TIỂU LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài:
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ GIÁO DỤC
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
MỤC LỤCC LỤC LỤCC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
CHƯƠNG 1: SỨ MỆNH LỊC SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN – MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG...................................................................4
1.1 Một số quan niệm........................................................................................4
1.2 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử đó
trong thời đại ngày nay:.....................................................................................5
1.3 Vai trị lãnh đạo của giai cấp công nhân :...................................................9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỨ MỆNH LỊCH SỦ CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VÀ GIÁO DỤC SỨ MỆNH LỊCH SỬ GIAI CẤP CÔNG
NHÂN CHO SINH VIÊN HIỆN NAY........................................................13
2.1 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:..................13
2.2. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam:...............................................14
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ GIÁO DỤC SỨ MỆNH LỊCH SỬ
GIAI CẤP CÔNG NHÂN CHO SINH VIÊN LÀO TẠI HỌC VIỆN BÁO
CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN THỜI GIAN TỚI..........................................22
3.1 Một số phương hướng, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thời gian tới.....................................................................................................22
3.2 Một số giải pháp nâng cao sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giáo
dục sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân cho sinh viên Lào tại Học viện Báo
chí và tuyên truyền thời gian tới......................................................................24
KẾT LUẬN....................................................................................................28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................29
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
vào nghiên cứu sản xuất tư bản chủ nghĩa, Các Mác đã vạch ra những quy luật
kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, nhìn nhận chủ nghĩa tư bản trong cả quá
trình phát sinh, và diệt vong của nó. Việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư
được ví như “hịn đá tảng” trong toàn bộ học thuyết của Mác.
“Đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động tồn thế giới thì học
thuyết Mác là vũ khí lí luận, vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh
chống áp bức, bóc lột cũng như trong sự nghiệp xây dựng xã hội tương lai
tươi đẹp”.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam sinh ra trong lịng một dân tộc có truyền
thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. ở giai cấp công nhân, nỗi nhục
mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc
làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ
cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công
nhân được nhân lên gấp bội.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong
khơng khí sơi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa
chống thực dân Pháp liên tục nổ ra từ khi chủ nghĩa đế quốc Pháp đặt chân
lên đất nước ta: phong trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa của Phan Đình
Phùng, của Hồng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, v.v. đã có tác dụng to lớn đối với
việc cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích
nơ lệ của tồn thể nhân dân ta. Nhưng tất cả các phong trào ấy đều thất bại và
sự nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối.
Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Chủ
1
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
Chính vì vậy, tơi chọn đề tài “Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân và giáo dục sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân cho sinh viên hiện
nay”, làm tiểu luận kết thúc môn học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn về sứ mẹnh lịch sử của
giai cấp công nhân, đề tài phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm xây dựng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giáo dục sứ
mệnh lịch sử giai cấp công nhân cho sinh viên Lào tại Học viện Báo chí và
tuyên truyền trong thời gian tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản
chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa thông qua
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở nhận thức đó, sinh viên có khả năng nhận biết, phân tích
đánh giá một cách đúng đắn về lí luận và thực tiễn sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cơng nhân nói chung và giai cấp cơng nhân Việt Nam nói riêng.
Quyết tâm bằng nhiều hình thức khác nhau, đấu tranh chống lại các
luận điệu xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và lãnh
đạo của Đảng cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng.
Từ đó giúp sinh viên vững tin, tự giác, phấn đấu lao động học tập và
cống hiến theo ngọn cờ của giai cấp công nhân, của Đảng cộng sản Việt Nam,
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
4. Kết cấu: 3 chương
Chương 1: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân – Một số vấn đề lý
luận chung.
Chương 2: Thực trạng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giáo
dục sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân cho sinh viên hiện nay.
2
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân và giáo dục sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân cho sinh viên Lào
tại Học viện Báo chí và tuyên truyền thời gian tới.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỨ MỆNH LỊC SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN – MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Một số quan niệm
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: C.Mác và Ăngghen đã dùng
nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về GCCN như: giai cấp vô sản, giai cấp xã
hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình, lao động làm thuê
ở thế kỉ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, GCCN hiện đại, GCCN đại công nhân
đại công nghiệp như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm:
GCCN - con đẻ của nền đại công nghiệp TBCN, giai cấp đại biểu cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Cũng theo C.Mác
và Ăngghen, GCCN luôn mang hai thuộc tính cơ bản sau: Về phương thức
lao động, phương thúc sản xuất: đó là những người lao động trực tiếp hay
gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng
hiện đại và xã hội hố cao. Về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN: đó là
người lao động khơng có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư
bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên
một trong những đặc trưng cơ bản của GCCN dưới chế độ TBCN nên C.Mác
và Ăngghen cịn gọi là giai cấp vơ sản. Những quan điểm đó cho đến nay vẫn
giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu
GCCN hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của GCCN trong
thời đại hiện nay.
