Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận lịch sử đảng cộng sảng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.72 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢNG VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC
THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH ĐÚNG ĐẮN ĐẦU TIÊN

CỦA ĐẢNG

GVHD: Th.S NGUYỄN MẬU MINH
LỚP: HIS 362 SG
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM :

1. Vũ Thị Minh Ánh - 27203148922
2. Trần Bảo Ngọc – 28207305222
3. Võ Nguyễn Hà My – 27202238424
4. Ngơ Thị Hồng Ly - 28204603110
5. Phan Thị Minh Phượng – 27208438340
6. Nguyễn Hạ Vy - 27202100778

ĐÀ NẴNG, THÁNG 7, NĂM HỌC 2022-2023

MỤC LỤC

Lời mở đầu.....................................................................................................................1

PHẦN THỨ NHẤT.......................................................................................................2
I. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng........................................2


1. Hoàn cảnh ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam................................................2
1.1 Hoàn cảnh Quốc tế..........................................................................................2
1.2 Tình hình trong nước.......................................................................................3
1.3 Yêu cầu - Nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam.....................................7
2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam...8
2.1 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển phong trào yêu nước theo

khuynh hướng Vô sản......................................................................................................8
2.2 Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam..............................................11

II. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.................................................................12
1. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc.............................................................................12
2. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.............................................13

PHẦN THỨ HAI.........................................................................................................15
I. Ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng..............................................................................................................................15
II. Trách nghiệm của sinh viên trong tham gia công tác xây dựng Đảng hiện
nay.........................................................................................................................................16

KẾT LUẬN.................................................................................................................. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................19

Lời mở đầu

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ
kính u của giai cấp cơng nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc,
một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng
dân tộc. Người là người Việt Nam đầu tiên đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc
Việt Nam, con đường cách mạng vô sản. Người sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn

lịch sử đầy biến động của đất nước - giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, bao
cuộc khởi nghĩa đấu tranh anh dũng, bất khuất giành độc lập và thống nhất Tổ quốc
đều lần lượt thất bại. Phong trào cứu nước của nhân dân Việt Nam đứng trước một
cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối. . Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, người đã
sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do dân tộc. Với khát vọng
lớn lao ấy, người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, người hiểu rõ cội nguồn những
khổ đau của Nhân dân lao động là ở sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc và
hình thành nên ý thức giai cấp rõ rệt. Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh tiếp cận, nghiên cứu
“Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của
Lênin. Người đã tìm thấy ở đó những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập năm 1930,
cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản
được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được xác
định. Điều này không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc mà cịn
giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu của
cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố chủ yếu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tháng 2 năm 1930, Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng ra đời, là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng
Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách
quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc.
Trong tiểu luận hôm nay, nhóm chúng tơi sẽ phân tích về đề tài : “Vai trị của Nguyễn
Ái Quốc trong q trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh đúng
đắn đầu tiên của Đảng”. Qua đề tài này, hy vọng rằng thế hệ trẻ chúng ta sẽ có một
cái nhìn sâu sắc và khách quan về giá trị lịch sử, ý nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Cương lĩnh chính trị đầu tiên, sự quý báu của Độc lập dân tộc và sự lạnh đạo tài ba
của người cha già vĩ đại – Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng niềm tin vào con đường đúng
đắn của Đảng! Qua đó, thế hệ trẻ nói chung và sinh viên nói riêng cần có trách nhiệm
mạnh mẽ trong việc xây dựng và phát triển Đảng hiện nay mãi đến tương lai sau này!


1

PHẦN THỨ NHẤT

VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG
VÀ CƯƠNG LĨNH ĐÚNG ĐẮN ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG

I. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng :

1. Hoàn cảnh ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam :

a. Hoàn cảnh quốc tế :
- Từ cuối thế kỷ XIX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang Chủ
nghĩa đế quốc. Hậu quả là các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường
bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các
dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế
giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng
gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
- Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác – Lênin: các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác- Lênin xây
dựng nên học thuyết lý luận cách mạng không ngừng, với nội dung cơ bản: Giai cấp công nhân,
sau khi đã trưởng thành về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và điều kiện lãnh
đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống
lại chế độ chuyên chế phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên
chế phong kiến, thành lập nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai
cấp nông dân.
- Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, mở ra thời đại mới trong
lịch sử loài người, thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Càng thúc
đẩy tinh thần, tăng cường sức mạnh cho dân tộc ta. Giai cấp công nhân là trung tâm
- Tháng 3/1919, Quốc tế cộng sản được thành lập (Quốc tế III), với khẩu hiệu "Vô sản

thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. "Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn
kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới
ách thống trị thực dân".
=> Cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng Thế giới phát triển.

