Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Đề án giáo dục phụ nữ về tỷ lệ sinh và sức khỏe trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.07 KB, 29 trang )

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Đề tài

GIÁO DỤC PHỤ NỮ VỚI TỶ LỆ SINH VÀ

SỨC KHỎE TRẺ EM

Mục lục:

Lời mở đầu........................................................................................................................... 2
Phần 1 : Mơ tả lý thuyết.......................................................................................................2
1.1. Giáo dục và vai trị của giáo dục trong phát triển.......................................................2
1.2. Vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội:..............................................................5
1.3. Giáo dục và phát triển phụ nữ....................................................................................6
Phần 2. Giáo dục phụ nữ với tỷ lệ sinh và sức khỏe trẻ em................................................7
2.1. Tỷ lệ sinh...................................................................................................................7
2.2. Sức khỏe trẻ em.........................................................................................................8
2.3. Giáo dục phụ nữ ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh và sức khỏe trẻ em..................................9

2.3.1. Ở các quốc gia phát triển………………………………………………………9
2.3.2. Ở các quốc gia đang phát triển……………………………………………….10

Phần 3: Liên hệ thực tế.....................................................................................................14
3.1. Thực trạng về tỷ lệ sinh và vấn đề sức khỏe trẻ em ở Việt Nam..............................14
3.2. Vấn đề sức khỏe bà mẹ và trẻ em.............................................................................18
Phần 4. Kết luận và một số ý kiến.....................................................................................22

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Lời mở đầu



Trong xu thế hội nhập khu vực hóa, tồn cầu hóa đã đưa các quốc gia xích lại gần
nhau hơn. Các quốc gia cùng hợp tác trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm phát triển
vì mục tiêu nhân loại nói chung và mục tiêu quốc gia nói riêng đã trở thành xu hướng tất yếu
và Việt Nam cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Việt Nam đã có những thành tựu nhất định
góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước và góp phần vào giải quyết các vấn đề mang
tính tồn cầu. Nhưng để q trình hội nhập ngày càng phát triển hơn nữa, nước ta cần giữ
gìn, tạo lập và đảm bảo các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực. Đây là nguồn lực cơ bản,
chủ yếu nhất cho quá trình hội nhập, phát triển. Nguồn nhân lực vừa là lực lượng lao động
vừa là người tiêu dùng trong xã hội, vấn đề nguồn nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Do đó, việc điều chỉnh và duy trì quy mơ dân số hợp lý
để phù hợp với quá trình phát triển đang là một thách thức của nước ta. Các chính sách phát
triển dân số như thế nào là phù hợp, cần tác động vào điểm mấu chốt nào để dân số nước ta
đảm bảo đáp ứng tốt về số lượng và chất lượng cho quá trình phát triển kinh tế xã hội? Chính
là phải thơng qua q trình giáo dục và cần quan tâm hơn cả là giáo dục người phụ nữ để họ
có những hiểu biết về tỷ lệ sinh như thế nào để cả nước có một tốc độ tăng dân số hợp lí, và
phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Giáo dục phụ nữ để nâng cao
nhận thức, trình độ học vấn và khả năng hiểu biết về vấn đề sinh sản và chăm sóc sức khỏe
của trẻ em.

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Phần 1 : Mô tả lý thuyết.

1.1. Giáo dục và vai trò của giáo dục trong phát triển.

Giáo dục là q trình hoạt động có mục đích, có ý thức, có kế hoạch nhằm truyền
đạt cho lớp người mới những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri thức về tự
nhiên, về xã hội và về tự duy để họ có thể có đủ khả năng tham gia vào lao động và đời
sống xã hội. Giáo dục được biểu hiện qua trình độ học vấn, trình độ dân trí nhằm phản ánh

các cấp độ hiểu biết, các kỹ năng đạt được của con người sau một quá trình tiếp nhận các
luồng thơng tin khác nhau và từ đó tạo ra khả năng nhận thức tác động đến hành vi của họ.

Theo nghĩa rộng, giáo dục là q trình xã hội hóa nhân cách, được tổ chức một cách
có mục đích, có kế hoạch, thông qua các hoạt động và mối quan hệ giữa người giáo dục và
người được giáo dục nhằm giúp mỗi cá nhân tiếp thu được các kiến thức xã hội, lịch sử của
lồi người, từ đó phát triển sức mạnh của bản thân sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển
của xã hội.

Giáo dục theo nghĩa hẹp là quá trình tác động giúp người được giáo dục tiếp nhận
và chuyển hóa tích cực các chuẩn mực xã hội, từ đó hình thành ý thức, thái độ và hệ thống
hành vi phù hợp với các mục tiêu giáo dục.

Có hai hình thức giáo dục là giáo dục chính thống và giáo dục khơng chính thống.

+ Giáo dục chính thống là nền giáo dục trong nhà trường,. Nó gồm 3 yếu tố cơ bản không
thể thiếu là người giáo dục, người được giáo dục và mơi trường giáo dục. Q trình giáo
dục này được thực hiện thơng qua hoạt động có tổ chức của Hệ thống giáo dục quốc dân,
do những người có chun mơn được xã hội phân cơng. Giáo dục chính thống tạo ra vốn
con người cho các cá nhân.
+ Giáo dục khơng chính thống là giáo dục trong gia đình và xã hội , nó khơng có quy mô
hay tổ chức rõ ràng nhưng lại gớp phần quan trọng trong việc hình thành nền tảng đạo đức
và nhân phẩm của con người.