Định nghĩa giai cấp công nhân: " GCCN là một tập đồn xã hội ổn
định, hình thành và phát triển cùng với q trình phát triển của nền cơng
nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã
hội hố ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy
trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã
4
hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong
thời đại hiện nay." Tại các nước tư bản, GCCN là những người khơng có hoặc
về cơ bản khơng có tư liệu sản xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột
giá trị thặng dư. Còn ở các nước xã hội chủ nghĩa, GCCN là người đã cùng
nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp lãnh
đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
1.2 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch
sử đó trong thời đại ngày nay:
1.2.1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
* Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Trong sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội TBCN lên hình thái
kinh tế xã hội CSCN, GCCN là giai cấp trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả
mãn các điều kiện: là giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất tiên
tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập; giai cấp này phải tiến hành thuyết
phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách mạng. Và hai nhiệm vụ quan
trọng nhất đó là: tiến hành xố bỏ chế độ cũ, xây dựng hình thái kinh tế xã hội
mới tiến bộ hơn. Thực chất nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN đó là:
Trong lĩnh vực kinh tế: GCCN tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuát, nâng cao
năng suất lao động ,thoả mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân
Trong lĩnh vực chính trị: GCCN phải trở thành giai cấp thống trị trong xã hội.
Muôn vây nhiệm vụ đặt ra là phải đập tan chính quyền tư sản, xây dựng nền
chun chính vơ sản mà thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân.
Trong lĩnh vực xã hội: GCCN phải tiến hành xố bỏ giai cấp bóc
lột,phải xố bỏ giai cấp nói chung,tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa
người với người. GCCN có vai trị vơ cùng quan trọng trong lịch sử tồn nhân
loại. Họ chính là lực lượng lãnh đạo các sự nghiệp: sự nghiệp giải phóng giai
5
cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội và dân tộc; sự nghiệp giải phóng người lao
động và sự nghiệp giải phóng con người. Do đó sứ mệnh lịch sử của GCCN
phải được thực hiện trên toàn thế giới.
Để có cái nhìn sâu sắc hơn về sứ mệnh lịch sử của GCCN, ta sẽ tìm
hiểu đơi chút về ngun nhân hay nói cách khác là những điều kiện nào đã
trao cho GCCN sứ mệnh lịch sử ấy. Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan,
GCCN là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới CNTB. Và
như vậy nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN. Địa vị
kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho GCCN trở thành giai cấp
cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó.
Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đoàn kết các giai
cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản, đó là khả năng đi đầu trong cuộc
đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ sự phân tích về địa vị kinh tế - xã hội và những đặc điểm của
GCCN, ta có thể hiểu rõ những cơ sở khách quan khẳng định GCCN có sứ
mệnh lịch sử là đấu tranh chống lại chế độ TBCN và từng bước xây dựng
thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và CSCN trên phạm vi toàn
thế giới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản - đội tiên phong của GCCN.
