Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đề án giáo dục và vấn đề chảy máu chất xám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.19 KB, 27 trang )

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ

ĐỀ ÁN MÔN HỌC

ĐỀ TÀI:

“GIÁO DỤC VÀ VẤN ĐỀ CHẢY MÁU CHẤT XÁM”

Trang 1

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

MỤC LỤC
I. Cơ sở lý thuyết về giáo dục và vấn đề chảy máu chất xám........................4

1.1 Khái niệm về giáo dục và chảy máu chất xám.......................................4
1.1.1 Khái niệm giáo dục...............................................................................4
1.1.2 Vai trò của giáo dục..........................................................................5
1.1.3 Khái niệm về chảy máu chất xám....................................................5
1.1.4 Một số hiện tượng cấu thành nên chảy máu chất xám...................6
1.1.5 Tác động của chảy máu chất xám đến kinh tế - xã hội...................6
1.1.5.1 Tác động tích cực...........................................................................6
1.1.5.2 Tác động tiêu cực...........................................................................7

1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chảy máu chất xám...................................7
1.2.1 Tiền lương/thu nhập..........................................................................8


1.2.2 Môi trường làm việc..........................................................................8
1.2.3 Trao quyền/ cơ hội thăng tiến...........................................................8
1.2.4 Chính sách tưởng thưởng.................................................................9

II Thực trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển.........................9
2.1 Thực trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển nói chung
9
2.1.1 Đặc điểm giáo dục của các nước đang phát triển...........................9

Trang 2

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

2.1.2 Phát triển giáo dục và hiện tượng chảy máu chất xám ở các nước
đang phát triển............................................................................................17
2.1.3 Một số biện pháp hạn chế...............................................................21
2.2 Thực trạng chảy máu chất xám ở Việt Nam........................................22
2.2.1 Thực trạng giáo dục ở Việt Nam....................................................22
2.2.2 Phát triển giáo dục và hiện tượng chảy máu chất xám ở Việt Nam

24
2.2.3 Một số biện pháp hạn chế chảy máu chất xám ở Việt Nam.........25
III. Ý kiến, đánh giá về giáo dục và vấn đề chảy máu chất xám ở các nước
đang phát triển....................................................................................................26

Trang 3

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

Đề tài:


GIÁO DỤC VÀ VẤN ĐỀ CHẢY MÁU
CHẤT XÁM Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Đặt vấn đề
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang ở trong giai đoạn hội nhập tồn cầu

hóa, thế giới đã có nhiều sự thay đổi đáng kể như: thị trường quốc tế cạnh tranh
ngày cành gay gắt, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phát triển đội ngũ
nguồn lao động tri thức. Vì vâỵ, việc phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn
nhân lực giàu “chất xám” trở thành vấn đề cấp thiết để đất nước phát triển cả về
kinh tế và xã hội nên việc ngăn chặn nạn “chảy máu chất xám” ngày càng gia tăng
ở các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển cần phải được quan tâm nhiều
hơn nữa. Và để hiểu về vấn đề này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu qua đề tài: “Giáo dục
và vấn đề chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển”

I. Cơ sở lý thuyết về giáo dục và vấn đề chảy máu chất xám
I.1 Khái niệm về giáo dục và chảy máu chất xám
1.1.1 Khái niệm giáo dục

Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc
biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo
hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện nhân cách người học bằng những
tác động có ý thức từ bên ngồi, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người trong xã hội đương đại.

Chất lượng giáo dục là một sản phẩm phức tạp, sản phẩm của giáo dục là nhân
cách của con người học. Các yếu tố đang được sử dụng phổ biến để đánh giá chất

Trang 4


ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

lượng giáo dục là: kiến thức, kĩ năng, thái độ mà học sinh đạt được khi kết thúc
một cấp học, một bậc học nào đó so với các chuẩn đã được đề ra trong mục tiêu
giáo dục.

1.1. Vai trò của giáo dục

Ở một giai đoạn nào, một xã hội nào cũng vậy, nền giáo dục đóng một vai trị
hết sức quan trọng, nó thúc đẩy mọi sự phát triển kinh tế và xã hội. Để có một nền
kinh tế phát triển thì cần có những cơng trình nghiên cứu khoa học. Muốn có một
xã hội văn minh trước hết phải có một nền giáo dục vững chắc. Ngày nay, khi nền
khoa học phát triển ngày càng cao thì càng địi hỏi phải có những con người năng
động, biết tự tìm tịi, nghiên cứu, học hỏi để tìm ra cho mình những kiến thức mới.
Đặc biệt, trong cuộc sống đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ
trên khắp đất nước, nó địi hỏi phải có những con người lao động mới có bản lĩnh,
có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng với thực tiễn đời
sống xã hội luôn luôn phát triển.