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Giáo dục ảnh hưởng đến thu nhập và năng suất lao động của con người:

+ Giáo dục ảnh hưởng đến thu nhập : Trên thực tế, người lao động ln hy vọng có mức
tiền lương càng cao càng tốt và người tuyển dụng lao động luôn theo đuổi mục đích tối

thiểu hóa giá thành để tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, người tuyển dụng lao động ln có sự
phân biệt về mức đãi ngộ, mức lương của người lao động. Trình độ giáo dục là tiêu chuẩn
và căn cứ để doanh nghiệp lựa chọn, tuyển dụng và trả lương cho người lao động. Các cá
nhân có trình độ giáo dục cao thường được doanh nghiệp trả một mức lương cao hơn. Vì
khi sử dụng lao động có trình độ cao hơn doanh nghiệp có thể giảm được phần nào chi phí
đào tạo lại lao động đồng thời năng suất lao động của những người có trình độ cao hơn sẽ
cao hơn. Mối quan hệ này đúng trong mọi lĩnh vực. Bên cạnh đó, khả năng kiếm được việc
làm của người lao động cũng tăng lên cùng với trình độ giáo dục cao hơn. Do đó, nhìn
chung những người được đi học nhiều thường có thu nhập cao hơn những người đi học ít.
Bên cạnh việc đem lại lợi ích cho cá nhân, việc đi học của cá nhân cịn có thể mang lại lợi
ích cho tồn xã hội, gọi là lợi ích “lan tỏa” hay cịn gọi là ngoại ứng tích cực. Một số ngoại
ứng tích cực tiềm năng của việc đi học dễ dàng nhận thấy như: Tác động lan tỏa về sức
khỏe ( con cái của những người mẹ có học vấn cao thường khỏe mạnh hơn, như vậy trẻ em
của các gia đình khác cũng có lợi vì giảm khả năng lây lan bệnh tật ), làm giảm tội phạm,
xã hội được hưởng môi trường lễ phép, văn minh, lành mạnh.. do dân trí được nâng cao, tỷ
lệ sinh con ngày càng giảm phù hợp với định hướng mà nhà nước vạch ra vì người phụ nữ
có giáo dục sẽ biết sinh bao nhiêu con để giáo dục và nuôi dạy tốt nhất…

+ Giáo dục ảnh hưởng đến năng suất lao động: Giáo dục tạo ra vốn con người nên nó là
yếu tố quan trọng làm tăng năng suất lao động. Trên thực tế, giáo dục có tác động tới tốc
độ bắt kịp và lan truyền cơng nghệ. Nó tạo ra khả năng cho một quốc gia áp dụng, tiếp
nhận và thực hiện những công nghệ mới từ nước khác và ảnh hưởng tới khả năng sang tạo
trong nước. Giáo dục được xem là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế và năng
suất nhân tố tổng hợp thông qua sự đóng góp của mình vào việc thực hiện và đổi mới công
nghệ. Một khi công nghệ được thực thi, giáo dục là nhân tố quan trọng tác động tới tính
hiệu quả của việc sử dụng, tiếp nhận và bắt chước những công nghệ mới. Một lần nữa, nếu

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

giáo dục có tác động tích cực vào việc tăng tính hiệu quả thì khả năng tiếp nhận của các tổ

chức phụ thuộc vào trình độ giáo dục. Sự có mặt của những người được đào tạo tốt tạo điều
kiện thuận lợi cho cơng việc quản lí và do đó làm tăng hiệu quả cơng nghệ. Giáo dục tạo ra
một lực lượng lao động có trình độ, có kĩ năng làm việc với năng suất cao là cơ sở thúc đẩy
tăng trưởng nhanh và bền vững.

+ Hệ số tương quan giữa giáo dục cơ bản và tăng trưởng dân số:

Bảng 1.1. Mối quan hệ giữa giáo dục cơ bản và tăng trưởng dân số.

Tỷ lệ đi học của phụ nữ Tỷ lệ tăng dân số Tốc độ tăng trưởng GNP
Tỷ lệ biết chữ của phụ nữ
1970 – 1980 bình quân
-0,31 +0,49
-0,47 -0,54

Nghiên cứu tại 94 quốc gia của Rosenzweig đã chỉ ra mối liên hệ nghịch biến giữa tăng
trưởng dân số và tỷ lệ đi học của phụ nữ trong độ tuổi 10-14. Giáo dục phụ nữ được chứng
minh là có mối liên hệ đồng biến khá rõ ràng với tốc độ tăng thu nhập bình qn.Giáo dục
có thể khiến tỷ lệ sinh con giảm xuống và thu nhập bình quân tăng lên, tuy nhiên, ngược
lại, tăng trưởng thu nhập cũng mở rộng cơ hội giáo dục.

Ngoài ra, giáo dục giúp cho việc cung cấp các kiến thức và những thông tin để người dân
đặc biệt là người phụ nữ có thể sử dụng những cơng nghệ nhằm tăng cường sức khỏe, dinh
dưỡng. Chẳng hạn tỷ lệ tử vong trẻ em giảm xuống, tỷ lệ dinh dưỡng trẻ em tăng lên cùng
với học vấn của cha mẹ vì biết sinh hoạt vệ sinh hơn hay biết cách sử dụng những thức ăn
giàu dinh dưỡng hơn..

1.2. Vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội

Lịch sử cổ, trung và cận đại luôn coi người phụ nữ là nguồn hạnh phúc, là chủ thể

quan trọng trong việc chăm sóc chồng con, đỡ đần cho cha mẹ khi già yếu, là chỗ dựa cho
gia đình trong nhiều phương diện cuộc sống. Đã từng có người cho rằng: “Nếu một người
đàn ơng hư hỏng thì chỉ hư hỏng một người, nhưng một người phụ nữ hư hỏng thì hư hỏng

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

cả nhà”. Từ xưa đến nay, với vai trò người yêu, người vợ, người mẹ - người phụ nữ ln
được u thương và chiếm vị trí quan trọng trong mọi tầng lớp xã hội. Phụ nữ là người có
ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất đến thế hệ trẻ nói riêng và tồn thể lồi người nói
chung vì họ là người trực tiếp sinh đẻ và giáo dục con cái.

