫn đến mất ổn định và an toàn xã hội.
Thực hiện tốt chính sách việc làm, nguồn nhân lực được sử dụng hiệu quả thì
hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, như vậy chính sách bảo hiểm xã hội sẽ giảm
được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại khi chính sách việc làm chưa
được giải quyết tốt, nhất là vào thời kỳ suy thoái kinh tế, nạn thất nghiệp sẽ tăng
lên, và cùng với nó là tình trạng đói nghèo, các tệ nạn xã hội sẽ dễ dàng phát sinh.
Khi đó các gánh nặng đối với các chính sách về bảo trợ xã hội, an ninh xã hội sẽ
tăng lên thậm chí còn có thể gây ra bất ổn về chính trị xã hội.
Việc làm có vai trò quan trọng đối với đời sống của người dân, để giải quyết
việc làm cho người lao động Nhà nước phải đề ra các chính sách khuyến khích
doanh nghiệp phát triển để tạo việc làm cho người lao động, chính sách hỗ trợ cho
người lao động học tập, nâng cao trình độ chuyên môn…
17
Các chính sách việc làm của Nhà nước đã tạo môi trường và điều kiện thuận
lợi cho các tất cả các thành phần kinh tế, đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản
xuất kinh doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế.
Chính sách việc làm là cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước về phát triển nguồn nhân lực đất nước phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
đất nước trong từng thời kỳ nhất định.
Sự đổi mới của chính sách việc làm có tác động lớn đến việc thay đổi cơ cấu
nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
đặc biệt trong thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Nói một cách tổng quát, có thể nói, chính sách việc làm có vai trò, ý nghĩa quan
trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
1.2. Giải quyết việc làm
1.2.1. Giải quyết việc làm và vai trò của giải quyết việc làm
1.2.1.1. Giải quyết việc làm
Sự vận động giữa cung việc làm và cầu việc làm phù hợp với nhau thì người
dân có việc làm và trở thành LLLĐ, nếu sự vận động đó khác đi và lệch với nhau là
hiện tượng thất nghiệp xảy ra. Với tất cả các hoạt động và các chính sách liên quan
đến dân số, đến nguồn lao động mà Nhà nước và người dân cố gắng thực hiện tốt
đều có mục tiêu là giải quyết việc làm cho dân số. Điều đó có nghĩa là hướng tới có
việc làm đầy đủ cho người lao động, đảm bảo thu nhập ổn định, tiến đến nâng cao
mức sống của người lao động và dần dần nâng cao chất lượng việc làm để sử dụng
một cách hiệu quả nhất nguồn lực của đất nước.
Căn cứ vào khái niệm và phân loại việc làm ở trên, theo đó có 3 nhóm người
khi giải quyết việc làm là: nhóm người đủ việc làm, nhóm người thiếu việc làm và
nhóm người thất nghiệp. Trong đó, có hai nhóm người đủ việc làm và nhóm người
thiếu việc làm là vẫn có việc làm nhưng những người lao động này có được làm
việc theo nhu cầu, theo khả năng hay không hay theo hoàn cảnh là phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố, điều kiện như: năng lực của người lao động, môi trường làm việc, khả
18
năng về yếu tố đầu vào của sản xuất… Nhóm người thất nghiệp là nhóm người
không có việc làm nhưng đang mong muốn có việc làm.
- Người đủ việc làm: là những người có số giờ làm việc trong một tuần lễ, có
số giờ lớn hơn hoặc bằng 40 giờ những cũng có những người làm việc ít hơn 40 giờ
nhưng đồng thời họ lại làm việc lớn hơn số giờ quy định. Đối với một quốc gia, số
người có đủ việc làm đạt được một số tối đa là mong muốn, điều luôn luôn hướng
tới. Trên thực tế thì mỗi quốc gia đều phấn đấu đạt được số người có đủ việc làm
càng gần với con số của nguồn lao động bao nhiêu thì càng giảm được nạn thất
nghiệp bấy nhiêu. Mục tiêu phấn đấu nhằm đạt được sự thỏa mãn nhu cầu việc làm
và thu nhập tương đối cao, ổn định cho người lao động.