2

Khi các quyền lợi và sự tự do, dân chủ bị kìm chặt, đến giới hạn chịu đựng của người
dân. Những cuộc phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc
địa. Từ đó mang đến nhận thức dân tộc sâu sắc và kinh nghiệm đấu tranh.

b. Tình hình trong nước :
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị,
biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nơ, Tổ
quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
*Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho Xã hội Việt Nam có nhiều
thay đổi.
- Chính trị : Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân; tước bỏ quyền lực đối

nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, chúng đàn áp đẫm máu các
phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm.( bóp
nghẹt quyền tự do của người dân.) Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, thực hiện
chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia
ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong
Liên bang Đông Dương thuộc Pháp được thành lập ngày 17-10-1887 theo sắc lệnh của
Tổng thống Pháp.
- Kinh tế : Vơ vét, bóc lột làm kinh tế nước ta nghèo nàn, lạc hậu, lệ thuộc vào Pháp:
 Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo. Vì


vậy, đời sống của người dân vô cùng khổ cực và tăm tối.
 Chúng cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, ra sức vơ vét tài nguyên.
 Xác định nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vơ lý. Chúng dồn nhân dân ta vào

phục vụ sản xuất, khai thác và bóc lột sức lao động.
 Xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ

chính sách khai thác thuộc địa.
- Văn hóa :

 Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị; chúng dung túng và duy
trì các hủ tục lạc hậu.

 Lập nhà tù nhiều hơn trường học; du nhập những giá trị phản văn hố; duy trì tệ nạn
xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới. Dùng rượu
cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam.

 Ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”…Xuyên
tạc lịch sử, giá trị văn hoá Việt Nam. Ngăn cản ảnh hưởng của Văn hoá tiến bộ trên
Thế giới du nhập vào.

Chế độ áp bức về Chính trị, bóc lột Kinh tế, nơ dịch về Văn hóa của thực dân Pháp đã
làm biến đổi tình hình Chính trị, Kinh tế, Xã hội Việt Nam. Các giai cấp cũ phân hóa; Giai cấp
và tầng lớp mới xuất hiện với địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có thái độ chính trị khác

3

nhau đối với vận mệnh dân tộc. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt
Nam, có sự chuyến biến sâu sắc.


*Bên cạnh các giai cấp cũ, giai cấp mới đã ra đời.
- Giai cấp địa chủ : Khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, giai cấp địa chủ bị

phân hóa. Một bộ phận địa chủ câu kết với thực dân Pháp, làm tay sai đắc lực cho
Pháp trong việc ra sức đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nơng dân. Một bộ phận
khác nêu cao tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp và
bảo vệ chế độ phong kiến, tiêu biểu là phong trào Cần Vương. Một số trở thành lãnh
đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và phong kiến phản động. Một bộ phận
nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản. Giai cấp địa chủ phong kiến: Một bộ
phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì quyền lợi của bản thân; và một
bộ phận khơng ít khác tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng và lãnh đạo các phong
trào chống đế quốc Pháp xâm lược, khơi phục triều đình phong kiến.
- Giai cấp nông dân : chiếm số lượng đông nhất (hơn 90% dân số), và là giai cấp bị
phong kiến, thực dân bóc lột nặng nề nhất. Vì vậy, ngồi mâu thuẫn giai cấp vốn có
với giai cấp địa chủ; Từ khi thực dân Pháp xâm lược, giai cấp nơng dân cịn có mâu
thuẫn sâu sắc với thực dân xâm lược. Đây là lực lượng hùng hậu, có tinh thần đấu
tranh kiên cường bất khuất cho nền độc lập tự do dân tộc và khao khát giành lại ruộng
đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàng
vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân phong kiến.
- Giai cấp công nhân Việt Nam : được hình thành gắn với các cuộc khai thác thuộc địa,
với việc thực dân Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, cơng xưởng, khu đồn điền...
Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam
có những đặc điểm riêng vì ra đời trong hồn cảnh một nước thuộc địa nửa phong
kiến, chủ yếu xuất thân từ nông dân, cơ cấu chính là cơng nhân khai thác mỏ, đồn
điền, lực lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời
đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực
lãnh đạo cách mạng.
- Giai cấp tư sản Việt Nam : xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Bộ phận gắn liền
lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực
dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc,

họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế. Vì vậy, phần lớn
tư sản dân tộc Việt Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước nhưng khơng có khả năng tập
hợp các giai tầng để tiến hành cách mạng.
- Tầng lớp Tiểu tư sản : bị đế quốc, tư bản chèn ép, khinh miệt; có tinh thần dân tộc,
yêu nước và rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp
bênh, thái độ hay dao động, thiếu kiên định nên tầng lớp này không thể lãnh đạo cách
mạng.