Trong xu thế hội nhập và phát triển, phụ nữ tiếp tục phát huy và khẳng định vai trò
to lớn của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Một khi nền kinh tế càng phát triển
thì phụ nữ càng có nhiều cơ hội tham gia vào quá trình biến đổi cách mạng và sâu sắc, tạo
điều kiện để phụ nữ tham gia vào quá trình biến đổi đó. Vai trị của người phụ nữ ở phần
lớn các nước trên thế giới và ở nước ta trong những thế kỷ qua đã có những thay đổi đáng
kể. Phụ nữ đã có mặt trong nhiều lĩnh vực, ngồi phạm vi gia đình và nghề nghiệp, mặc
dù sự tham gia đó cịn khiêm tốn và thiếu đồng bộ. Khơng chỉ với vai trị là một cơng dân,
người phụ nữ cịn làm tốt vai trò người vợ, người mẹ, người con trong gia đình, có trách
nhiệm lớn lao trong chia sẻ trách nhiệm và giữ gìn giá trị truyền thống văn hóa, bản sắc
của mỗi một dân tộc.

Trong điều kiện đời sống cịn gặp nhiều khó khăn, cùng những tác động phản diện
của nền kinh tế thị trường, phụ nữ đã thể hiện tình thương và trách nhiệm, lịng nhân ái,
đức hy sinh, kết hợp với sự hiểu biết, ứng xử khéo léo trong các mối quan hệ gia đình, họ
tộc, trọn đạo hiếu thảo, là điểm tựa vững chắc cho chồng con cơng thành danh toại, trong
đó có việc ni dạy con cái. Họ chính là những người phụ nữ có đầy đủ đức tính tốt đẹp,
xứng đáng với sự đánh giá: “Phúc đức tại mẫu, nhân hiền tại mẫu”.

1.3. Giáo dục và phát triển phụ nữ.


Tại Hội nghị về dân số và phát triển Liên Hợp Quốc tổ chức tại Cairo Ai Cập năm
1994, nhấn mạnh “ Giáo dục là nhân tố cơ bản trong sự phát triển bền vững, là một thành
phần của phúc lợi và là phương tiện để các cá nhân nhận được kiến thức. Giáo dục góp
phần giảm tỷ lệ sinh , giảm tỷ lệ tử vong, tăng quyền năng và vị thế cho phụ nữ, nâng cao
chất lượng dân số, cả cung và cầu dịch vụ giáo dục sẽ quyết định trình độ học vấn của dân
số nói riêng và chất lượng dân số nói chung”.

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Người phụ nữ được giáo dục là những người có hiểu biết, có khả năng có thu nhập
cao, có năng suất lao động cao. Thu nhập cao sẽ khuyến khích xu hướng vươn tới trình độ
cao hơn, làm tăng kỹ năng của người phụ nữ. Họ có nhiều lựa chọn trong cơng việc, có khả
năng đàm phán trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Họ sẽ nhận thức tốt hơn về cơng tác
kế hoạch hóa gia đình, về chi phí cơ hội của việc sinh con. Số con trung bình sẽ tỷ lệ
nghịch với trình độ học vấn của họ vì họ kiểm sốt được tất cả những yếu tố như: thu nhập
gia đình, tiếp cận với các dịch vụ về sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình. Người phụ nữ có
trình độ học vấn biết cách sử dụng các biện pháp tránh thai một cách hiệu quả để giãn
khoảng cách sinh và chủ động thời điểm sinh con. Khi mang thai, họ sẽ biết cách chăm sóc
sức khỏe cho mình để sinh ra một đứa con khỏe mạnh và an toàn.

Phần 2. Giáo dục phụ nữ với tỷ lệ sinh và sức khỏe trẻ em.

2.1. Tỷ lệ sinh:

Tỷ lệ sinh là số trẻ em được sinh ra sống trên một nghìn dân, trong một năm.

- Tỷ suất sinh thô:
Tỷ suất sinh thô phản ánh khả năng sinh đẻ của của dân số nói chung xảy ra trong một thời
kì nào đó và thường được đánh giá trong phạm vi một năm. Nó được xác đinh bằng cách

lấy số trẻ em mới được sinh ra trong năm (B) chia cho số lượng dân số tính bình qn trong
năm hoặc giữa năm (P) và thường được biểu thị bằng 0/00 hoặc %.

CBR = PB × 1000

Chỉ tiêu tỷ suất sinh thơ rất dễ tính tốn nhưng chịu ảnh hưởng mạnh của cơ cấu tuổi sinh đẻ.
Do đó đơi khi tỷ suất sinh thơ khơng phản ánh chính xác mức sinh.

- Tỷ suất sinh chung: GFR

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Tỷ suất sinh chung là tỷ số giữa số trẻ em mới được sinh ra (B) so với số phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ ( tuổi 15- 49) tính trung bình trong năm hoặc giữa năm. Tỷ suất này được đánh
giá bằng 0/00 hoặc %.

B
GFR = Pw 15−49 ¿ × 1000

¿
- Tổng tỷ suất sinh (ký hiệu TFR):

Tổng tỷ suất sinh (TFR) là tổng cộng các tỷ suất sinh đặc trưng theo từng nhóm tuổi và là
số con trung bình của một bà mẹ tính đến hết tuổi sinh đẻ.
TFR là chỉ tiêu phản ánh chính xác nhất mức sinh của dân số ở một địa phương, một khu
vực, một nước, vì khơng bị ảnh hưởng bởi cơ cấu tuổi.
- Tăng trưởng dân số = Tỷ lệ sinh con × Tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ: vì vậy cần xác
định được các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh và tỷ lệ phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ để có
những chính sách phát triển dân số phù hợp.
- Các biến số tác động trực tiếp đến tỷ lệ sinh con:

+ Việc sử dụng các biện pháp tránh thai.
+ Độ tuổi kết hôn.
+ Khoảng cách sinh con.
+ Nạo phá thai.
2.2. Sức khỏe trẻ em
2.2.1. Sức khỏe

Theo định nghĩa về sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO): “Sức khỏe là một
trạng thái hoàn toàn thoải mái về cả thể chất, tâm thần và xã hội, chứ khơng phải chỉ là
khơng có bệnh tật hay thương tật”.