1.2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày
nay:
Trước hết, GCCN phải là giai cấp thống trị về chính trị. Với địa vị
thống trị của mình, GCCN là giai cấp quyết định xu hướng phát triển của lịch
sử; giai cấp cầm quyền ở một số quốc gia trên thế giới. Hơn nữa, GCCN là
động lực và là lực lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh nhằm thủ tiêu mọi sự áp bức
bóc lột và sự tha hoá con người, sáng tạo ra xã hội mới. Thủ tiêu áp bức bóc
lột và mọi hình thức tha hố, thực hiện sự giải phóng con người địi hỏi
GCCN trước hết phải giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền. Sau khi trở
thành giai cấp cầm quyên, GCCN trờ thành lực lượng lãnh đạo, tổ chức và
6
thực hiện quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và CSCN
trên phạm vi mỗi dân tộc và trên toàn thế giới, thực hiện sự nghiệp giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
GCCN là lực lượng lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn
toàn các giai cấp. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN khơng phải nhằm
duy trì GCCN mà vì mục tiêu giải phóng con người. Trong "Tun ngơn của
Đảng Cộng Sản" Mác và Ăngghen đã khẳng định: "Toàn bộ lý luận của chủ
nghĩa cộng sản là thủ tiêu chế độ tư hữu". Một khi chế độ tư hữu khơng cịn
thì ngun nhân phân chia xã hội thành giai cấp, nhà nước cũng bị xố bỏ. Và
do đó với tư cách là một giai cấp, GCCN cũng sẽ khơng cịn lý do tồn tại. Tất
nhiên con đường để đi tới một xã hội không giai cấp rất quanh co và phức tạp.
Ta thừa nhận một thực tế là ngày nay trước sự biến đổi không ngừng của thế
giới, khi mà CNTB đang thắng thế, phong trào cách mạng trên thế giới đang
tạm thoái trào và đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ đang diễn ra
với một tốc độ chóng mặt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thì bản
thân GCCN cũng đang có nhiều thay đổi. Trước hết có thể dễ dàng nhận ra
những thay đổi về mặt chất của đội ngũ cơng nhân trên tồn thế giới.
Ngày nay trình độ tay nghề chun mơn của GCCN đã được nâng lên
rõ rệt. Công nhân ngày càng được nâng cao trình độ, tay nghề thêm vào đó là
xu hướng "trí thức hố" cơng nhân đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Đây
là một xu thế tất yếu khách quan bởi nó xuất phát từ địi hỏi của thực tiễn sản
xuất. Đời sống của công nhân không ngừng được cải thiện. Tại các nước phát
triển GCCN đang được trung lưu hố, được quan tâm khơng chỉ về mặt vật
chất mà còn cả về mặt tinh thần. Bản thân GCCN thế giới cũng có nhiều
chuyển biến tích cực về giác ngộ cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các phong trào đấu tranh của công nhân về vấn đề dân sinh dân chủ đang
diễn ra mạnh mẽ.
Bên cạnh đó GCCN hiện nay cũng có những chuyển biến mạnh mẽ về
mặt lượng. Số lượng công nhân thế giới không ngừng tăng lên, họ trở thành
7
lực lượng lao động đơng đảo, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong xã hội.
Không những vậy giai cấp cơng nhân cịn đang biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu
chủ yếu theo hướng: giảm số lượng lao động giản đơn, lao động trong những
ngành nghề truyền thống - tăng số lượng lao động phức tạp, lao động trong
các ngành nghề hiện đại.
Ngày nay, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội khoa học và một số kẻ cơ hội
đang phủ nhận học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của GCCN. Theo
họ GCCN ngày càng “teo đi“, “tan biến” vào các giai cấp, tầng lớp xã hội
khác. Nhưng thực tế đã chứng minh đó là ý kiến hồn tồn sai lầm, vì GCCN
hiện nay tuy có sự biến đổi về mặt số lượng hoặc dịch chuyển vào các giai
cấp khác, chất lượng công nhân không ngừng được năng cao nhưng bản chất
của công nhân và GCCN không hề thay đổi. Mặt khác, mâu thuẫn giữa lực lư-
ợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng chế độ TBCN đang diễn ra hết
sức gay gắt. Tuy đã đạt được một số thành tựu nhưng CNTB vẫn không sao
giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong lịng nó. Nền kinh tế TBCN có
khả năng phát triển nhưng thường xuyên phải đương đầu với các cuộc khủng
hoảng nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất nghiệp .