Giáo dục được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao chất
lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước. Giáo dục vừa là mục tiêu, sức mạnh của nền kinh tế vừa là nền
tảng văn hóa, là điều kiện quan trọng cho một nền dân chủ, chính trị ổn định. Nó
là nền tảng xã hội của nền kinh tế tri thức.

1.2. Khái niệm về chảy máu chất xám
Cùng với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức, cuộc chạy đua

tranh giành nguồn nhân lực nhân tài giữa các quốc gia ngày càng diễn ra quyết

liệt. Hầu hết các nước trên thế giwois đều coi “chiến lược nhân tài” là một quốc
sách quan trọng, không ngững phát triển nguồn lực nhân tài trong nước, bảo đảm
an ninh nhân tài cho quốc gia. Song song với việc đẩy mạnh cơng tác đâị tạo và
bảo vệ nguồn tài ngun nhân tài, các nước cịn ban hành nhiều chính sách ưu đãi

Trang 5

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

nhằm thực thi chiến lược tranh giành nhân tài, tạo nên một cuộc đua “giành giât”
nhân tài gay gắt trên phạm vi toàn cầu.

Vậy chảy máu chất xám là gì?
Chảy máu chất xám là hiện tượng di chuyển của những người lao động có trình
độ, có tay nghề cao từ nơi này sang nơi khác (từ doanh nghiệp này, vùng này,
nước này sang doanh nghiệp khác, vùng khác, nước khác).

1.3. Một số hiện tượng cấu thành nên chảy máu chất xám
Thứ nhất, sự di chuyển chất xám khỏi một vùng, doanh nghiệp hay quốc gia

theo dạng cơ học, có nghĩa là một số tri thức ra đi từ địa phương này, hiện đang
làm việc ở những địa phương khác, hay những tổ chức kinh tế xã hội mà khơng có
sự đóng góp trực tiếp cho sự phát triển cảu địa phương nơi họ làm việc).

Thứ hai, hiện tượng lãng phí chất xám, bao gồm: Chất xám thừa chưa sử dụng
hết, chất xám không được sử dụng và chất xám sử dụng trái lịnh vực.

Chất xám chưa sử dụng hết và chất xám chưa được sử dụng vẫn có hiện tượng
chảy ra ngồi.


Ví dụ: Một số nước tri thức đang làm việc tại địa phương nhưng do điều kiện
kinh tế xã hội của địa phương bị hạn chế, nên chưa phát huy hoặc chưa phát huy
hết năng lực sở trường, từ đó chất xám được sử dụng cho nơi khác bằng các hợp
đồng nghiên cứu khoa học với nhiều tổ chức trong và ngoài nước.

Lãng phí chất xám do sử dụng không đúng chuyên môn đào tạo.
1.4. Tác động của chảy máu chất xám đến kinh tế - xã hội
Chảy máu chất xám vừa tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực.
1.4.1. Tác động tích cực
- Người dân làm việc và thành công ở hải ngoại thường gửi những số tiền rất lớn
về cho thên nhân của mình ở q nhà, giúp cho quốc gia có một số vốn lớn để đầu
tư và chi dùng.

Trang 6

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

- Người dân sống ở hải ngoại cũng là những nhịp cầu cho cá thương vụ và đầu tư
giữa những người ngoại quốc và bản xứ, họ cũng là thnahf phần đầu tư và giúp
cho sự học hỏi ở trong nước hay chuyên chở các kiến thúc từ hải ngoại.
1.4.2. Tác động tiêu cực
+ Đối với Quốc gia:
- Mất nhân tài, mất nguồn vốn nhân lực phục vụ cho sự phát triển đất nước. Việc
một số tri thức giở rời khỏi địa phương đi làm ở nơi khác là một thiệt thịi cho địa
phương đó, đồng thời gây tâm lý bất an cho các giới tri thức khác – những người
đóng góp lớn nhất cho sự tiến hóa của nhân loại.
- Gia tăng khoảng cách phát triển, tạo sự chênh lệch giữa các nước giàu và các
quốc gia nghèo, đang phát triển do chất xám phân bố không đều, thiếu hợp lý giữa
các ngành, các khu vực.
- Mức độ thua kém của quốc gia về mọi phương diện phát triển (xã hội, kỹ thuật,