+ Hoàn toàn thoải mái về mặt thể chất là hoạt động thể lực, hình dáng, ăn ngủ,… tất cả các
hoạt động sống trên đều ở trạng thái tốt nhất phù hợp với từng lứa tuổi.

+ Hoàn toàn thoải mái về mặt tâm thần là bình an trong tâm hồn. Biết cách chấp nhận và
đương đầu với các căng thẳng trong cuộc sống.

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

+ Hoàn toàn thoải mái về mặt xã hội là nghề nghiệp với thu nhập đủ sống. An sinh xã hội
được đảm bảo.

+ Khơng có bệnh tật hay thương tật là khơng có bệnh về thể chất, bệnh tâm thần, bệnh liên
quan đến xã hội và sự an toàn về mặt xã hội.

Sức khỏe là vấn đề được con người quan tâm hàng đầu, và quan trọng hơn hết đó là sức
khỏe trẻ em. Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em
là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt
động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em

ln được quan tâm hàng đầu. Vì vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe của trẻ em rất được quan
tâm kể từ xưa tới nay.

2.2.2. Các tiêu chí đánh giá tình trạng sức khỏe:
 Nhóm chỉ tiêu liên quan đến tỷ lệ tử vong:

- Tuổi thọ bình quân.
- Tỷ suất chết trẻ em dưới 5 tuổi.
- Tỷ suất chết của bà mẹ có liên quan đến thai sản.
 Nhóm chỉ tiêu liên quan đến tỷ lệ bệnh tật:
- Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng 6 loại vacxin.
- Tỷ lệ mắc/chết do một số bệnh dịch nguy hiểm.
 Nhóm chỉ tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng/ thể lực.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi.
- Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân
 Chỉ số tổng hợp để đánh giá tình trạng sức khỏe: Tuổi thọ bình quân điều chỉnh theo tình

trạng sức khỏe : HALE ( Healthy life expectancy )
2.2.3. Vai trò của sức khỏe với phát triển kinh tế.
 Sức khỏe với tăng thu nhập và tăng trưởng kinh tế:

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Cải thiện sức khỏe dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, thu nhập cao hơn và
đói nghèo giảm dần. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tuổi thọ bình quân tăng lên
trong thời kỳ trước đã dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh hơn trong thời kỳ sau. Tuy
nhiên, mối quan hệ này cũng mang tính chất hiệu suất giảm dần, có nghĩa là khi tuổi thọ
bình qn đầu người cịn ở mức thấp, một năm tuổi thọ tăng lên có ảnh hưởng lớn hơn
đến tăng trưởng so với khi tuổi thọ bình quân đã đạt mức cao hơn. Một nghiên cứu điển
hình cho biết, sau khi giữ nguyên các nhân tố khác có ảnh hưởng đến tăng trưởng, thì cứ

10% tăng lên trong tuổi thọ sẽ làm tăng từ 0,3 đến 0,4 điểm phần trăm một năm trong
tăng trưởng kinh tế. Sự khác biệt giữa tuổi thọ bình quân 75 năm ở các nước có thu nhập
cao với 45 năm ở các nước có thu nhập thấp được chuyển thành tốc độ tăng trưởng nhanh
hơn khoảng 1,5 điểm phần trăm một năm.

 Sức khỏe với tăng năng suất lao động:

Những người có sức khỏe tốt thường làm việc năng suất hơn bởi vì họ có nhiều
năng lượng hơn và minh mẫn hơn. Công nhân khỏe mạnh có thể thu hoạch được nhiều
sản phẩm hơn, đóng nhiều bàn ghế hơn, lắp ráp nhiều máy tính hơn, làm được nhiều dịch
vụ hơn là một lao động ốm yếu và bệnh tật. Các công nhân khỏe mạnh không chỉ có năng
suất trong khi làm việc mà cịn ít nghỉ làm do bị ốm hơn, do đó họ cũng nhận được tiền
lương cao hơn. Ngoài ra, sức khỏe của các thành viên trong gia đình cịn ảnh hưởng đến
việc giáo dục con cái, điều này ảnh hưởng đến thu nhập trong tương lai của họ. Sức khỏe
thời thiếu niên có thể ảnh hưởng đến năng suất lao động sau này, khi đứa trẻ lớn lên và
tham gia vào lực lượng lao động. Việc được chăm sóc tốt và có chế độ dinh dưỡng hợp
lý, đây được coi là một trong những yếu tố cấu thành nên chất lượng lao động, đảm bảo
cho người lao động có năng suất lao động cao.