Tỷ lệ người có đủ việc làm được xác định bằng cách lấy số người có đủ việc
làm so với dân số tham gia hoạt động kinh tế, lấy theo tỷ lệ phần trăm.
- Người thiếu việc làm: là những người mà trong khoảng thời gian trước
cuộc tổng điều tra một tuần có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn giờ quy định và có nhu
cầu làm thêm giờ. Đây chính là tình trạng người lao động không sử dụng hết thời
gian quy định và nhận được thu nhập thấp hơn so với nhu cầu của người từ công
việc đang làm đó khiến họ có nhu cầu làm thêm công việc khác vào khoảng thời
gian đó để tăng thu nhập.
Tỷ lệ người thiếu việc làm được xác định bằng cách lấy số người hoặc số
thời gian (giờ, ngày,…) thiếu việc làm (không đủ việc làm) trong năm chia cho toàn
bộ LLLĐ hoặc tổng quỹ thời gian (ngày, giờ,…) cần làm việc theo quy định trong
năm đó.
Vậy giải quyết việc làm gồm hoạt động tác động đến cung cầu lao động và
mối quan hệ giữa cung cầu lao động. Đồng thời là sự kết hợp các hoạt động từ ba
phía: Nhà nước, doanh nghiệp và chính những người lao động nhằm mở rộng cung
việc làm, nâng cao sự phù hợp của cầu việc làm và các yếu tố thị trường, từ đó Nhà
nước giúp đỡ rồi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cho người lao động tự tạo việc
làm cho mình và cho những người khác.
1.2.1.2. Vai trò giải quyết việc làm
- Giải quyết việc làm cho LLLĐ là tác động đến phát triển kinh tế:
19
Như đã tìm hiểu ở trên việc làm tác động đến phát triển kinh tế một cách trực
tiếp và gián tiếp đối với một quốc gia, một tỉnh, một vùng. Ngược lại, phát triển
kinh tế cũng tác động lại vấn đề giải quyết việc làm, người có việc làm và người
không có việc làm. Khi tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thì việc làm của người lao
động được ổn định và ngày càng nâng cao hơn về chất lượng công việc, việc làm
mới được tạo ra nhiều hơn, những người không có việc làm sẽ giảm. Khi việc làm
được giải quyết tốt với những người thất nghiệp thì tốc độ tăng trưởng cao, xu
hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế phù hợp với điều kiện đất nước. Do đó, để có
tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thì việc giải quyết việc làm cho những
người không có việc làm, giúp người có việc làm không ổn định giờ ổn định mang lại
thu nhập ổn định là rất cần thiết cho sự tồn tại và sự phát triển của chính quốc gia đó.
- Giải quyết việc làm cho LLLĐ làm giảm bớt các tệ nạn xã hội:
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì đời sống xã hội của con người ngày
càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp hơn. Và đáng lo ngại nhất là các tệ nạn xã hội
cũng xuất hiện nhiều hơn, dưới nhiều hình thức hơn. Nếu như người dân không có
việc làm thì thời gian rảnh rỗi cả họ tăng lên rất nhiều. Những mặt tiêu cực thường
đi kèm như suy nghĩ làm liều, hoàn cảnh bắt buộc, xô đẩy những con người này vào
con đường cờ bạc, nghiện hút, mại dâm,… và là đối tượng dễ dàng tham gia gây ra
các tệ nạn xã hội, gây ra những bất ổn cho cuộc sống, cho người dân sống cùng
những con người này. Nếu số những người dân có thời gian rảnh rỗi này giảm đi
một cách đáng kể nhờ có việc làm phù hợp với sức lao động của họ thì LLLĐ tăng
lên, lao động có mục tiêu để phấn đấu vươn tới, không có những suy nghĩ và hành
động tiêu cực làm giảm một cách đang kể các tệ nạn xã hội.
