Tải bản đầy đủ (.doc) (251 trang)

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 251 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

PHẠM THANH SƠN

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2024

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

PHẠM THANH SƠN

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 9380101.02

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Vũ Công Giao

HÀ NỘI - 2024

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Phạm Thanh Sơn

MỤC LỤC Trang
1
MỞ ĐẦU 10
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN 10
17
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 30
1.1. Các cơng trình nghiên cứu nước ngồi 32
1.2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước 34
1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và 35

những vấn đề luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu 35
1.4. Giả thuyết khoa học, câu hỏi nghiên cứu của luận án
TỔNG KẾT CHƯƠNG 1 50
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
65
LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trị của hồn thiện pháp luật về phịng, 68

chống tra tấn 84
2.2. Nội dung và tiêu chí đánh giá sự hồn thiện của pháp luật về phịng, 85

chống tra tấn 85

2.3. Những yếu tố tác động đến hoàn thiện pháp luật về phòng, chống 93
124
tra tấn
2.4. Pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về phòng, chống

tra tấn và những yêu cầu, giá trị tham khảo với Việt Nam để
hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tra tấn
TỔNG KẾT CHƯƠNG 2
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG,
CHỐNG TRA TẤN
3.1. Khái qt q trình hồn thiện pháp luật về phòng, chống tra tấn ở
Việt Nam
3.2. Nội dung pháp luật hiện hành của Việt Nam về phòng, chống tra tấn
3.3. Thực tiễn tổ chức thi hành pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn

3.4. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật Việt Nam về phòng, chống
140

tra tấn

TỔNG KẾT CHƯƠNG 3 154

Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
155

VỀ PHÒNG, CHỐNG TRA TẤN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật pháp luật Việt Nam về phòng, chống
155


tra tấn

4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn 157

TỔNG KẾT CHƯƠNG 4 181

KẾT LUẬN 182

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC 184

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 195

BLHS DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS
CAT : Bộ luật Hình sự
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT : Cơng ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng
ICCPR
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người
LHQ (Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or
NNPQ Degrading Treatment or Punishment)
OPCAT : Cơ quan điều tra
: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
PCTT (International Covenant on Civil and Political Rights)
QCD : Liên Hợp quốc
QCN : Nhà nước pháp quyền
QPPL : Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước tra tấn và
TTHS các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo
TAND hoặc hạ nhục con người (Optional Protocol to the
UDHR Convention against Torture)

: Phòng, chống tra tấn
VKSND : Quyền công dân
XHCN : QCN
: Quy phạm pháp luật
: Tố tụng hình sự
: Toà án nhân dân
: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (Universal Declaration of
Human Rights)
: Viện kiểm sát nhân dân
: Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC BẢNG

3.1. Số liệu tội dùng nhục hình đã được điều tra, truy tố, xét xử giai đoạn
từ năm 2013 đến năm 2022. 132

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi Liên hợp quốc (LHQ) được thành lập, vấn đề cấm tra tấn đã được
quy định trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người (QCN) như:
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948, Công ước về Ngăn ngừa và
Trừng trị Tội diệt chủng năm 1948, các Công ước Geneva năm 1949… Là một sự vi
phạm nhân quyền nghiêm trọng, tra tấn thuộc về những vấn đề đầu tiên cần giải
quyết của LHQ nhằm mục đích phát triển các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Điều
5 UDHR 1948 có nêu: “Khơng một ai phải bị tra tấn hoặc bị trừng phạt tàn ác và vô
nhân đạo” [192]. Đến năm 1966, cấm tra tấn được quy định cụ thể và rõ ràng hơn
trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966. Điều