Phong trào đấu tranh của GCCN tuy đang đứng trước những thách thức
to lớn, nhưng sự phát triển lực lượng sản xuất thế giới vẫn đang chuẩn bị
những tiền đề khách quan cho GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Sự
thực là ở những nước tư bản phát triển, tuy đời sống của một bộ phận không
nhỏ trong GCCN đã được cải thiện, họ được "trung lưu hoá", được nắm cổ
phần trong các nhà máy, xí nghiệp .Song điều đó khơng có nghĩa là cơng nhân
ở các nước này khơng cịn bị bóc lột giá trị thặng dư. Một số cơng nhân có cổ
phần, cổ phiếu trong cơng ty nhưng điều đó khơng hề làm thay đổi một sự
thật là toàn bộ tư liệu sản xuất TBCN vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản. Do
đó GCCN về cơ bản vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư và bị bóc lột nhiều hơn tr-
ước. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ
ngày nay cũng là một trong những biện pháp " hoàn hảo " và " tinh vi " giúp
8
giai cấp tư sản tiếp tục bóc lột giá trị thặng dư của cơng nhân. Cũng có quan
điểm cho rằng thời đại ngày nay là thời đại của nền “văn minh trí tuệ”, của
“kinh tế tri thức”, do đó tri thức mới là lực lượng tiên phong, có vai trị lãnh
đạo cách mạng. Tất nhiên, trí thức có vai trị quan trọng trong mọi thời đại.
Song trí thức khơng thể đóng vai trị lãnh đạo thay thế vai trị lãnh đạo thay
thế GCCN. Bởi lẽ: trong xã hội trí thức chỉ là một tầng lớp, họ chưa bao giờ
và không bao giờ là một giai cấp. Mặt khác, trí thức khơng có lợi ích đối
kháng trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản chính vì vậy mà trí thức khơng
có tinh thần cách mạng triệt để như GCCN.
Từ những phân tích trên ta đã làm rõ những cơ sở khách quan để khẳng
định GCCN có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh để thủ tiêu chế độ TBCN và từng
bước xây dựng thành công xã hội mới - xã hội CSCN với giai đoạn đàu là xã
hội XHCN trên phạm vi tồn thế giới. Và dù lịch sử thế giới có thay đổi như
thế nào, GCCN có những bước chuyển biến ra sao thì sự thực đó là: sứ mệnh
lịch sử của GCCN không thay đổi và GCCN sẽ thực hiện thành cơng sứ mệnh
lịch sử của mình khi thời cơ đến.
1.3 Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân :
Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, Ăngghen là đã sớm biết
tách riêng giai cấp vô sản ra đời từ khối quần chúng bị áp bức, phát hiện ra vị
trí đặc biệt và những xu hướng lịch sử của nó. Từ đó khẳng định sứ mệnh lớn
của Giai cấp vô sản và chỉ ra những phương pháp thực hiện sứ mệnh đó.
Lý luận về sứ mệnh lịch sử của Giai cấp công nhân là một trong những
vấn đề chủ yếu nhất của chủ nghĩa Mác- Lênin. Nó đã được Mác, Ăngghen
luận chứng một cách khoa học xuyên suốt trong nhiều tác phẩm và được
Lênin tiếp tục phát triển trong những điều kiện lịch sử mới.
Ngay từ cuối năm 1944, trong tác phẩm “góp phần phê phán triết học”
Pháp quyền của Hê-Ghen, lần đầu tiên Mác đã nêu lên vấn đề sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản là những điều kiện mà qua đó nó xóa bỏ mối quan hệ bóc
lột
9
Tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ xã hội mới. Đến bản “Tun ngơn
của Đảng cộng sản” và bộ “Tư bản” thì lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân đã phát triển đến một mức độ nhất định. “ Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản” là một khái quát về lý luận phong trào Tư bản chủ nghĩa vạch
rõ cơ sở kinh tế của cơ cấu xã hội và những xu hướng tiếp tục phát triển của
nó, đặt cơ sở cho việc giải thích vai trị của giai cấp công nhân trong việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Đến thời kì này, nhiều phạm trù, khái niệm cơ bản nhất đã được xác lập
và sau đó được tiếp tục phát triển. Trong điều kiện mới Lênin đã phát triển lý
luận Maxit về giai cấp công nhân như là: “điều chủ yếu của học thuyết Mác”.
Trong tất cả mọi giai đoạn đấu tranh vì một thế giới mới, vì chủ nghĩa cộng
sản, giai cấp công nhân là lãnh tụ của phong trào cách mạng, là người lãnh
đạo của nhân dân lao động”. Lênin đã cụ thể hóa sự lãnh đạo của giai cấp
cơng nhân trong điều kiện của cách mạng vô sản và chuyên chính vơ sản.
Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân được thể hiện ở một số luận điểm cơ bản sau:
+ Giai cấp công nhân là người đào mộ chôn chủ nghĩa tư bản và người
sáng tạo ra xã hội mới.