đồng lương và năng suất) càng ngày càng tăng so với thế giới dẫn đến mức độ
cạnh tranh lại càng khó hơn, làm tăng nguồn kinh phí để trả lương cho các chun
gia nước ngồi được mời sang nước mình làm việc.
- Làm hạn chế sự phát triển của các cơng trình nghiên cứu khoa học, thành tựu
khoa học kỹ thuật cũng ít đưuọc sử dụng và ứng dụng vào thực tiễn, dẫn đến sự tụt
hậu trong nền kinh tế và tri trệ trong bộ máy Nhà nước.
+ Đối với doanh nghiệp
- Tác động xấu tới tâm lý của doanh nghiệp khiến cho quốc quá trình hợp tác giữa
nhân tài và doanh nghiệp trở nên gặp nhiều khó khăn hơn.
- Mất đi nhân tài hoạt động trong một bộ phận nhất định của doanh nghiệp dẫn tới
sự trì trệ của bộ phận đó trong thời gian ngắn.
- Mất cơng nghệ do người đó nắm giữ.
I.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chảy máu chất xám

Trang 7

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

2.1. Tiền lương/thu nhập
Tiền lương có thể có nhiều tên gọi khác như thù lao lao động , thu nhập lao

động. Tiền lương cao làm cho con người thỏa mãn hơn về mặt vật chất để từ đó an
tâm cống hiến, chú trọng đến cơng việc nhiều hơn và cố gắng chứng minh giá trị
của mình nhiều hơn. Dơ đó, tác động rất lớn đến tinh thần làm việc của nhân viên,
tác động này thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Khi được hưởng thu nhập mà người lao động cho là xứng đáng với cống hiến của
họ, họ sẽ phấn khởi nhiệt tình trong cơng việc.
- Họ ít có ý định bỏ đi nơi khác trong khi đang làm và hài lòng với thu nhập của
mình.
- Họ có tinh thần và trách nhiệm cao hơn với cơng việc mà họ phụ trách.

- Họ có tỉnh kỷ luật cao hơn trong chấp hành nội quy và tự chủ trong công việc
hơn.

2.2. Môi trường làm việc

Môi trường làm việc luôn được người lao động quan tâm bởi vì mơi trường
làm việc liên quan tới sự thuận tiện cá nhân song đồng thời nó cũng là nhân tố
giúp họ hồn thành tốt nhiệm vụ. Người lao động khơng thích mơi trường làm việc
nguy hiểm, bất lợi và không thuận tiện. Nhiệt độ, ánh sáng, tiếng ồn và cá yếu tố
môi trường khác phải phù hợp. Hơn nữa, nhiều người lao động thích làm việc
trong môi trường sạch sẽ, hiện đại và các trang thiết bị phù hợp. Một môi trường
làm việc phù hợp sẽ làm người lao động gắn bó với cơng việc hơn.

2.3. Trao quyền/ cơ hội thăng tiến
Sự trao quyền tồn tại khi cấp trên tin vào khả năng ra quyết định của nhân viên

và khuyến khích họ sử dụng sáng kiến. Nhân viên cảm thấy có thể thăng tiến trong

Trang 8

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

công việc sẽ thúc đẩy họ làm việc tốt hơn, gắn bó với cơng việc hơn và khơng có ý
định rời bỏ doanh nghiệp.

2.4. Chính sách tưởng thưởng
Chính sách tưởng thưởng làm cho nhân viên cảm thấy họ đã được khen thưởng

xứng đáng với áp lực cơng việc và vai trị hồn thành. Dơ đó ảnh hưởng đến thái
độ và hành vi của người lao động; khen thưởng làm cho người lao động có quan

điểm tích cực hơn và hành động theo chiều hướng hỗ trợ tổ chức.

Ngoài ra, các nhân tố về pháp luật, văn hóa doanh nghiệp....nơi sở tại mà
người lao động làm việc cũng tác động đến hiện tượng chảy máu chất xám.

II Thực trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển
I.3 Thực trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển nói chung
3.1. Đặc điểm giáo dục của các nước đang phát triển

3.1.1. Chi tiêu của chính phủ về giáo dục
Ở hầu hết các nước đang phát triển giáo dục chính quy là “ngành” lớn nhất và

là ngành “ngốn” ngân sách nhà nước nhiều nhất. Các chình phủ chi tiêu cơng quỹ
cho giáo dục vì họ tin rằng người dân được đào tạo tốt hơn sẽ đóng góp vào sự
phát triển nhanh hơn và bền vững hơn của đất nước.

Các nước nghèo đã đầu tư rất nhiều tiền cho giáo dục. Những nông dân có trình
độ học vấn tối thiểu chẳng hạn bậc tiểu học được sẽ có năng suất coa hơn và nhạy
bén hơn đối với hững kỹ thuật mới so với nông dân mù chữ. Đặc biệt những thợ
thủ công và thợ máy biết đọc biết viết sẽ có khả năng cao hơn trong việc đổi mới
sản phẩm và vật liệu kịp với những xu hướng của thị trường. Những người rời ghế
nhà trường trung học có khả năng tính tốn và ghi chép để làm việc trong bộ máy
của nhà nước và tư nhân ngày càng phình lên. Trong các nước thuộc địa trước đây
cũng cần tới nhiều người trong số này để thay thế những người đã rời bỏ xứ sở.