7 Công ước này quy định “Khơng ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một
cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” [195]. Ngoài ra, việc cấm các
hành vi tra tấn và ngược đãi cũng được đề cập trong nhiều văn kiện và điều ước khu
vực như: Công ước châu Âu về các QCN và tự do cơ bản năm 1950, Công ước châu
Mỹ về QCN năm 1978, Hiến chương châu Phi về QCN và quyền các dân tộc năm
1981…
Đặc biệt, vấn đề trên được quy định riêng biệt, chi tiết trong Công ước của
LHQ về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo
hoặc hạ nhục con người năm 1984 (Công ước chống tra tấn, sau đây viết tắt là
CAT). Đây là văn kiện pháp lý quốc tế đa phương thể hiện tập trung nhất ý chí của
cộng đồng quốc tế kiên quyết loại bỏ các hành vi tra tấn, đối xử tàn bạo hoặc vơ
nhân đạo với con người vì bất cứ lý do gì, đồng thời tăng cường cơng tác thơng tin,
tun truyền để nâng cao nhận thức, thúc đẩy xây dựng các cơ chế bảo vệ nạn nhân
và tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Công ước đã và đang là văn kiện
pháp lý quốc tế quan trọng nhất về phòng, chống tra tấn (PCTT).
Ở Việt Nam, vấn đề PCTT mặc dù đã được chú ý từ sớm và đã được ghi nhận
trong nhiều văn bản pháp luật trước đó, tuy nhiên phải đến Hiến pháp năm 2013
mới được đề cập cụ thể. Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013 nêu rõ: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự
và nhân

2

phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [89]. Trên cơ sở
đó, ngày 28/11/2014, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn CAT, qua đó nâng cao đáng
kể uy tín quốc tế của Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền. Đồng thời, việc trở thành
thành viên của CAT cũng đặt ra yêu cầu cho Việt Nam phải nghiên cứu hoàn thiện
hệ thống pháp luật hiện hành để bảo đảm tương thích với Cơng ước (nội luật hố
Cơng ước), qua đó thực hiện đầy đủ cam kết và nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam về

PCTT và tăng cường năng lực của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi đầy
đủ các quy định của Công ước. Với quy định của Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu
nội luật hoá CAT đã tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh hoàn thiện pháp luật về PCTT ở
Việt Nam. Từ năm 2015 đến nay, nhiều văn bản luật quan trọng liên quan trực tiếp
đến PCTT đã được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung như: Bộ luật Hình sự (BLHS)
năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ,
tạm giam năm 2015, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật Trách nhiệm bồi
thường của nhà nước năm 2017, Luật Tố cáo năm 2018…

Đến nay, khung khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về PCTT đã khá toàn
diện; tuy vậy, một số quy định pháp luật vẫn chưa hoàn thiện, thiếu chi tiết và thiếu
hợp lý như: quyền không bị tra tấn chưa được cụ thể hóa thành luật, quy định
nghiêm cấm và trừng trị hành vi tra tấn chưa được nội luật hóa trong một điều,
khoản riêng biệt trong BLHS; một số quy định phòng ngừa hành vi tra tấn trong
BLTTHS và các văn bản pháp luật có liên quan còn thiếu chi tiết, tạo khoảng trống
cho hành vi tra tấn; quy định về khiếu nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại liên quan
đến tra tấn còn những điểm bất cập… dẫn đến những cách hiểu khác nhau và khó áp
dụng, chưa đủ để phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi tra tấn một cách kịp thời,
hiệu quả trong thực tế.

Cùng với đó, việc tổ chức thi hành pháp luật còn những hạn chế, vướng mắc,
làm giảm hiệu quả PCTT, biểu hiện là vẫn còn xảy ra những vụ án liên quan đến tra
tấn (nhất là các vụ án dùng nhục hình) gây bức xúc dư luận trong thời gian qua.
Những hạn chế, vướng mắc trên xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan và chủ
quan, trong đó nguyên nhân khách quan chủ yếu là do tính chất vĩ mơ, phức tạp của
vấn đề PCTT, còn

3

nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do nhận thức về tầm quan trọng và các biện pháp

PCTT của một số cơ quan nhà nước còn chưa đầy đủ, đòi hỏi cần nghiên cứu làm
rõ, từ đó xác định các giải pháp khắc phục.