4

Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp làm cho Việt Nam có những biến
chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần
tuý đã biến thành một xã hội nửa thuộc địa. Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở
Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu
gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động.

*Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng.
Các phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng nhỏ lẻ.
Do đó đều bị thất bại, bị dập tắt nhanh chóng, gây thiệt hại lớn về tính mạnh. Xã hội Việt Nam
rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng.
- Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến:

 Phong trào Cần Vương (1885-1896) : do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi
xướng. Hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương cứu nước, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình
(Thanh Hoá), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)…diễn ra sôi nổi, thể hiện
tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân. Nhưng ngọn cờ
phong kiến lúc đó khơng cịn là ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp rộng rãi, toàn thể các
tầng lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn
quốc nữa. Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là mốc chấm
dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến với phong trào yêu nước chống thực

dân Pháp ở Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái và Vua Duy Tân tiếp tục
đấu tranh chống Pháp.

 Phong trào tự phát của nông dân Yên Thế (Bắc Giang) : lãnh đạo là vị thủ lĩnh
Hoàng Hoa Thám, đây là cuộc đấu tranh anh dũng của nông dân Việt Nam kéo dài
gần 30 năm, ghi mốc son trong lịch sử đấu tranh chống TD Pháp. nghĩa quân xây
dựng lực lượng chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường chống thực dân Pháp.
Nhưng phong trào vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, khơng có khả năng mở
rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuối
cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.

Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối nước ta bộc lộ sâu sắc

- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản:
Tiêu biểu là xu hướng bạo động do Phan Bội Châu (1867-1940) tổ chức, lãnh đạo và xu
hướng cải cách do Phan Châu Trinh (1872-1926) đề xướng.
 Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội (chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập

hiến như ở Nhật), tổ chức đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật học. Năm
1912 lập tổ chức Việt Nam Quang Phục hội với tôn chỉ là đánh đuổi giặc Pháp, khôi
phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa dân quốc Việt Nam. Nhưng chương trình,
kế hoạch hoạt động của hội lại thiếu tôn chỉ rõ ràng. Khi Phan bội Châu bị bắt thì
ảnh hưởng của tổ chức này đối với phong trào yêu nước Việt Nam chấm dứt.

5

 Phan Châu Trinh và những người cùng chí hướng muốn giành độc lập dân tộc
bằng con đường cải cách đất nước: “chấn dân trí, khai dân trí, hậu dân sinh”, bãi bỏ
chế độ quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thơng dân trí, mở mang thực nghiệp.
Ông đề nghị nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách để cứu nước. phong trào đã

bị thực dân Pháp đàn áp dã man, giết hại các sĩ phu yêu nước và nhân dân tham gia
biểu tình.

 Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Trong đó, hoạt động có ảnh
hưởng rộng, thu hút nhiều học sinh - sinh viên yêu nước ở Bắc Kỳ là tổ chức Việt
Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Trên cơ sở các tổ chức yêu
nước của tiểu tư sản trí thức. Việt Nam Quốc dân đảng thành lập tháng 12-1927 tại
Bắc Kỳ. Mục đích là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc, xây
dựng chế độ Cộng hòa tư sản, với phương pháp đấu tranh vũ trang theo lối manh
động, ám sát cá nhân và lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên…

Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất
khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong kiến, ngọn
cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Tuy
nhiên, “các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản
qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”.

- Ý nghĩa của các cuộc phong trào yêu nước
 Tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam : Phong trào yêu nước
Việt Nam thể hiện lòng yêu nước sâu sắc nồng nàn của nhân dân ta, truyền thống
đã có từ ngàn xưa khi dân tộc ta trong q trình dựng nước đi đơi với giữ nước.
Truyền thống đã được nhân dân ta phát huy trong mọi thời kỳ, mọi cuộc đấu tranh
chống xâm lược và nhờ truyền thống này mà nhân dân ta đã chiến thắng kẻ thù
xâm lược mạnh hơn ta nhiều lần như hai lần chống quân Tống và ba lần chống
quân Nguyên Mông xâm lược… Dù thất bại nhưng nó nối liền lại với phong trào
vơ sản sau đó tạo thành sợi dây yêu nước, tinh thần yêu nước mãnh liệt.
 Tạo cơ sở xã hội thuận lợi tiếp nhận chủ nghĩa Mác, quan điểm cách mạng
của Hồ Chí Minh : Phong trào đạt được những bước tiến rõ rệt về trình độ tổ
chức, cách thức hoạt động, cách thức đấu tranh với một quy mô rộng lớn, vượt ra
khỏi phạm vi quốc gia, đặt cơ sở bước đầu cho việc tập hợp giai cấp, đoàn kết các

dân tộc có cùng cảnh ngộ chống chủ nghĩa đế quốc, chống áp bức - cường quyền.