 Sức khỏe và đầu tư:
Cải thiện sức khỏe ngồi việc có ảnh hưởng quan trọng đến năng suất lao động còn

có thể ảnh hưởng đến các nhân tố quan trọng khác, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đó là nâng
cao tiết kiệm và đầu tư. Khi con người nghĩ là sẽ sống thọ, họ sẽ có nhiều động lực để đầu

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

tư dài hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay đầu tư vào giáo dục hay chăm sóc sức
khỏe cho bản than họ. Ngược lại, những người có sức khỏe yếu dành thêm thu nhập để
trang trải chi phí thuốc men nên làm giảm khả năng tiết kiệm của họ. Sức khỏe cũng có thể

ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư cơng. Chính phủ muốn chống lại bệnh dịch trong nước
phải phân bố chi tiêu để thực hiện các mục tiêu này, dẫn đến giảm chi tiêu cho cơ sở hạ
tầng hay các điều kiện các để phát triển kinh tế. Tương tự, bệnh tật có thể làm giảm đầu tư
nước ngoài, do các nhà đầu tư thường né tránh mơi trường có dịch bệnh hồnh hành như
HIV/AIDS, sốt rét, lao…
2.3. Giáo dục phụ nữ ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh và sức khỏe trẻ em:

Giáo dục làm tăng sự hiểu biết của người phụ nữ, giúp họ có khả năng nâng cao thu
nhập, tăng năng suất lao động, tăng kĩ năng trong gia đình và ngồi xã hội. Họ sẽ nhận thức
tốt hơn về công tác kế hoạch hóa gia đình, về chi phí cơ hội của việc sinh con. Số con trung
bình sẽ tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn của họ vì họ kiểm sốt được tất cả những yếu tố
như: thu nhập gia đình, tiếp cận với các dịch vụ về sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình. Mối
quan hệ giữa trình độ giáo dục của người phụ nữ và tỷ lệ sinh thể hiện ở một số khía cạnh
sau:

Giáo dục tác động đến tỷ lệ sinh: Trình độ giáo dục của người phụ nữ được xem là
một trong những nhân tố quan trọng để giảm tỷ lệ sinh con. Giáo dục có thể nâng cao
“quyền lực” của người phụ nữ, ngay cả trong những mơ hình gia đình có sự xung đột về
mặt lợi ích khi người phụ nữ phải gánh toàn bộ gánh nặng của việc mang thai và sinh con,
trong khi đó người đàn ơng lại được hưởng thụ lợi ích nhiều hơn. Giáo dục cũng khiến phụ
nữ nhìn nhận tốt hơn về chi phí và lợi ích mà gia đình mình có được khi sinh thêm một
người con.

Trình độ giáo dục tuy khơng trực tiếp làm giảm mức sinh nhưng nó có ảnh hưởng
rất lớn tới mức sinh, mức độ ảnh hưởng này có xu hướng tỷ lệ nghịch. Hầu hết các quốc
gia trên thế giới, nhiều số liệu nghiên cứu cho thấy rằng trình độ giáo dục càng cao thì mức

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

sinh hay tỷ lệ sinh càng giảm và ngược lại khi trình độ học vấn thấp thì mức sinh hay tỷ lệ

sinh càng tăng cao.

Mức độ ảnh hưởng của trình độ giáo dục vào mức sinh hay tỷ lệ sinh cũng phụ
thuộc vào vùng địa lý, điều kiện văn hóa của vùng. Đặc biệt là trình độ học vấn của phụ nữ
mang lại tiềm năng cho cả lĩnh vực tăng và giảm sinh, thể hiện thông qua việc thay đổi
hành vi sinh sản. Trình độ học vấn làm trì hỗn tuổi kết hơn, khoảng cách sinh con ở các
phụ nữ có học vấn cao thì dài hơn so với phụ nữ có học vấn thấp, điều kiện và trình độ ni
con có xu hướng tốt hơn ở những người phụ nữ có học vấn cao hơn.

Trình độ học vấn cịn liên quan đến tỷ lệ trẻ em tử vong, vì đối với những phụ nữ có
trình độ học vấn cao thì được giáo dục và có kiến thức về sức khỏe và ni dạy con tốt hơn
người có trình độ học vấn thấp. Phong tục tập quán ít tác động đến những người có trình độ
học vấn cao. Mặt khác tình độ học vấn khác nhau cũng mang lại sự thay đổi chậm chạp
trong hành vi sinh sản từ việc loại bỏ những dự định về mức sinh. Điều này thường xảy ra
vì trình độ học vấn làm thay đổi ý muốn có con trong nhiều cách. Những người có trình độ
học vấn cao tự điều khiển được tiềm năng của mình và ít bị phụ thuộc vào những quan
niệm phong kiến về sự khác nhau giữa việc sinh con trai hay sinh con gái.

Mặt khác, trình độ học vấn là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến việc chăm sóc
sức khỏe sinh sản (SKSS), nhất là trình độ học vấn của phụ nữ. Qua kết quả một số cuộc
điều tra cũng như trên thực tế cho thấy, những phụ nữ có trình độ học vấn cao thường có
khả năng nhận thức được lợi ích của việc chăm sóc SKSS. Chỉ cần đạt tới một trình độ học
vấn nhất định cũng làm tăng khả năng sử dụng các biện pháp tránh thai, đi khám và giảm tỷ
lệ sinh đẻ ở người phụ nữ tăng rõ rệt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi trung bình sinh con
lần đầu của phụ nữ chưa đi học là 21,2 ; của phụ nữ đã tốt nghiệp trung học phổ thông là
24,9; tổng tỷ suất sinh tương ứng là 2,82 con và 1,39 con . Những người càng có trình độ
học vấn cao thì càng chăm sóc thai nhi và đi khám bệnh ở bệnh viện nhiều hơn. Họ khơng
chỉ nhận thức được cách thức trong chăm sóc SKSS, mà còn nhận biết được vai trò, trách

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân


nhiệm của bản thân cũng như vai trò, trách nhiệm của người chồng trong việc chăm sóc
SKSS.