+ Giai cấp công nhân là lãnh đạo trong phong trào cách mạng giải
phóng của quần chúng bị áp bức trong xã hội hiện tại.
+ Lợi ích giai cấp tư sản và vô sản là đối lập và khơng điều hịa được
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là tất yếu và sẽ dẫn
đến chun chính vơ sản.
+ Giai cấp vô sản phải hiểu rõ sứ mệnh của mình. Chủ nghĩa Mác-
Lênin là điều kiện ắt có, cơ bản để giai cấp vơ sản từ giai cấp “tự nó’ chuyển
thành giai cấp”vì nó”.
+ Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu khách quan, Đảng Cộng sản
là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô
10
sản” vai trị, sứ mệnh của giai cấp vơ sản” luôn là vấn đề trung tâm trong suốt
một cuộc đấu tranh chính trị- tư tưởng lâu dài và quyết liệt từ khi chủ nghĩa
Mác- Lênin ra đời và các giai đoạn phát triển sau đó.
Hình thức khá phổ biến của sự phủ nhận vai trị của giai cấp vơ sản là
sự cơng kích khái niệm khoa học của Mác, Ăngghen về giai cấp và giai cấp
vô sản. Một số người nêu lên tư tưởng “phi kinh tế” về giai cấp để xóa mờ
quan niệm của chủ nghĩa Mác cho rằng giai cấp vừa là phạm trù kinh tế vừa
là một phạm trù xã hội. Không thể khẳng định giai cấp vô sản một cách tủy
tiện, khơng tính đến vấn đề chiếm hữu – sở hữu tư liệu sản xuất, hơn nữ lại
chỉ coi đó là một hiện tượng tâm lý. Một số người khác lại cho rằng khơng có
một giai cấp cơng nhân được xác định rõ rang. Điểm tựa của những luận điểm
xuyên tạc phạm trù giai cấp nói trên là ở chỗ không xem quan hệ sở hữu tư
liệu sản xuất như là một tiêu chuẩn khách quan để xem xét sản xuất.
Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học – kỹ
thuật và những hệ quả mà nó tạo ra, một lập luận phổ biến chống lại sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân cho rằng lý luận Mác – Lênin về vấn đề này là lỗi
thời, giai cấp vơ sản sẽ bị xói mịn, thậm chí tiêu vong trước sự phát triển của
cách mạng
Khoa học kỹ thuật. Theo họ, cuộc cách mạng Khoa học kỹ thuật đã và
đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trong sự phân công lao động xã hội, hiện
tượng “trí thức hóa lao động” phát triển mạnh tỷ lệ lao động ngày càng tăng
cao hơn so với lao động chân ta, cơ cấu xã hội chủ nghĩa xã hội sẽ thay đổi
mạnh.
Họ cũng cho rằng vai trò kinh tế của giai cấp công nhân sẽ giảm dần và
trong tương lai, giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý luận tư sản
khác tuy không đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất. Một số nhà lý
luận tư sản khác tuy không đồng ý rằng giai cấp công nhân sẽ biến mất,
nhưng lại cho rằng giai cấp cơng nhân khơng cịn là nhân vật chủ yếu của lịch
sử.
11
Cách mạng khoa học kỹ thuật có đem đến những biến đổi trong phân
công lao động xã hội trong nội dung, phương thức lao động, trong thành phần
giai cấp vô sản. Thế nhưng điều đó hồn tồn “khơng xóa mờ” quan hệ sản
xuất Tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn giữa lao động với tư bản. Trí thức khơng
là một giai cấp mà chỉ là một tẩng lớp đặc biệt thuộc nhiều giai cấp khác. Sự
ngăn cách giữa lao động chân tay và lao động trí óc là một sai lầm về lý luận.
Cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho thành phần giai cấp công nhân thêm đa
dạng, bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc, lao động trong khu
vực sản xuất vật chất và dịch vụ…. Quá trình trí thức hóa phát triển sẽ có thể
đưa tới một tầng lớp đặc biệt trong giai cấp công nhân chứ khơng hề xóa bỏ
giai cấp cơng nhân. Nhìn chung cách mạng Khoa học kỹ thuật sẽ làm cho giai
cấp công nhân phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, sau sự sụp đổ của mơ hình Chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước,
các nhà lý luận tư sản lại một lần nữa cao giọng cho rằng họ đang nói “những
lời cuối cùng cho Mác” (“the last words to Mark”) và cho lý luận về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân. Sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở một
số nước vừa qua không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác và lý luận về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trái lại, ở nhiều nguyên nhân của cuộc
khủng hoảng sự sụp đổ đó là xuất phát từ chỗ khơng nắm vững vai trị lãnh
đạo của giai cấp cơng nhân và khơng thực hiện chun chính vơ sản một cách
đúng đắn, mơ hồ về mâu thuẫn giai cấp trên bình diện thế giới.