 Một trong ba nhân tố dẫn tới sự ra đời chính đáng mácxit

- Nguyên nhân thất bại

6

 Thiếu đường lối chính trị đúng đắn vì giai cấp phong kiến, địa chủ khơng cịn khả
năng dẫn dắt dân tộc thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Các
phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản do đường lối chính trị khơng rõ
ràng, nhất là không biết dựa vào quần chúng nhân dân mà chủ yếu dựa vào uy tín
cá nhân nên không tạo sức mạnh tổng hợp, không tạo ra được sự thống nhất cao
trong những người lãnh đạo phong trào, chính vì vậy nên khi người lãnh đạo bị bắt
thì phong trào cũng tan rã theo.

 Xã hội, chưa có một tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân
tộc. Các cuộc khởi nghĩa do tổ chức lỏng lẻo, chưa có kỷ luật rõ ràng, biện pháp và
cách thức hoạt động chưa đề ra một cách đúng đắn mà tuỳ vào hoàn cảnh nên dễ bị
lộ và hoang mang dao động, nên một số cuộc khởi nghĩa trước khi nổ ra đã bị lộ vì
vậy thực dân Pháp biết trước được kế hoạch dễ dàng ứng phó và đàn áp. Nhiều
cuộc khởi nghĩa thất bại nặng nề, thiệt hại lớn, nhiều nhà lãnh đạo giỏi đã bị bắt, bị
giết, căn cứ của nghĩa quân bị phá vỡ.

 Chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù. Những
cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, đa số các phong trào mang tính tự phác, trong nội bộ
chia rẽ. Ta chưa tập hợp được sức mạnh quần chúng nhân dân, chưa thấy được khả
năng lãnh đạo của giai cấp công nhân và chưa đoàn kết được họ

1.3 Yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam

- Phải có đường lối chính trị đúng (con đường cách mạng)

Đảng lãnh đạo cách mạng, trước hết phải xác lập được đường lối chính trị đúng
đắn. Đó là nhân tố quan trọng để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, điều kiện tiên
quyết đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo. Muốn lãnh đạo được phải hiểu
chủ nghĩa Mác-Lênin”. Đó là nguyên tắc, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, là thước đo bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, là vấn đề có tính ngun tắc số một đối với Đảng ta, là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu trong tồn bộ cơng tác tư tưởng, lý luận của chúng ta.

- Phải có một tổ chức lãnh đạo
Có một tổ chức lãnh đạo là điều rất cấp thiết, nhờ có các tổ chức lãnh đạo mới
vững mạnh để tập hợp, lãnh đạo toàn dân tộc. Nhờ có kỹ luật rõ ràng, cách thức hoạt
động đúng đắn, chứng minh được khả năng lãnh đạo của tổ chức đã dần dần dành được
chiến thắng.

7

2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
* Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc:

Nguyễn Ái Quốc (19/5/1890 - 2/9/1969), tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, là một nhà
cách mạng, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam. Người sinh ra trong một gia
đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại
xâm. Sống trong hồn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và
thanh niên của mình, Nguyễn Ái Quốc đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những
phong trào đấu tranh chống thực dân, từ đó Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho
đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Với ý chí quyết tâm mãnh liệt đó, Nguyễn Ái

Quốc đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.

a. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển phong trào yêu nước
theo khuynh hướng vô sản

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của
Nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn
con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ
sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách
mạng Việt Nam, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam
suốt 90 năm qua. Công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là:

Một là, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam - Con
đường Cách mạng Vô sản. Những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, dấu chân Người từng
in trên 3 đại dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia trong 10 năm (1911 - 1920). Q trình
thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó đã giúp người thanh niên yêu nước nhận thức rõ hơn, khái quát
hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt quan trọng, đó là nhận ra diện mạo, bản chất của
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở
đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Nhận ra bản
chất của các cuộc cách mạng qua nghiên cứu các cuộc cách mạng của các nước tư bản chủ
nghĩa: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh
khơng đến nơi, khơng triệt để, tiếng nói là cộng hòa là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó
bóc lột cơng nơng trong nước, ở ngồi thì áp bức thuộc địa”. Bắt gặp lý tưởng của Chủ nghĩa
Mác - Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc - con đường cách
mạng vơ sản. Sau này Người có kể lại: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau


8

khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta”. Có thể
khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của
chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát vọng mang lại hịa bình cho dân tộc, Người đưa ra những
thông điệp mang giá trị vĩnh hằng, đó là những thơng điệp về hịa bình, độc lập, tự do, hạnh
phúc, dân chủ, đó chính là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường Người
lựa chọn suốt 100 năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng
Việt Nam.

Hai là, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là
con đường cách mạng vô sản theo cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì
Nguyễn Ái Quốc bằng hoạt động thực tiễn tích cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, quá trình truyền bá đi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ lựa
chọn con đường đến hành động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.

Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước; phác thảo
những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập
trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Đầu năm 1927, tập Đề cương bài giảng do Nguyễn
Ái Quốc biên soạn làm tài liệu huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (1925-1927) được Bộ Tuyên
truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông do Người sáng lập, được xuất bản
thành sách với nhan đề Đường Kách mệnh. Tác phẩm Đường Kách mệnh được bí mật đưa về
trong nước và sớm trở thành tài liệu căn bản để tuyên truyền giác ngộ chính trị theo chủ nghĩa
Mác - Lênin và hướng dẫn các mặt hoạt động của Hội Thanh niên. Trên thực tế, Đường Kách
mệnh đã có ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với phong trào cách mạng trong cả nước, đặc biệt tại
Thành phố Sài Gòn và ở Nam Kỳ, đã chuẩn bị các nhân tố đảm bảo cho sự ra đời của một Đảng
Cộng sản để gánh vác nhiệm vụ lịch sử trọng đại là lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tác phẩm

chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn khơng chỉ đối với Việt Nam, mà cịn đối với cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đơng, đó là: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, chủ yếu là cơng nơng, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng
muốn thành cơng phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương pháp cách
mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế
giới…

Về tư tưởng: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm
cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến
mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung
truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp
với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội
dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời, Người đã vạch

9

trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, Nhân dân Việt Nam.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng
“thuế máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”; “đày đọa” phụ nữ, trẻ
em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân “độc ác như một bầy thú dữ”... Tác phẩm đã
“hướng các dân tộc bị áp bức” đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt “hai
cái vòi của con đỉa đế quốc” - một “vịi” bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc, một “vòi” bám
vào nhân dân thuộc địa và đề ra cho Nhân dân Việt Nam con đường cách mạng vô sản theo chủ
nghĩa Mác - Lênin.

Về tổ chức: lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời
của chính đảng vơ sản của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ
các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ,
vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam

cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí.
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người Việt Nam yêu nước dễ tiếp thu
tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong
chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.

Ba là, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng. Cuối năm 1929, phong
trào cách mạng phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự ra đời của ba tổ chức cộng sản: Đông Dương
Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sự ra đời của các
tổ chức cộng sản đã khẳng định bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt
Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng
sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều nhận là đảng cách mạng
chân chính, do đó khơng tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức.Trước
nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế
Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản để lập một chính đảng duy nhất của Việt Nam, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam.

Bốn là, Người đã soạn thảo và thơng qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng. Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam với nhiều nội
dung rất quan trọng: mục tiêu của cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách mạng,
phương pháp tiến hành cách mạng, quan hệ quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Những nội
dung ấy dẫu rằng “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho
cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại. Cương lĩnh
chính trị đầu tiên là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần
nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Và là kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách mạng và đặc biệt có giá trị trong
thời đại ngày nay. 90 năm thực hiện đường lối chiến lược theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên,
Việt Nam vẫn kiên định con đường cách mạng được khẳng định từ Cương lĩnh chính tri đầu

10


tiên, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho
hoạt động cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) khẳng định: “Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”; Đại hội lần thứ XII
(2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”. Do đó, chúng ta hồn tồn có
quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc
trong kỷ ngun tồn cầu hóa hiện nay.

b. Hội nghị thành lập đảng cộng sản Việt Nam
Được nghe báo cáo về tình hình khơng thống nhất giữa các tổ chức cộng sản ở trong
nước và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bị tan rã, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm tới Trung
Quốc vào ngày 23-12-1929. Người triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An
Nam Cộng sản Đảng họp tại Hồng Công ngày 6-1-1930 để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị kéo dài đến tuần đầu tháng 2-1930 đến Ngày 8-2-1930, các đại biểu về nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960 quyết nghị "từ nay trở đi
lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng". Để chỉ đạo Hội
nghị tiến hành đạt mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam, Nguyễn Ái
Quốc xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tự phê bình và phê bình về những thành
kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến tình trạng xung đột, cơng kích lẫn nhau, phải xóa bỏ
những khuyết điểm đó và thành thật hợp tác để thống nhất các tổ chức cộng sản. Tiếp đó, Hội
nghị bàn về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thảo luận thơng qua Chính cương,
Điều lệ, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, cử Ban Chấp
hành Trung ương lâm thời. Những ý kiến chỉ đạo đó của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được Hội
nghị tán thành và thực hiện.
Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã phê
bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của họ.
Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng sản Đảng là: điều kiện cơng nhận đảng viên
chính thức q khắt khe, điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng q khắt

khe. Đơng Dương Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: điều kiện công nhận
đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Cơng hội q khắt khe; về mặt tổ chức, đảng có
tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt.
Kết quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản.
Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thông qua kế
hoạch thành lập một Đảng Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thống nhất cách cử
Ban Chấp hành Tung ương lâm thời: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, có năm ủy viên do Đơng Dương Cộng
sản Đảng cử, Nam Kỳ có hai ủy viên do Đơng Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản.