Phụ nữ có trình độ giáo dục càng cao thì khả năng bình đẳng với nam giới trong gia
đình cũng như ngồi xã hội càng lớn. Trình độ học vấn của phụ nữ có mối liên hệ chặt chẽ
với việc chăm sóc SKSS, sử dụng các biện pháp tránh thai, giảm tỷ lệ sinh và tăng khoảng
cách giữa các lần sinh. Phụ nữ có học vấn cao hơn thì có ít con hơn những phụ nữ học vấn
thấp, bởi nhiều lý do: họ lập gia đình muộn hơn nên có ít năm trong độ tuổi sinh đẻ hơn; họ
có hiểu biết hơn về cách hạn chế sinh đẻ nên tự tin hơn và có nhiều quyền lực hơn trong
việc ra quyết định về việc sinh con; họ có những ước vọng cao hơn cho coi cái mình và
nhận thức được sự đánh đổi giữa việc thực hiện những ước vọng đó với việc có nhiều con.

Với những lí do nêu trên, ta có thể khẳng định rằng đối với những người có trình độ
học vấn cao bao giờ cũng thích quy mơ gia đình nhỏ và người phụ nữ được hiểu như chiếc
chìa khóa liên quan đến việc điều chỉnh mức sinh. Giáo dục dân số được coi là môi trường
trung gian để truyền đi những kiến thức hiện đại và cách sống mới đến mọi người dân, để
mở rộng thêm sự gần gũi với những tiến bộ về việc sử dụng các biện pháp tránh thai, cũng
như kiến thức và trách nhiệm của từng người dân đối với sự bùng nổ dân số.

2.3.1. Ở các quốc gia phát triển:

Trường phái tân cổ điển nhấn mạnh vai trò của các bậc cha mẹ như những người “khôn
ngoan và biết cân nhắc” khi quyết định số con mong muốn. Dựa trên lý thuyết hành vi
người tiêu dùng, mỗi cá nhân có một “sở thích nhất định” trong việc tiêu dùng hang hóa,
thể hiện thơng qua các đường thỏa dụng. Trong đó, họ sẽ cố gắng tối đa hóa độ thỏa dụng
trong điều kiện giới hạn của thu nhập ( giới hạn ngân sách) và giá cả tương đối của các
loại hàng hóa. Vận dụng lý thuyết này vào phân tích vấn đề sinh con, trẻ em được xem là
một hang hóa tiêu dùng đặc biệt. Khi đó quyết định sinh con được xem là một quyết định
kinh tế, phụ thuộc vào cầu sinh con của gia đình đó so sánh với các hàng hóa khác. Hiệu

ứng thu nhập và hiệu ứng thay thế cũng phát huy tác dụng tương tự như phân tích khác về
hành vi người tiêu dùng. Nghĩa là, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, số con

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

mong muốn của các hộ gia đình phụ thuộc trực tiếp vào thu nhập của hộ gia đình đó, tỷ lệ
nghịch với giá cả của việc sinh con và tỷ lệ nghịch với nhu cầu đối với các hàng hóa tiêu
dùng khác so sánh với việc sinh con. Việc phân tích chi phí- lợi ích có thể sẽ thay đổi
hành vi sinh con của người phụ nữ. Khi chi phí sinh con đắt đỏ tương đối so với các hàng
hóa tương tự khác, gia đình sẽ có xu hướng giảm số con mong muốn, thay vì thế họ tiêu
dùng các hàng hóa khác để tối đa hóa độ thỏa dụng đạt được. Hay tương tự, khi người mẹ
có cơ hội việc làm mới, mức lương cao hơn, và việc sinh quá số con quy định khiến gia
đình phải nộp phạt, làm các hộ gia đình có khuynh hướng giảm số con mong muốn. Cụ
thể là ở các nước phát triển, người ta muốn sinh ít con để chăm sóc và ni dạy con tốt
hơn.

2.3.2. Ở các quốc gia đang phát triển

Con cái khơng hồn tồn được phân tích dưới góc độ như một hàng hóa thông
thường, ở đây, sinh con được xem như một hành vi đầu tư, kỳ vọng vào thu nhập có được
khi người con lớn lên và trách nhiệm phụng dưỡng bố mẹ khi về già. Chi phí của khoản
đầu tư này về cơ bản bao gồm chi phí cơ hội việc làm của người mẹ ( thu nhập mà người
phụ nữ trong gia đình có thể kiếm được khi họ khơng phải ở nhà ni dạy con cái) và chi
phí cơ hội cũng như thực tế của việc giáo dục con cái – sự đánh đổi giữa việc có ít con để
nuôi dạy tốt hơn, trở thành người thành đạt trong tương lai hay có nhiều con mà điều kiện
ni dạy khơng tốt bằng và có thể trở thành những người con kém thành đạt trong tương
lai. Ở các nước đang phát triển, có xu hướng sinh nhiều con hơn so với các nước phát triển.

 Trình độ học vấn ảnh hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe trẻ em:


Người phụ nữ được giáo dục tức là người phụ nữ có trình độ học vấn cao, họ sẽ biết cách
chăm sóc sức khỏe cho mình khi mang thai để sinh ra một đứa con khỏe mạnh và an toàn.
Họ có nhiều kiến thức trong việc chăm sóc con trẻ thông qua việc học hỏi từ các phương
tiện thông tin, có các phương pháp ni con khoa học, hợp lý, đảm bảo trẻ được phát triển
toàn diện. Những người càng có trình độ học vấn cao thì càng chăm sóc thai nhi và đi
khám bệnh ở bệnh viện nhiều hơn những người có trình độ học vấn thấp.

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

 Tất cả những hành vi của người phụ nữ liên quan đến việc sinh sản hay chăm sóc sức
khỏe và nuôi dạy trẻ em đều chịu ảnh hưởng bởi trình độ văn hóa, trình độ học vấn của
người phụ nữ, vì vậy giáo dục người phụ nữ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để đảm
bảo tỷ lệ sinh ở mức ổn định, hợp lí và đảm bảo trẻ em được chăm sóc sức khỏe và phát
triển toàn diện.

Phần 3: Liên hệ thực tế.