Trang 9

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

Cần có những người tốt nghiệp đại học để cung cấp những ngành nghề thiết yếu (y

tế, kỹ thuật, kiến trúc…) và kỹ năng quản lý kinh tế (kinh tế và thương mại) cần
thiết cho khu vực nhà nước và tư nhân.

Bên cạnh nhu cầu phát triển nguồn nhân lực, bản thân nhân dân, cả người giàu
lẫn người nghèo, đã gây áp lực chính trị dữ dội đòi mở thêm trường học ở các
nước đang phát triển. các bậc cha mẹ đẫ nhận ra rằng, trong thời đại cịn thiếu
nhân lực có trình độ cao, con cái họ càng được giáo dục ở trường và tích lũy được
càng nhiều văn bằng thì càng có nhiều cơ may dành đưuọc những công việc đảm
bảo và được trả công cao. Đặc biệt là người nghèo họ hiểu ra rằng có thêm nhiều
năm được giáo dục ở trường là con đường hy vọng duy nhất cho con cái họ thốt
khỏi nghèo đói.

Kết quả của thay đổi đó cả phía cầu lẫn phía cung dẫn tới trong hai thập kỷ vừa
qua ở các nước đang phát triển đã có sự gia tăng chi tiêu nhiều cho giáo dục. Cả tỷ
lệ thu nhập quốc dân lẫn ngân sách dành cho giáo dục đều tăng lên nhanh chóng.
Trên thực tế mức tăng chi của nhà nước cho giáo dục trong các thập kỷ 1960 và
1970 nhiều hơn bất cứ một ngành kinh tế nào khác. Vào những năm 1980, ngân
sách dành cho giáo dục ở các nước đang phát triển đã ngốn từ 15 đến 30% toàn bộ
chi phí thường xuyên của chính phủ.

Hầu hết Chính phủ đều ngày càng đóng vai trị tích cự trong cơng tác giáo dục.
sự khác biệt trong chi tiêu công cho giáo dục (so với GDP) giữa các nước phản
ánh sự khác biệt trong nỗ lực của các Chính phủ nhằm tăng quy mơ nguồn vốn con
người của quốc gia.

Trang 10

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

Bảng 1 chi tiêu công cho giáo dục


Tên nước % của GNP

1980 1997

Thu nhập cao 5.6 5.4

Thu nhập trung bình 3.8 4.8

Thu nhập thấp 3.4 3.3

Trung Quốc 2.5 2.3

Inđônêxia 3.0 3.2

Nhật Bản 5.8 3.6

Mỹ 6.7 5.4

Thái Lan 3.4 4.8

Hàn Quốc 3.7 3.7

Nicaragoa 3.4 3.9

Paragoay 1.5 4.0

Việt Nam …. 3.0

(Nguồn: Không chỉ là tăng trưởng kinh tế, 2005, NXB Văn hóa-Thơng tin, Hà


Nội)

Ngày nay, Chính phủ các quốc gia đang phát triển đầu tư một tỷ trọng lớn hơn
trong GDP cho giáo dục so với những gì họ đã bỏ ra trong những năm 80.

Trang 11

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

3.1.2. Tỷ lệ đi học

Học tiểu học giúp trẻ biết chữ và biết tính tốn cơ bản cũng như có được các
kiến thức và kỷ năng khác cần thiết cho các bậc giáo dục tiếp theo. Ở các nước có
thu nhập thấp, giáo dục tiểu học thường làm tăng phúc lợi cho người nghèo do
giúp họ trở thành những cơng nhân hữu ích hơn, tạo điều kiện cho họ tiếp nhận
được những kỹ năng mới thơng qua q trình làm việc và giảm rủi ro thất nghiệp.
Hơn nữa giáo dục tiểu học-đặc biệt cho trẻ em gái và phụ nữ sẽ tạo ra những gia
đình có quy mơ nhỏ hơn và khỏe mạnh hơn, số ca tử vong ở trẻ em cũng ít hơn.

Mặc dù số lượng trẻ em trong độ tuổi tiểu học tăng mạnh từ những năm 1970,
các nước đang phát triển đã thành công trong việc tăng đáng kể tỷ lệ nhập học tiểu
học.