11

II. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

1. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc.
Trong nửa cuối năm 1929 và đầu năm 1930, tại Việt Nam đã xuất hiện ba tổ chức cộng
sản, đó là Đông Dương Cộng sản Đảng (thành lập vào tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng
(thành lập vào tháng 10/1929) và Đơng Dương Cộng sản Liên đồn (thành lập vào tháng
1/1930). Mặc dù không nhận được Chỉ thị từ Quốc tế Cộng sản, nhưng nhờ nhận thức chính trị
nhạy bén của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tự tin triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
và thành công trong việc này. Sự thành công này không chỉ xuất phát từ việc ông mang danh
nghĩa là đại diện của Quốc tế Cộng sản, có quyền quyết định mọi vấn đề của cách mạng Đơng
Dương, mà cịn từ uy tín và lịng tin mà đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng được. Triệu tập
thành công Hội nghị này đã đánh dấu một bước tiến quan trọng cho Hội nghị hợp nhất tiếp
theo, mở ra cơ hội cho một diễn biến tốt đẹp của cách mạng Đông Dương, trong việc này,
Nguyễn Ái Quốc đóng vai trị rất lớn.
Việc hợp nhất các tổ chức cộng sản là một vấn đề phức tạp, bởi vì trước đây đã có nhiều
lần các tổ chức này họp bàn để hợp nhất nhưng không thành công. Các vấn đề cần phải giải
quyết trong quá trình hợp nhất là rất nhạy cảm, bao gồm việc xác định tổ chức nào được giữ lại,
tổ chức nào bị loại bỏ, tên Đảng sẽ là gì và đường lối cách mạng sẽ như thế nào.
Hội nghị hợp nhất cần phải có người chủ trì đủ tâm, tầm và trí để đưa hội nghị đi đến

thành công. Thực tế, Hội nghị hợp nhất đã diễn ra rất sôi nổi với sự tranh luận gay gắt giữa hai
nhóm đại biểu Đơng Dương và An Nam. Đại biểu Nguyễn Thiệu đại diện cho An Nam Cộng
sản Đảng đã tham gia Hội nghị và cho biết rằng những ý kiến ban đầu của cả hai nhóm "cũng
chỉ luẩn quẩn ở chỗ muốn đưa đồng chí Vương đến chỗ là quan tòa phán quyết những đúng
sai" của mỗi bên.
Khi đến vấn đề hợp nhất, không bên nào chịu lùi bước. Mỗi bên đều cho rằng bên kia tổ
chức quá phức tạp hoặc vơ ngun tắc và hẹp hịi. Ngay việc quyết định tên Đảng cũng gặp khó
khăn, với "các đại biểu nhóm Đơng Dương đề nghị giữ lại cái tên Đơng Dương Cộng sản Đảng.
Các đại biểu nhóm An Nam khơng đồng ý như vậy, cho rằng đó là cái tên của một nhóm cộng
sản cũ rồi, khơng nên dùng lại làm gì".
Cuộc tranh luận giữa hai bên có lúc gay gắt đến nỗi có thể dẫn đến tan vỡ. Tuy nhiên,
Nguyễn Ái Quốc, với cương vị là người chủ trì Hội nghị, thơng qua tài trí và kinh nghiệm hoạt
động chính trị của mình, đã khéo léo tháo gỡ từng bất đồng và đưa Hội nghị đi đến thành công.
Nguyễn Ái Quốc đóng vai trò quan trọng trong lịch sử và cách mạng Đơng Dương. Ơng
góp phần đáng kể vào sự thành cơng của phong trào cộng sản tại khu vực này. Trong quá trình
thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị
hợp nhất và thành công trong việc này. Điều này không chỉ bởi danh tiếng của ông là đại diện
của Quốc tế Cộng sản, mà cịn do uy tín và lịng tin mà ơng xây dựng được.

12

Qua Hội nghị hợp nhất, Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp quan trọng vào việc thống nhất
các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam như Chánh cương vắn tắt và Sách lược
vắn tắt. Những văn kiện này đã trở thành cơ sở cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Ông đã sáng tạo và bổ sung học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, đồng thời khẳng định
rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam.

Tầm nhìn và tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về việc giải phóng dân tộc và cách mạng đã
định hình hướng đi của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông nhấn mạnh vào việc đánh đổ tư sản và

phong kiến tay sai phản động là nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng. Đồng thời, ông cũng quan
tâm đến việc liên kết và tuyên truyền tới các tầng lớp nhân dân khác nhau nhằm kéo họ về phe
vô sản giai cấp.

2. Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thơng qua tại Hội nghị

thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của
Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách
lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam:
“chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để
giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho
dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.

Về phương diện Xã hội, Cương lĩnh xác định rõ:
- Dân chúng được tự do tổ chức.
- Nam nữ bình quyền,v.v…
- Phổ thông giáo dục theo cơng nơng hố.
Về phương diện Kinh tế, Cương lĩnh xác định:
- Thủ tiêu hết các thứ quốc trái;
- Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc
chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý;
- Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo;
- Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật
ngày làm tám giờ…

Xác định lực lượng Cách mạng: phải đồn kết cơng nhân, nơng dân-đây là lực lượng cơ
bản, trong đó giai cấp cơng nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các
lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai.
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định

13

phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng , trong bất cứ hồn cảnh nào cũng khơng
được thoả hiệp “khơng khi nào nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào đường thoả
hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng về phía
giai cấp vô sản, nhưng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì
phải đánh đổ”.

Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai
cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu
phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
“Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp cơng nhân và làm cho họ
có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.

14

PHẦN THỨ HAI

Ý NGHĨA LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG
LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG

I. Ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Cương lĩnh đầu tiên

của Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kỳ mới
cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con
đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành
ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn
thể dân tộc.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của
lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả
của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị
công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đồn kết nhất trí của những chiến sỹ
tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt
Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc
Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã
tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp
đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

15

II. Trách nghiệm của sinh viên trong tham gia công tác xây dựng Đảng hiện
nay.

“Chúng tơi đã đi khơng tiếc đời mình

Tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20, thì cịn chi Tổ quốc!.”
(Trích thơ Khúc Bảy – Thanh Thảo)

Thật vậy! Để có được nền hịa bình, độc lập, thống nhất ngày hơm nay, dân tộc ta đã trải
qua bao gian khổ hy sinh, trên mỗi con đường mỗi thửa ruộng đi qua in dấu chân bao người
anh hùng. Trong các cuộc trường chinh của dân tộc, lớp lớp thế hệ cha anh lên đường ra mặt
trận, bỏ lại sau lưng mẹ già, em thơ, vợ trẻ, họ chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, lịch sử được viết
lên bởi những tấm lòng trung kiên về một thế hệ không biết cúi đầu, họ nguyện hiến dâng xả
thân vì Tổ quốc.

Để có được tự do, hịa bình, ta khơng thể qn ký ức “mùa hè đỏ lửa”, 81 ngày đêm
Thành cổ Quảng Trị : “Mỗi mét vuông đất mà các chiến sỹ ta dành được ở Thành Cổ Quảng
Trị thực sự là một mét vuông máu”. Để giành được chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên
không 1972”, dân ta đã kiên cường chiến đấu trong 12 ngày đêm. Để có được chiến thắng tại
Hiệp định Paris lập lại hịa bình ở Việt Nam, là kết quả của gần 5 năm đàm phán với 201 phiên
họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc
phỏng vấn và phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp Thế giới.

Sau cùng, để có được ngày tồn thắng 30/4/1975, đưa cả dân tộc hân hoan trong tự do,
hịa bình, độc lập, thống nhất hai miền Nam Bắc, non sông thu về một mối. Chúng ta không thể
quên 1.146.250 Liệt sỹ trên cả nước; hơn 200.000 hài cốt Liệt sỹ chưa được tìm thấy, hơn
300.000 hài cốt Liệt sỹ đã được quy tập về các nghĩa trang nhưng chưa xác định được danh tính
tên tuổi, quê quán,…; trên 127.000 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng; gần 800.000 Thương binh và
người được hưởng chính sách như Thương binh; hơn 300.000 người hoạt động kháng chiến và
con đẻ bị nhiễm chất độc da cam; gần 111.000 người hoạt động cách mạng, người tham gia
kháng chiến bị địch bắt giam, tù đày, tra tấn trong các nhà tù nổi tiếng (Nhà tù Hỏa Lò, Sơn La,
Lao Bảo, Côn Đảo, Phú Quốc…). Những con số trên để ta thấy được độc lập dân tộc, tự do,
hồ bình là vơ giá!


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết những lời thiết tha trong Thư gửi các bạn thanh niên năm
1947, Người khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Vì thế để Đảng và đất nước ta
ngày càng lớn mạnh đồng thời nâng cao vị thế Việt Nam trên thương trường Quốc tế. Thì thanh
niên nói chung và sinh viên nói riêng cần có trách nhiệm mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng
Đảng hiện nay như:

16

- Sinh viên phải không ngừng phấn đấu làm theo lời Bác, học giỏi, rèn luyện tốt, tiếp nối
truyền thống của thế hệ cha anh, kiên định với con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân đã
lựa chọn

- Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao và phát huy những thế mạnh của mình để giúp cho việc phát triển
Đảng trong sinh viên ngày càng mạnh và đạt được hiệu quả cao nhất.