3.1. Thực trạng về tỷ lệ sinh và vấn đề sức khỏe trẻ em ở Việt Nam.

Trong năm thập kỷ qua, Việt Nam thực thi chính sách giảm sinh thơng qua chương
trình dân số, chú trọng đến cơng tác giáo dục phụ nữ, chăm sóc sức khỏe sinh sản bao gồm
cả kế hoạch hóa gia đình. Quy mơ gia đình nhỏ đang được khuyến khích. Cùng với việc
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, rất nhiều các hoạt
động tuyên truyền vận động, truyền thông chuyển đổi hành vi được tổ chức nhằm trang bị
các kiến thức và khuyến khích các cặp vợ chồng thực hiện mục tiêu kế hoạch hóa gia đình.
Chính vì vậy, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên hàng năm là mối quan tâm lớn của các cơ
quan truyền thơng dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân


Hình 3.1. Tỷ lệ phụ nữ 15 - 49 sinh con thứ ba trở lên chia theo thành thị - nông thôn
2005 – 2009

Hình 3.1 trình bày tỷ lệ phụ nữ 15 - 49 tuổi sinh con thứ ba trở lên ở Việt Nam từ năm
2005 đến năm 2009 chia theo thành thị và nông thôn.
Số liệu cho thấy,những người phụ nữ ở thành thị có xu hướng ít sinh con thứ 3 so với phụ
nữ ở nông thôn. Trong thời gian qua tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trên phạm vi cả
nước giảm từ 20.8% năm 2005 xuống còn 16.1% năm 2009. Tỷ lệ phụ nữ sinh thêm con
sau khi có từ 1 đến 2 con ở cả khu vực thành thị và nông thôn đều giảm, đặc biệt ở khu vực
thành thị góp phần tích cực làm giảm mức sinh ở Việt Nam. Xu hướng này giúp Việt Nam
có cơ hội ổn định dân số, giảm bớt gánh nặng phụ thuộc, tạo thời cơ thuận lợi cho Việt
Nam thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và chất lượng.

Có sự khác biệt về tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên theo vùng địa lý. Những
vùng có tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 thấp là Đông Nam Bộ (10.9%), Đồng bằng sông Cửu

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Long (12.4%) và Đồng bằng sông Hồng (13.2%). Tỷ lệ này cao nhất là ở Tây Nguyên
(27.4%), Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (21.1%) (Bảng 1). Có thể rút ra được quy
luật đó là ở những nơi có trình độ phát triển cao thì tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba càng thấp,
và ngược lại ở những nơi xa xơi, hẻo lánh, cuộc sống cịn có nhiều khó khăn thì tỷ lệ phụ
nữ sinh con thứ 3 càng cao.

Bảng 3.1: Tỷ lệ phần trăm phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên theo vùng, 2005-2009

Vùng 2005 2006 2007 2008 2009

ĐB Sông Hồng 17 14,7 13,7 13,8 13,2


Đông Bắc 19 17,1 15,0 14,7 18,7

Tây Bắc 23 20,7 17,7 18,0

Bắc Trung Bộ 29 28,3 23,5 26,5 21,1

Nam Trung Bộ 23 22,4 21,8 19,4

Tây Nguyên 39 32,2 30,0 26,9 27,4

Đông Nam Bộ 17 14,3 13,8 14,4 10,9

ĐB sông Cửu Long 16 13,9 12,6 12,6 12,4

Nguồn: - UNFPA: Thực trạng dân số Việt Nam 2008;

Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên có liên quan chặt chẽ với trình độ học vấn của
phụ nữ. Theo số liệu điều tra năm 2007, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trong số phụ
nữ chưa đi học tới 43.1%, giảm xuống còn 28.1% đối với phụ nữ chưa tốt nghiệp tiểu học,
19.4% đối với phụ nữ tốt nghiệp tiểu học, 15.3% đối với phụ nữ tốt nghiệp trung học cơ sở
và chỉ cịn 4.5% đối với phụ nữ có trình độ học vấn trung học phổ thơng trở lên (Hình 2).

Hình 3.2: Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên chia theo trình độ học vấn, 2007 (%)

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Chưa đi Chưa tốt Tốt Trung học Trung học
học nghiệp nghiệp cơ sở phổ thông
tiểu học tiểu học


Nguồn: UNFPA:

Như vậy, người phụ nữ có trình độ càng cao thì tỷ lệ sinh con thứ ba càng thấp. Học
vấn cao nên họ nhận thức được rằng con cái sinh ra phải được chăm sóc và ni dạy cho
tốt nên tất yếu họ khơng có nhu cầu sinh nhiều con. Thêm vào đó, có thể do khả năng nhận
thức và sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả hơn ở những người có trình độ học vấn
cao nên tỷ lệ sinh con thứ ba ở những nhóm người này là thấp hơn so với những nhóm
người khơng có trình độ học vấn. Bởi vậy, muốn thay đổi hành vi sinh con nhiều, chương
trình kế hoạch hóa gia đình cần tập trung tuyên truyền cho các phụ nữ có trình độ học vấn
thấp. Đây cũng thường là những người có thu nhập thấp, sống tại nơng thơn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Vì thế, hình thức tuyên truyền và kênh tun truyền cần thiết kế thích
hợp với nhóm đối tượng này.

Có thể nhận thấy, Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc vận động cặp vợ chồng không sinh con
thứ ba. Việt Nam đã đạt được thành tựu trong việc giảm tốc độ gia tăng dâm số, tuy nhiên
vẫn cịn tình trạng các cặp vợ chồng sinh con thứ ba, đặc biệt ở một số vùng tỷ lệ các cặp
vợ chồng sinh con thứ ba lại có chiều hướng gia tăng. Nhiều nguyên nhân liên quan đến
công tác dân số kế hoạch hóa gia đình ở địa phương như: có sự thỏa mãn với những thành
tích đạt được; có sự bng lỏng lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác dân số; hệ thống tổ chức bộ máy

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

làm cơng tác dân số kế hoạch hóa chưa đủ mạnh và quá tải về công việc; việc tuyên truyền,
giáo dục, cung cấp dịch vụ và xây dựng chính sách, chế độ cịn nhiều bất cập,.... Đó là
những ngun nhân khách quan, còn nguyên nhân chủ quan nào dẫn đến tình trạng phụ nữ
sinh con thứ ba?