Bảng 2 tỷ lệ nhập học (%) trong nhóm tuổi tương ứng
Trang 12

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

Nước Tiểu học Trung học cơ sở Phổ thông trung


học

1980 1997 1980 1997 1980 1997

Mỹ 99 102 91 97 56 81

Uganda 50 74 5 12 1 2

Việt Nam 109 114 42 57 2 7

Inđônêxia 83 100 30 49 5 7

Nhật Bản 101 101 93 103 31 43

Malaysia 93 101 48 64 4 11

Keynia 115 85 20 24 1 2

Cuba 106 106 81 81 17 12

Nicaragoa 94 102 41 55 12 12

Thái Lan 99 89 29 59 15 21

Nguồn: Không chỉ là tăng trưởng kinh tế, 2005, NXB Văn hóa – Thơng tin, Hà

Nội

Những phổ cập giáo dục tiểu học, mục tiêu mà hầu hết cá Chính phủ của các

nước phát triển theo đuổi, vẫn còn khá xa vời ở nhiều nước bảng 2. Tỷ lệ đi học
thấp ở nhiều nước có thu nhập thấp có thể là tín hiệu cho thấy sự thiếu hụt năng
lực của hệ thống giáo dục cũng như các điều kiện xã hội đẫ hạn chế trẻ em đến
trường.

Bảng 3 Tỷ lệ học sinh theo cấp học

Nước Tỷ lệ học Tỷ lệ học đến Tỷ lệ học Tỷ lệ mù chữ
Trang 13 sinh tiểu học lớp 5 (Nam/ sinh trung (%) >15 tuổi

(Nam/Nữ) Nữ) học (Nam/Nữ)
(Nam/Nữ)

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

Keynia 114/108 77/74 50/46 22/30
71/81 8/15
Malaysia 94/93 99/98 75/72 6/13
59/47 27/52
Việt Nam 101/94 87/86
- -
Ấn Độ 120/112 81/76 92/93 0/0
59/68 23/23
Hoa Kỳ 100/100 94/95 64/64 6/13
101/102 -
Cuba 103/98 98/97

Nicaragoa 113/111 55/63

Inđônêxia 118/116 88/90


Nhật Bản 11/101 -

(Nguồn: Tình trạng dân số năm 2006, UFNPA)

Thêm vào đó, số lượng nữ sinh ở các trường tiểu học trường ít hơn số nam
sinh. Sự chênh lệch về giới này lớn nhất ở khu vực Nam Á, Châu Phi Hạ Xahara
và Trung Đông. Khoảng cách về giới tồn tại dai dẳng trong giáo dục phản ánh
những quy tắc văn hóa, tục sinh đẻ sớm và các cơ hội hạn chế việc làm cho phụ nữ
cũng như quan điểm truyền thống coi phụ nữ phải dành nhiều công sức hơn cho
công việc nhà. Kết quả là số trẻ em nữ vào tiểu học ít hơn và trong số những người
trưởng thành ở các nước đang phát triển mù chữ, gần 2/3 trong đó là phụ nữ.

Ở hầu hết cá nước đang phát triển, tỷ lệ học sinh đi học tại các trường trung
học thấp hơn nhiều so với các trường tiểu học. mặc dù trong những thập kỷ gần
đây tình hình này đã được cải thiện, song tính trung bình chưa đên 60% trẻ em ở
độ tuổi học trung học ở cá nước có thu nhập thấp và trung bình được đi học, trong
khi đó ở các nước có thu nhập cao, giáo dục trung học gần như được phổ cập.
Chênh lệch về tỷ lệ nhập học giữa các phát triển và các nước đang phát triển đặc
biệt lớn ở bậc giáo dục đại học cao đẳng (lưu ý rằng cả số sinh viên tham gia một
cấp học hay số lượng các nguồn lực được đầu tư vào giáo dục đều không cho biết
được chất lượng của giáo dục, và vì vậy, nó chỉ đưa ra một khái niệm thơ về thành
tựu giáo dục của một đất nước).

Trang 14

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

3.1.3. Vấn đề thất nghiệp của những người có học


Tỉ lệ chiêu sinh vào trường phổ thông trung học ở những nước đang phát triển
khoảng 23%. Tuy nhiên theo những nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy ở những
nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có tỉ lệ chiêu sinh trung học hơn
20%, đều có tỉ lệ thất nghiệp hơn 10% trong số những người đã học trung học. Sri
Lanka (nơi mà đa số thanh niên đều được đào tạo bậc trung học), Ấn độ, Malayxia
cso tỉ lệ thất nghiệp trong nhóm được giáo ducjnayf hơn 20%. Tỉ lệ thất nghiệp đối
với người học cấp học cơ sở là 10%; đối với những người thấp hơn sơ cấp và
những người không đưuọc đào tạo thậm chí cịn thấp nữa. Mặc dù vậy nhưng
khơng có bằng chứng cho thấy xu hướng thất nghiệp tăng trong số người đưuọc
giáo dục ở các nước đang phát triển.