12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỨ MỆNH LỊCH SỦ CỦA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN VÀ GIÁO DỤC SỨ MỆNH LỊCH SỬ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
2.1 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam:
Cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XX, nước ta là một nước thuộc địa nửa
phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. GCCN nước ta ra
đời trước giai cấp tư sản, sau cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và là
giai cấp có lợi ích trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp. Cùng với quá
trình phát triển của cách mạng, GCCN nước ta sớm trở thành một bộ phận của
GCCN quốc tế. Song do điều kiện kinh tế - xã hội và hoàn ra đời nên GCCN
Việt Nam ngoài những đặc điểm chung của GCCN quốc tế, còn mang những
đặc điểm riêng. Ra đời sau cách mạng tháng Mười Nga, GCCN nước ta là giai
cấp thuần nhất về tư tưởng, sớm tập trung về lực lượng, sớm giác ngộ cách
mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và tổ chức được chính Đảng của mình.
Hơn nữa, GCCN Việt Nam được kế thừa truyền thống đấu tranh anh hùng bất
khuất của dân tộc, lại phải chịu ba tầng áp bức nặng nề nên họ có tinh thần
cách mạng cao. Đa số công nhân xuất thân từ nông dân và các tầng lớp lao
dộng khác nên có mối liên hệ khăng khít, thường xun, chặt chẽ với giai cấp
nơng dân, tầng lớp trí thức cũng như các giai tầng khác trong xã hội. Là một
bộ phận của GCCN quốc tế nhưng với những đặc điểm vừa phân tích, sứ
mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam cũng có những nội dung khác so với sứ
mệnh lịch sử của GCCN thế giới nói chung. Trong giai đoạn từ những năm 30
của thế kỷ XX, ta có thể khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
Việt Nam đó là lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là
Đảng Cộng Sản Việt Nam đánh đuổi bè lũ thực dân Pháp và đế quốc Mĩ,
giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Suốt chặng đường dài ngót thế kỷ gian
nan thử thách ấy, GCCN Việt Nam đã được tôi luyện và trưởng thành về mọi
mặt, xứng đáng là lực lượng nịng cốt của liên minh cồng nơng, trí thức vững
13
chắc. Trong giai đoạn hiện nay khi mà đất nước ta đã và đang tiến hành công
cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực thì GCCN Việt Nam phải "tự mình trở
thành dân tộc", tiêu biểu cho quyền lợi của dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên
trên quyền lợi giai cấp, giữ vững bản chất cách mạng, bản lĩnh chính trị của
mình, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ văn mình
để phấn đấu và đặc biệt là trở thành lực lượng đi đầu trong công cuộc CNH -
HĐH, xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới. Nghị quyết số 20 NQ/TW Hội nghị
lần thứ sáu Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá X đã khẳng định: " GCCN
nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thơng qua
đội tiên phong của mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội; lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh;
lực lượng nòng cốt trong liên minh GCCN với giai cấp nơng dân và tầng lớp
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng ."