Trước hết, đó là tư tưởng trọng nam khinh nữ, dẫn đến tâm trạng thèm khát có con
trai. Các gia đình đã sinh 2 con nhưng một bề tồn con gái, lâu nay khơng dám có con thứ
ba, nay lại sinh với hi vọng được cậu con trai. Những trường hợp này rơi nhiều vào cán bộ,

công nhân viên chức ở các thành phố, đô thị.

Thứ hai, có những gia đình đã có hai con trai nhưng lại muốn đủ trai, đủ gái cho
bằng bạn, bằng bè, vì theo quan niệm của người Việt, sinh con phải đầy đủ nghĩa là "có
nếp, có tẻ". Vì thế, nếu như có điều kiện thuận lợi thì những gia đình đã có con trai cũng cố
sinh thêm con thứ 3 để có được người con gái. Tuy nhiên, áp lực phải sinh thêm một bé gái
không lớn bằng áp lực phải sinh một bé trai.

Thứ ba, tâm lý thích đơng con vì khi về già có nơi nương tựa, có người trơng nom.
Vì nếu có đơng con, đặc biệt là con trai, những lúc ốm đau, khi tuổi già, khơng ở nhà đứa
này thì ở nhà đứa khác,....Về già có người chăm sóc, ni dưỡng là hết sức quan trọng vì
hiện nay đơng đảo nơng dân khơng có bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội. Ngay cả với công
nhân viên chức, các phụ cấp bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội cũng q ít ỏi. Vì vậy, khi
ốm đau, tai nạn chủ yếu họ trông cậy vào gia đình, con cái. Đơng con thì mỗi đứa một tay,
cuộc sống người già, người ốm đau, bệnh tật được bảo đảm hơn.

Có thể kết luận rằng, cùng với việc ban hành và thực thi chính sách dân số kế hoạch
hóa gia đình, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba trên phạm vi cả nước trong những năm qua có xu
hướng giảm xuống. Xét theo khu vực địa lý, những nơi có trình độ phát triển kinh tế xã hội
thấp, như khu vực Tây Nguyên thường có xu hướng sinh con thứ ba cao hơn những nơi có
trình độ phát triển kinh tế xã hội cao hơn. Những người có học vấn thấp thường sinh con
thứ ba nhiều hơn những người có học vấn cao. Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba có mối quan
hệ tỉ lệ thuận với trình độ học vấn của người phụ nữ.

Đề án Kinh tế phát triển GVHD: Huỳnh Viết Thiên Ân

Ở các huyện miền núi, việc tuyên truyền và phổ biến cơng tác dân số- kế hoạch hóa
gia đình đến các gia đình cịn khá sơ sài nên tỷ lệ sinh ở các vùng này cịn khá cao. Việc
chăm sóc sức khỏe người phụ nữ và trẻ em mới sinh vẫn cịn nhiều thiếu thốn, khó khăn .
Cần có chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân số đến mọi tầng lớp nhân dân bằng

nhiều hình thức, phù hợp với từng nhóm đối tượng. Tập trung tuyên truyền về nâng cao
chất lượng dân số, vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh, bình đẳng giới, phịng chống tảo
hơn, tổ chức giáo dục tư vấn SKSS cho vị thành niên, thanh niên trong hệ thống các trường
học. Nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách dân số
thông qua công tác tập huấn nghiệp vụ và kiểm tra giám sát. Để ngăn chặn sự gia tăng mức
sinh, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, giảm tình trạng tảo hơn và mất cân bằng giới tính khi sinh,
góp phần ổn định và nâng cao chất lượng dân số trong những năm tới, cần thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp thiết thực: Đẩy mạnh sự tăng cường lãnh đạo đối với công tác Dân số –
KHHGĐ, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các ban ngành đồn thể trong cơng tác tun
truyền, tích cực giáo dục người dân, đưa nội dung công tác dân số – KHHGĐ nội dung thi
đua của từng đơn vị.

3.2. Vấn đề sức khỏe bà mẹ và trẻ em.

Tính đến nay, đất nước ta đã qua hơn 20 năm đổi mới, gần 7 năm chính thức gia
nhập WTO, hội nhập sâu với thế giới, kinh tế xã hội của đất nước đã đạt được nhiều thành
tựu nổi bật như chúng ta đã vượt qua ngưỡng thu nhập thấp với thu nhập trên 1000 USD, tỷ
lệ hộ nghèo giảm còn 12%. Trong vòng một thập kỉ trở lại đây, cùng với sự phát triển
chung về kinh tế xã hội của cả nước, lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cũng có nhiều thay đổi
đáng kể: Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đã đạt 73,4 tuổi ( năm 2012); tỷ suất chết trẻ em
dưới 1 tuổi cũng giảm nhanh, từ 30 0/00 ( năm 2001) xuống còn 15,3 0/00 ( năm 2012), đã
đạt mục tiêu trong Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2011- 2015 là giảm tỷ suất
chết trẻ em dưới 1 tuổi xuống dưới 150/00.

Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ 7 loại vắc-xin năm 2010 và 8 loại vắc-xin
năm 2011-2012 và tỷ lệ dân số tham gia BHYT (66,8% so với kế hoạch 66,0%). Riêng chỉ
tiêu tỷ lệ xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã chưa đánh giá được do từ năm 2011 mới bắt



×