Mức thất nghiệp của những người được giáo dục có liên quan với việc thị
trường điều chỉnh theo dòng người tốt nghiệp phổ thông (và số người bỏ học giữa
chừng) như thế nào. Dưới áp lực chính trị buộc hệ thống giáo dục công cộng của
nước đang phát triển phải mở rộng, nhưng thường không đủ việc làm cho học sinh
sau khi ra trường. Mong muốn việc làm của những người được giáo dục không
đáp ứng được. Trong những năm đầu mở rộng giáo dục và thay thế người nước
ngoài bằng người địa phương ngay sau khi giành được độc lập từ chế đột huộc địa,
học sinh tốt nghiệp đã được thu hút mạnh và những vị trí cao trong cơng tác dân
sự, vũ trang, cơng ty của Chính phủ, trường học và doang nghiệp tư nhân. Tuy
vậy, vào những năm sau, cịn rất ít chỗ trống ở những cấp đó.

Tỉ lệ thất nghiệp cao của những người có học một phần do cơ cấu lương được
điều chỉnh chậm, đặc biệt khu vực Nhà nước nơi chủ yếu th những lao động có
đào tạo. Thơng thường các dịch vụ nhà nước có giá mức lương lao động ở đây dựa
vào chi phí để có đưuọc đào tạo cần thiết để đáp ứng yêu cầu về pháp lý cho công
việc chứ không phải dựa vào cung lao động và snar lượng. Cơ chế quy định mức
lương khơng thích hợp này không tạo ra sự phù hợp giữa sản lượng về giáo dục và
cơ hội tạo việc làm. Hơn nữa, học sinh tốt nghiệp có thể chờ cơng việc được trả


Trang 15

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

lương cao và do vậy trì hỗn nhận một cơng việc được trả lương ít hơn. Nếu mức
chênh lệch về lương đủ cao và xác suất tìm được một việc được trả lương vao hơn
rất lớn, thì thời hạn để tìm kiếm việc làm sẽ tạo ra một thu nhập kỳ vọng cao hơn
cho cả cuộc đời.

Những giải thích này phù hợp với động thái thất nghiệp đã trình bày. Những
người thất học khơng thể cờ đợi một công việc được trả lương cao hơn. Họ vẫn ở
lại nông thôn hoặc chấp nhận cơ hội việc làm đầu tiên. ở thái cực khác, những
ngưoi trình độ cao rất ít ở những nước đang phát triển, nên cho sinh viên tốt
nghiệp tìm được việc làm được trả lương cao ngay lập tức. Những người ở giữa,
học sinh tốt nghiệp phổ tông cơ sở cà trung học (hay bở học giữa chừng), khơng
chắc có được việc làm trả lương cao mà cịn bị loại ra ngồi cuộc đua. Do vậy, có
thể có một khoản chi đáng kể cho tồn bộ thời gian đi tìm kiếm việc làm. Những
người thất nghiệp có học có xu hướng là trẻ, khơng có người ăn theo, ít có tự lập
và thường được hỗ trợ bời gia đình. Hầu hết cuối cùng họ tìm được việc, thường là
sau 2 năm, mặc dù một vài người phải hạ thấp kỳ vọng về công việc của họ.

3.2. Phát triển giáo dục và hiện tượng chảy máu chất xám ở các nước đang
phát triển

Chảy máu chất xám là một hiện tượng thường thấy ở hầu hết các nước đang
phát triển. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định di chuyển lao động, nhưng
yếu tố kinh tế thường chiếm ưu thế nhất. Những cuộc khảo sát ở Châu Phi, Châu
Á và Châu Mỹ La Tinh luôn luôn chỉ ra rằng, lý do bao trùm khiến người ta di
chuyển là vì ở nơi khác có nhiều cơ hội hơn để tìm những việc làm được trả lương
cao. Và những người được học hành có xu hướng muốn di chuyển hơn là những

người chỉ học ít hay không được học. Trên thực tế dường như có một mối tương
quan thuận giữa học vấn của cá nhân và thiên hướng muốn di chuyển đi nơi khác
của người đó.

Trang 16

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

Những người có học vấn cao hơn thường có xu hướng di chuyển đi nơi khác
hơn những người có ít học vấn hơn. Vì: (1) Sự chênh lệch giữa thu nhập họ kiếm
được ở nơi khác so với những chi phí cơ hội của họ ở trong nước là lớn hơn; (2)
Họ có thể kiếm được những công việc nhiều tiền ở khu vực phát triển hơn.