2.2. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam:
Những năm cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XX khi tầng lớp tư sản mại bản
tiến vào nước ta thì những nhóm công nhân Việt Nam riêng lẻ cũng bắt đầu
xuất hiện và từng bước trưởng thành với tư cách là một giai cấp. Thời Việt
Nam thuộc Pháp, giới chủ nhà máy, xí nghiệp đã chia cơng nhân ra làm hai
loại: "cơng nhân áo xanh" và "công nhân áo nâu". Việc Đảng Cộng Sản Việt
Nam được thành lập vào đầu năm 1930 đã đánh dấu cột mốc sự chuyển biến
về chất trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam từ tự phát tiến
đến tự giác. Trong lịch sử của mình GCCN Việt Nam cùng với đội tiên phong
của mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện thành công cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ, tiến lên cách mạng XHCN. GCCN nước ta đã có những cuộc
đấu tranh quyết liệt chống bè lũ thực dân Pháp. Rất nhiều công nhân chân
chính đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh này để giành lại độc lập tự do cho
dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, GCCN ở cả hai miền
14
Bắc Nam đã có nhiều cống hiến đặc biệt xuất sắc. Từ năm 1955 đến năm
1975, miền Bắc nước ta bước váo công cuộc xây dựng CNXH với mục tiêu
cơ bản là khôi phục và cải tạo nền kinh tế. GCCN miền Bắc thời kỳ này sôi
nổi thi đua phấn đấu theo lời kêu gọi của Bác Hồ: " Mỗi người làm việc bằng
hai vì miền Nam ruột thịt ". Sau khi hai miền Nam Bắc thống nhất, đất nước
ta bước vào thời kỳ xây dựng XHCN trên cả nước. GCCN có khoảng 5triệu
người, chiếm khoảng 6% dân số. Điểm thuận lợi lớn nhất của GCCN nước ta
lúc đó là được sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần hăng say lao động để xây
dựng quê hương, đất nước. Qua quá trinh đổi mới xây dựng đất nước, GCCN
không chỉ phát huy vai trị của mình, đóng góp vào sự nghiệp đổi mới mà cịn
là sản phẩm của qúa trình đổi mới, GCCN không ngừng biến đổi và phát
triển. Sự biến đổi trước hết là ở cơ cấu GCCN, họ khơng cịn thuần t là
những người lao động cơng nghiệp ở các nhà máy, xí nghiệp. Ngày nay
GCCN nước ta là đội ngũ được đào tạo khá cơ bản, có hệ thống trên nền tảng
văn hó phổ thơng và dạy nghề chuyên nghiệp. Họ sớm thích nghi với nền
kinh tế thị trường và phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại. GCCN có mối
quan hệ tự nhiên, máu thịt với giai cáp nơng dân, tầng lớp trí thức và nhân
dân lao động. Họ là lực lượng nòng cốt xây dựng khối đại đồn kết tồn dân
tộc. Trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, GCCN nước ta đã thể
hiện xứng đáng là một bộ phận của GCCN quốc tế, tiếp tục lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của mình. Khơng những vậy mà cơng nhân Việt Nam cịn chủ
động tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế có tính thời đại như: dân số, mơi
trường, văn hố, năng lượng, lương thực, bệnh tật, chiến tranh và hồ bình .
Với những chuyển biến mang tính tích cực của mình, GCCN đang đóng vai
trò ngày một quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đắt nước. Về mặt sản xuất,
GCCN là lực lượng cơ bản, chủ yếu có vai trị to lớn trong nền kinh tế quốc
dân. Mặc dù về số lượng, GCCN chiếm một tỷ lệ không lớn trong tổng số dân
cư và chỉ chiếm khoảng 13% lao động xã hội nhưng lại nắm giữ những cơ sở
15
vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại của xã hội, quyết định phương
hướng phát triển của nền kinh tế, học cũng là lực lượng lao động đóng góp
nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. GCCN đi đầu trong lao động sáng tạo,
xây dựng đất nước. Chúng ta tự hào về sự thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của
đất nước với các thành tựu về kinh tế, văn hóa, cơ sở hạ tầng .Đội ngũ cơng
nhân Việt Nam đã có mặt trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, các thành phần,
các ngành kinh tế. Thực tế này trái ngược với nhận định của một số người cho
rằng vai trò của GCCN ngày càng giảm đi trong xã hội hiện đại. GCCN là lực
lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, không chấp nhận đa
ngun chính trị, đa đảng đối lập. Lịng tin của GCCN vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào sự nghiệp đổi mới ngày càng được củng cố và giữ vững. Tham gia
vào đủ các thành phần kinh tế phong phú, đa dang và phức tạp nhưng GCCN
luôn giữ vững được bản chất cách mạng, bản lĩnh chính trị của mình, lấy mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ văn minh để phấn đấu,
lấy việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế làm phương châm và nguyên tắc hoạt động GCCN nước ta là lực lượng tích
cực, kiên quyết đi tiên phong trong mặt trận đấu tranh chống tiêu cực, tham
nhũng và các tệ nạn xã hội, là lực lượng chính trị - xã hội quan trọng bảo vệ
Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, xây dựng nền quốc
phịng tồn dân, nhất là trong nền cơng nghiệp quốc phịng. GCCN Việt Nam
rất nhạy cảm chính trị, khơng hoang mang dao động, luôn cảnh giác với mọi
âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, làm thất bại mọi âm mưu "diễn
biến hịa bình", giữ vững mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, kiên
định con đường đi lên CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Qua hơn 20 năm đổi mới cùng với quá trình CNH - HĐH đất nước,
GCCN nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên sự phát triển của
GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu cũng như trình độ học
vấn, chun mơn .cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại háo và hội nhập
kinh tế quốc tế. Đội ngũ công nhân nước ta đang thiếu nghiêm trọng các
16
chuyên gia kỹ thuât, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong
công nghiệp và kỷ luật lao động cịn nhiều hạn chế. Đa phần cơng nhân xuất
thân từ nông dân, chưa qua đào tạo cơ bản. GCCN còn hạn chế về phát huy
vai trò nòng cốt trong liên minh cơng - nơng - trí thức. Giác ngộ giai cấp và
bản lĩnh chính trị của cơng nhân khơng đồng đều, sự hiểu biết về chính sách,
pháp luật cịn nhiều hạn chế. Tỉ lệ Đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ
cơng nhân cịn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào
Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Đời sống vật
chất và tinh thần của cơng nhân đang có nhiều khó khăn, bức xức, đặc biệt là
ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Bên cạnh những đặc
điểm của giai cấp cơng nhân nói chung, giai cấp cơng nhân Việt Nam có
những đặc điểm riêng. Giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư
sản, là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp và bè lũ tay sai.
Giai cấp công nhân Việt Nam nhanh chóng trưởng thành về ý thức chính trị,
sớm giác ngộ lý tưởng, mục tiêu cách mạng; có mối quan hệ gắn bó mật thiết
với giai cấp nơng dân và các tầng lớp nhân dân lao động. Từ khi Đảng Cộng
sảnViệt Nam ra đời giai cấp công nhân Việt Nam đã giác ngộ về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp mình, thể hiện là lực lượng chính trị tiên phong trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Tại Đại hội lần thứ Sáu của Ban chấp hành Trung ương khóa X, Đảng
ta đã nhận định: Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn
bao gồm những người lao động chân tay, trí óc, làm cơng hưởng lương trong
các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh
doanh, dịch vụ có tính chất cơng nghiệp. Dưới tác động của q trình cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa, của nền kinh tế thị trường, xu hướng quốc tế hóa
nền kinh tế đã làm biến đổi cơ cấu giai cấp trong xã hội, đặc biệt là giai cấp
17
công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có nhiều
biến đổi sâu sắc. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1 Những biến đổi tích cực của giai cấp cơng nhân Việt Nam hiện
nay
Giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về cơ
cấu thành phần và ngành nghề.
Trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, chủ trương phát
triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo nên sự chuyển biến trong cơ cấu lực
lượng lao động xã hội. Giai cấp công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh
về số lượng, đa dạng về cơ cấu theo ngành nghề và thành phần kinh tế. Trong
đó, số cơng nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Đồng thời, xuất
hiện ngày càng đông bộ phận công nhân làm việc trong các ngành dịch vụ.
Giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên mơn
nghề nghiệp, hình thành tác phong và kỷ luật lao động theo hướng hiện đại.
Quá trình hội nhập quốc tế đã tiếp nhận những thành tựu khoa học, kỹ thuật
và công nghệ hiện đại vào sản xuất, tạo động lực để giai cấp công nhân nước
ta ngày càng phát triển cao về trình độ chun mơn nghề nghiệp. Hình thành
ngày càng đơng đảo bộ phận cơng nhân trí thức (có trình độ cao đẳng, đại học
trở lên) làm cơng tác quản lý sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và quản lý khoa
học kỹ thuật gắn với sản xuất kinh doanh hoặc trực tiếp sản xuất. Công nhân
là cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, công nhân bậc cao và thợ giỏi đã năng động, sáng tạo, có nhiều sáng
kiến có giá trị cao được áp dụng. Đây là bộ phận đóng vai trị quan trọng
trong q trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập; góp phần nâng cao chất
lượng, bảo đảm giữ vững sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bên cạnh đó, q trình hội nhập kinh tế quốc tế, giúp giai cấp công nhân rèn
18