- Giải quyết việc làm cho LLLĐ góp phần xóa đói giảm nghèo:
Việc làm tăng lên là chìa khóa để giảm nghèo, giúp họ có cuộc sống ổn định
và nâng cao đời sống của chính bản thân người lao động. Thu nhập bình quân đầu
người tăng lên khi có việc làm, đảm bảo cho họ những nhu cầu tối thiểu nhất và ngày
càng tằng nhu cầu lên giúp họ thoát khỏi cảnh đói nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống.
Theo số liệu mới nhất, tỷ lệ hộ nghèo của Thái Nguyên theo chuẩn mới là 16.69%
20
trong đó phần lớn hộ nghèo sinh sống tại các huyện thuộc miền núi, vùng sâu, vùng
xa (Huyện Võ Nhai có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất 36.69%, huyện Định Hóa là 28.01%,
huyện Đại Từ là 23.53%, ) Chính vì thế tạo việc làm cho những người dân ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa là cần thiết để giảm tỷ lệ đói nghèo của các huyện xuống.
Đồng thời góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm tại chỗ
1.2.2.1. Điều kiện về tự nhiên
Nhu cầu có việc làm bắt nguồn từ đòi hỏi của sản xuất và việc sản xuất có
quy mô ngày càng được mở rộng thì nhu cầu việc làm sẽ càng lớn. Muốn mở rộng
sản xuất để phát triển kinh tế xã hội phải dựa vào những tiền đề vật chất, đây là
nhân tố tiên quyết ảnh hưởng đến tạo việc làm. Điều kiện tự nhiên của một quốc
gia, một vùng, một tỉnh hay một khu vực được hình thành một cách tự nhiên từ
hàng nghìn, hàng vạn năm trước đây, không hề theo mong muốn của con người.
Mỗi quốc gia, mỗi địa phương nằm trên những vị trí địa lý nhất định, có thể thuận
lợi hoặc khó khăn về mặt khí hậu thời tiết, nhiệt độ, lượng mưa, gió, bão lụt, hạn
hán… những yếu tố này ảnh hưởng đến sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp. Do đó, mỗi nước, mỗi địa phương có thể có những cách thức tổ chức
sản xuất lao động khác nhau. Trên thế giới có nước rất giàu tài nguyên thiên nhiên,
đất đai rộng lớn, độ màu mỡ tự nhiên, thuận lợi cho việc phát triển các ngành sản
xuất, thu hút lao động như Liên Xô cũ. Các điều kiện tự nhiên sẵn có trở thành các
nguyên liệu, nhiên liệu… phục vụ cho sản xuất và đời sống, như dầu lửa có nhiều ở
Ả Rập phải được khai thác từ đáy biển, quặng vàng và các loại khoáng sản quý
hiếm phải được lấy ra khỏi lòng đất, qua tinh chế mới có ích cho cuộc sống. Bên
cạnh đó cũng có những quốc gia không được ưu đãi về thiên nhiên, rất nghèo về tài
nguyên, đất đai chật hẹp thường xảy ra các sự cố bất lợi cho sản xuất, cho cuộc
sống con người như động đất, núi lửa, bão lụt… như đất nước Nhật Bản, Việt Nam
cũng là nước có rất nhiều ưu thế về tài nguyên thiên nhiên, rừng vàng biển bạc, cây
cối xanh tươi, hoa quả bốn mùa, các loại cây con, thủy hải sản đa dạng phong phú,
đất đai màu mỡ, tuy nhiên cũng thường xuyên phải chịu cảnh bão lũ, nước lớn ở các
vùng miền Trung gây khó khăn cho người dân sinh sống ở khu vực đó. Các điều
kiện tự nhiên chỉ là điều kiện thuận lợi để tạo việc làm khi quốc gia đó biết cách