Trong thực tế, hàng nghìn nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ đã từng được đào tạo ở
trong nước với chi phí xã hội đáng kể, nhưng lại chỉ muốn thu được lợi và góp sức
vào sự phát triển kinh tế cao hơn nữa cho những quốc gia đã giàu có. Bảng 4 cho
thấy mức độ chảy máu chất xám kỹ thuật và nghề nghiệp hàng năm từ các nước
đang phát triển sang Bắc Mỹ và Anh Quốc trong thời kỳ 1962-1977.

Bảng 4. Số người di cư có trình độ kỹ thuật và nghề nghiệp từ những nước đang
phát triển sang Mỹ, Canada, Anh, 1962-1977

Năm Mỹ Canada Anh Cả 3 nước
1962 9.024 1.318 -
1963 11.029 1.525 17.154
1970 33.796 6.118 4.600 40.914
1975 29.856 7.531 1.000 37.387
1977 34.510 3.626 38.136
-
-


Theo các só liệu thống kê, có tới 48.35 những người được hưởng nền giáo dục
cấp cao tại Châu Phi đã di cư sang Châu Âu sinh sống; 31.8% qua Mỹ, 12.4% đến

Trang 17

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

Canada và 6.8% đến Úc. Nhiều quốc gia Châu Phi có số sinh viên tốt nghiệp loại
khá giỏi ra đi nước ngoài chiếm tỷ lệ cao như Cap-Vert chiếm 67%, Gambia 63%,
Siera leone 53%...Tính chung mỗi năm có khoảng 20 000 người có trình độc cao
của Châu Phi bỏ ra nước ngoài.

 Tây Phi sera là 53%, Gambia 63% và Cape Vert là 67%.
 Ở Venezuela ước tính khoảng 1 triệu người Venezuela đã ra nước ngoài chỉ

trong vòng 10 năm qua từ sau cuộc cách mạng Bolivar, hàng chục nghìn
giáo sư Vevezuela đã lao vào vũng xoay khốn đốn. Các nghệ sĩ, luật sư, bác
sĩ, nhà quản lý và kỹ sư đang lần lượt rời bỏ đất nước này.
 Hati và Granada, nơi tỷ lệ người có bằng cấp cao đi lập nghiệp tại các nước
khác hiện vượt quá 80%. Vì thế nhân tài trong lĩnh vực y tế, giáo dục, khoa
học, công nghệ thông tin mà hiện các quốc gia này phỉa bỏ ra khoảng 150
nghìn USD chỉ để đào tạo cho một tri thức, trong khi với số tiền này đã đủ
nuôi 500 người dan ăn uống trong một năm. Cứ như thế, các Chính Phủ này
phải ‘oằn mình’ gánh chịu hàng tỷ USD – bằng 1/3 số tiền viện trợ từ cá
nước, để thuê các chuyên gia nước ngoài về làm việc.
Tình trạng để mất người tài đặc biệt đáng lo ngại trong những năm gần đây ở
Malaysia. Từ đầu năm 2008 đến khoảng giữa năm 2009, số công dân Malaysia
xuất ngoại lập nghiệp là hơn 300 000 người, tăng cao so với con số 140 000 người
năm 2007. Lực lượng này làm việc trong cá ngành trọng yếu như tài chính, kỹ

thuật và cơng nghệ.
Trung Quốc hiện có tới 70% số du học sinh của Trung Quốc không muốn về
nước và con số này thực sự là một tổn thất lớn đối với nền kinh tế lớn thứ 2 thế
giới này. Trong số 1.06 triệu sinh viên và nghiên cứu sinh Trung Quốc tiến hành
cải cách và mở cửa kinh tế, chỉ có khoảng 280 000 người trở về nước. Tính đến
năm 2000, tỷ lệ du học sinh Trung quốc trở về nước là 1/3.
Sự chảy máu chất xám trên qui mô quốc tế đáng được nhắc đến khơng chỉ vì
nó ảnh hưởng đến tốc độ và cấu trúc phát triển kinh tế của các nước đang phát