Trong thực tế, cải cách tư pháp, bảo vệ, bảo đảm QCN, trong đó bao gồm
PCTT đã được xác định như là những vấn đề trọng tâm khi tổng kết 10 năm thi
hành Hiến pháp năm 2013, tổng kết 15 năm thực hiện các Nghị quyết số 48-NQ/TW
và 49- NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, trọng tâm là xây dựng nền tư pháp Việt Nam độc lập, chuyên
nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân để tịa án hồn thành sứ mệnh bảo vệ công lý, bảo vệ
QCN, QCD, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân [7]. Đồng thời, đây cũng là những vấn đề
được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 27-NQ/TW được thông qua ngày 9/11/2022
tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam trong giai
đoạn mới. Điều đó càng cho thấy tính cấp thiết của việc nghiên cứu hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về PCTT.

Trong thời gian qua ở nước ta đã có một số cơng trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài, song chưa có cơng trình nào phân tích một cách tồn diện cơ sở lý luận,
thực trạng, lý giải những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp hiệu quả nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về PCTT. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu
sinh quyết định chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra
tấn” để thực hiện luận án tiến sĩ luật học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý, kinh nghiệm quốc tế và
thực tiễn pháp luật Việt Nam về PCTT, luận án chỉ ra những khoảng trống và hạn

chế trong pháp luật Việt Nam về PCTT, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp xây
dựng, củng cố khung khổ pháp luật về PCTT ở Việt Nam trong thời gian tới.

4

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận án cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể
như sau:
Thứ nhất, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước liên
quan đến đề tài, chỉ ra những khoảng trống nghiên cứu, xác định cơ sở lý thuyết và
hướng nghiên cứu của luận án.
Thứ hai, phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về PCTT và pháp luật về PCTT;
khảo sát pháp luật PCTT trong pháp luật quốc tế và pháp luật PCTT của một số
quốc gia và những yêu cầu, kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Thứ ba, phân tích những quy định về PCTT trong pháp luật Việt Nam từ trước
tới nay, đặc biệt là trong pháp luật hiện hành, chỉ ra những điểm tương thích và
chưa tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế, cũng như những nội dung chưa đầy đủ
để hiện thực hoá đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề này.
Thứ tư, trên cơ sở giải quyết ba nhiệm vụ cụ thể nêu trên, luận án nêu ra những
quan điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định về PCTT trong pháp
luật hiện hành của Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu về xây dựng NNPQ, hội nhập
quốc tế của nước ta trong thời kỳ mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây
dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về PCTT, trọng tâm là những quy định
trong Hiến pháp năm 2013, các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan. Ngoài
ra, luận án cũng nghiên cứu quy định về PCTT trong các Công ước quốc tế về QCN,
đặc biệt là CAT và quy định về chống tra tấn trong pháp luật một số quốc gia trên
thế giới.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: luận án tập trung nghiên cứu pháp luật về PCTT. Các vấn
đề lý luận về PCTT sử dụng kiến thức của các ngành triết học, chính trị học… cũng
được đề cập, phân tích, song chỉ ở mức độ khái quát, làm cơ sở phân tích, đánh giá
khn khổ pháp luật Việt Nam về PCTT.
- Về mặt không gian: luận án tập trung nghiên cứu khuôn khổ pháp luật Việt

5

Nam về PCTT và giải pháp hoàn thiện. Nội dung PCTT trong pháp luật quốc tế và
pháp luật của một số quốc gia khác cũng được đề cập nhưng ở mức độ khái quát,
làm cơ sở tham chiếu đánh giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật
quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác trong lĩnh vực này.

- Về mặt thời gian: Trọng tâm nghiên cứu của luận án là pháp luật Việt Nam
về PCTT từ năm 2013 đến nay, xuất phát từ thực tế là lần đầu tiên vấn đề này được
Hiến pháp năm 2013 quy định và Việt Nam kí kết CAT vào năm 2013. Tuy nhiên,
để bảo đảm yêu cầu về tính hệ thống, luận án cũng dành dung lượng nhất định để
khảo sát, khái quát hoá khuôn khổ pháp luật Việt Nam về PCTT trong các giai đoạn
trước Hiến pháp năm 2013.