- Kiên định với lập trường của bản thân, với mục tiêu chính trị. Làm chủ phát ngơn của
mình, nhất là những vấn đề nhạy cảm cần đảm bảo tính chính xác của thơng tin.

- Cần tích cực trau dồi vốn kiến thức, chủ động tìm kiếm thơng tin, tự rèn luyện bản thân
và hồn thành tốt nội dung cơng việc được giao.

- Quan tâm đời sống chính trị- xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời thực hiện tốt
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời vận động mọi người
cùng thực hiện theo đúng quy định pháp luật.

- Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa tệ nạn
xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị

văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc.

- Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết thực, phù
hợp khả năng như: tham gia bảo vệ mơi trường, phịng chống tệ nạn xã hội, xố đói giảm
nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động mang tính xã hội như hiến máu
tình nguyện, tình nguyện viên…

- Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và xu hướng tích cực, một bộ phận thanh niên, sinh
viên, học sinh sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu
ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc; nhiều thanh
niên thiếu kiến thức - kỹ năng trong hội nhập quốc tế. Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng
lực thực hành sau đào tạo của thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội trong thanh niên đang gia tăng và diễn biến phức
tạp; xu hướng chạy theo bằng cấp, nhận thức lệch lạc về học nghề, chọn nghề, định hướng nghề
nghiệp còn phổ biến.

17

KẾT LUẬN

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và từ khi ra đời, Đảng đã có
Cương lĩnh chính trị xác định đúng con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo
phương hướng cách mạng Vơ sản, là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã
nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình
trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra
đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước.
Đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất
của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại
giành thắng lợi to lớn sau này. Là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát

triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.

Độc lập dân tộc được ghi trong Cương lĩnh là điều kiện tiên quyết cho cách
mạng phát triển, được toàn Đảng, toàn dân biến thành hiện thực. Cương lĩnh truyền
cảm hứng khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng đó thể hiện trong tư duy và hành
động. Hiện nay, tình hình cho Đảng ta thấy rằng: dân tộc trên hết, lợi ích dân tộc là cao
nhất, không phải là dân tộc theo sôvanh nước lớn và dân tộc hẹp hịi, nhưng như vậy
khơng có nghĩa là khơng coi trọng hợp tác quốc tế, theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “tình
nghĩa năm châu bốn biển một nhà”. Xem để thấy rằng, ngay từ Cương lĩnh chính trị
tháng 2-1930, Đảng đã đưa tầm nhìn của mình lên rất cao và đi trước rất xa để đáp ứng
yêu cầu thời cuộc. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thì giải phóng xã hội và giải
phóng con người lại là những điều kiện bảo đảm vững chắc nhất cho giải phóng dân
tộc. Vậy giải phóng con người mới đích thị là mục tiêu cuối cùng cần phải đạt tới như
tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Qua đây, chúng ta đã hiểu hơn về vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh đúng đắn đầu tiên của Đảng. Người
là một nhà lãnh đạo xuất sắc đồng thời có tầm nhìn sâu sắc về tương lai của đất nước.
Những ý tưởng cách mạng của người đã lan tỏa và trở thành sức mạnh động lực cho
hàng triệu con người tham gia vào cuộc cách mạng giành độc lập và tự do cho dân tộc
Việt Nam. Người để lại một di sản to lớn và vơ giá trong tư duy cách mạng, từ đó
truyền cảm hứng cho các thế hệ tiếp theo về tinh thần đồn kết, chiến đấu khơng ngừng
nghỉ vì mục tiêu cao cả của đất nước. Mặc khác, thế hệ trẻ hơm nay nói riêng và mầm
non tương lai của dân tộc Việt Nam nói chung phải học tập và khắc sâu lịch sử hào
hùng của đồng bào – cha anh ta trong q khứ, từ đó cống hiến hết mình cho sự phát
triển và vinh quang của đất nước trong tương lai. Phải tìm mọi cách mở rộng, củng cố,
tăng cường chất lượng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần tăng thêm năng lực lắng
nghe để tìm ra chân lý. Hãy khắc phục cho bằng được 4 biểu hiện của bệnh “Nói -
Làm”: nói nhiều nhưng làm thì ít; nói hay nhưng làm thì dở; nói mà khơng làm; nói
một đằng làm một nẻo. Hãy “nói thì phải làm” như Hồ Chí Minh viết ở trang đầu tiên

Tư cách của người cách mạng của cuốn Đường cách mệnh!

18


×