Trang 18

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

triển, mà nó cịn ảnh hưởng đến phong cách và sự tiến triển của các hệ thống giáo
dục của Thế giới thứ ba. Vì vậy, sự chảy máu chất xám khơng chỉ làm giảm việc
cung cấp những người có chun mơn giỏi ở những nước này. Mà có thể nghiêm
trọng hơn là nó đã làm lệch hướng chú ý của các nhà khoa học, bác sĩ, kiến trúc
sư, kỹ sư, nên họ không quan tâm đến những vấn đề ở trong nước. Những vấn đề
này bao gồm phát triển cơng nghệ thích hợp, thực thi bảo vêh sức khỏe một cách ít
tốn kém, xây dựng nhà ở, bệnh viện, trường học và những cơ sở dịch vụ khác một
cách ít tốn kém, thiết kế và xây dựng đường xá, cầu cống, máy móc khơng đắt tiền
mà vẫn hoạt động hiệu quả. Thay vào đó những nhà chun mơn có trí thức và tay
nghề cao thuộc các nước đang phát triển bị ngữ trị bởi những quan niệm ở các
nước giàu về những cải thực sự là xuất sắc trong nghề nghiệp và trên trường quốc
tế, lại không di cư về thể xác sang các nước phát triển mà đôi khi chỉ di cư về mặt
‘tri thức’ theo định hướng công việc của họ. Sự chảy máu chất xám bên trong này
có thể cịn nghiêm trọng hơn so với sự chảy máu chất xám ra bên ngồi. Ví dụ :
Các kiến trúc sư chỉ quan tâm đến thiết kế những đài kỷ niệm của quốc gia và
những tịa nhà cơng cộng hiện đại, còn những nhà ở, bệnh viện, trường học rẻ tiền
thì khơng được quan tâm đến. Các kỹ sư, nhà khoa học tập trung chú ý vào những

thiết bị điện tử hiện đại và mới nhất, còn những dụng cụ máy móc giản đơn, những
máy móc nơng nghiệp dùng tay hay vật kéo, những hệ thống thanh trùng và làm
sạch nước, những quá trình cơ học sử dụng nhiều lao động lại được giao cho
những ‘chuyên gia nước ngoài’. Cuối cùng, những viện sĩ kinh tế học ở các nước
đang phát triển dạy và nghiên cứu những mô hình tốn học phức tạp khơng thích
hợp của những nền kinh tế cạnh tranh khơng tồn tại ở nước đó. Cịn những vấn đề
nghèo đói, thất nghiệp, phát triển nơng thơn và giáo dục thì bị coi là kém thú vị về
mặt tri thức.

Ngoài ra, thực trạng chảy máu chất xám không chỉ diễn ra ở các nước nghèo
hay các nước đang phát triển mà còn diễn ra ngay ở các nước phát triển điển hình
như :

Trang 19

ĐỀ ÁN: KINH TẾ PHÁT TRIỂN GVHD: HUỲNH VIẾT THIÊN ÂN

 Anh: mặc dù được đánh giá là thành công trong việc thu hút chất xám từ
các nước đang phát triển, nhưng chính nước Anh cũng gặp phải vấn đề
chảy máu chất xám, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học. Một cuộc điều tra gần
đây của OECD cho thấy, tình trạng chảy máu chất xám của Anh đang lên
tới đỉnh cao. Hiện nay Anh có khoảng 3.3 triệu người di cư ra nước ngồi,
trong đó có 1.1 triệ người có b dại học. Trong số các nhân tài có trình độ
cao của Anh, có khoảng 28.35 số người có bằng về y dược và giáo dục,
28.5% nhân tài công tác trong lĩnh bằng vực công nghệ kỹ thuật và nghiên
cứu khoa học, đây là đôi ngũ tri thức mà nước Anh đang rất cần.

 Nhật Bản: Vốn là một nước công nghiệp phát triển, nhưng gần đây họ
cũng đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhân tài q nhà. Ước tính có
2500 kỹ sư nhật trong ngành kỹ thật công nghiệp đang làm việc tạ Đài

Loan.

 Nga: vào những năm cuối hập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ
trước, cso rất nhiều nhà khoa học Nga đã bỏ nghề ra nước ngoài làm việc.
Tình trạng di cư của cá nhà khoa học Nga vẫn tiếp tục diễn ra ở đầu thế kỷ
21. Nước Nga là nơi đào tạo các chuyên gia khoa học nổi tiếng, nhiều nước
phương Tây đã giành nhiều ưu ái cho cá nhà khoa học Nga. Các ngành vật
lý, toán học và sinh học cảu Nga có thể tìm việc tại cá trường đại học Mỹ
mà khơng gặp khó khăn gì lớn. Tình trạng chảy máu chất xám khiến Nga
thiệt hại hơn 30 tỉ USD mỗi năm.

3.3. Một số biện pháp hạn chế

‘Chảy máu chất xám’ vẫn luôn là một vấn đề nhức nhối đối với các quốc gia
đang phát triển, khi mà hàng loạt nhân tài và những nhân công được rèn luyện có
kỹ năng cao ở những nước chưa phát triển đua nhau đi tìm ‘miền đất hứa’ ỏ những
cường quốc phát triển hơn. Vì vậy các quốc gia đang phát triển cần có nhiều biện
pháp để hạn chế nguồn chất xám này chảy ra bên ngoài như:

Trang 20


×