4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo đảm QCN,
các chuẩn mực quốc tế về QCN.
4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.2.1. Phương pháp luận
Về phương pháp luận, luận án vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng
của triết học Mác Lênin làm cơ sở định hướng đánh giá tổng thể sự phát sinh, phát

triển và tính chất, đặc điểm của hệ thống pháp luật về PCTT.
Bên cạnh đó, luận án đồng thời vận dụng một số khung lý thuyết và phương
pháp tiếp cận về QCN để làm nền tảng phân tích, đánh giá mức độ hồn thiện hệ
thống pháp luật ở Việt Nam về PCTT, bao gồm:
Lý thuyết về tiếp cận dựa trên quyền con người (Human Rights-Based Approach
- HRBA): HRBA là hướng tiếp cận trong xây dựng pháp luật, trong đó lấy các tiêu
chuẩn phổ quát về QCN trong các văn kiện của luật nhân quyền quốc tế làm cơ sở
để đạt được các mục tiêu đề ra và làm điều kiện, khn khổ cho q trình đạt được
kết quả đó. Luận án vận dụng HRBA nhằm đánh giá các quy định pháp luật của
Việt Nam về PCTT, không chỉ là để xem các quy định đó đã đạt được mục tiêu bảo
đảm

6

quyền của mọi người không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vơ nhân đạo hay chưa, mà
cịn đã hướng đến quy trình và cách thức để mọi người có thể vận dụng pháp luật về
PCTT để bảo vệ quyền và đòi hỏi sự đền bù hiệu quả khi bị vi phạm quyền hay
chưa. Cách tiếp cận này được thể hiện xuyên suốt toàn bộ luận án.

Lý thuyết về quyền tuyệt đối (absolute right): theo lý thuyết này, các quyền
tuyệt đối sẽ không bị giới hạn trong mọi hoàn cảnh, bởi đây là trong những quyền
cơ bản nhất của con người. Theo luật nhân quyền quốc tế, trong số các quyền con
người, quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục là một
quyền tuyệt đối. Cách tiếp cận quyền không bị tra tấn là quyền tuyệt đối được sử
dụng trong toàn bộ nội dung của luận án, đặc biệt là ở chương 3 để đánh giá mức độ
tương thích của hệ thống pháp luật Việt Nam về PCTT với các quy tắc có liên quan
của luật nhân quyền quốc tế.

4.2.2 Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, luận án kết hợp sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu
đặt ra, bao gồm:
Phương pháp hệ thống được sử dụng trong Chương 1 để phân loại và đánh giá
nội dung các cơng trình nghiên cứu về QCN, về tra tấn và pháp luật PCTT ở trên thế
giới và ở Việt Nam.
Phương pháp logic được sử dụng xuyên suốt trong các chương của luận án.
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ở Chương 1, tác giả
xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ở các chương tiếp theo của luận án.
Trên cơ sở những vấn đề lý luận được phân tích ở Chương 2, tác giả đánh giá thực
trạng pháp luật PCTT ở Chương 3 và đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về PCTT trong Chương 4.
Phương pháp lịch sử được sử dụng để đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam
về PCTT ở Chương 3, theo đó, điều kiện, hồn cảnh tự nhiên, xã hội của đất nước
trong mỗi thời kỳ lịch sử là một yếu tố không thể thiếu để đánh giá về pháp luật
PCTT trong từng giai đoạn.
Phương pháp phân tích được sử dụng trong các Chương 2, Chương 3 và Chương

7

4 của luận án để khảo sát và đưa ra nhận định, đánh giá về những vấn đề liên quan
đến đề tài, thể hiện qua những tài liệu sơ cấp và thứ cấp. Tài liệu sơ cấp bao gồm
các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam,
các vụ việc, các số liệu thống kê chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
văn bản pháp luật quốc tế, văn bản pháp luật của một số quốc gia, các văn kiện, báo
cáo có liên quan đến đề tài của các tổ chức quốc tế. Tài liệu thứ cấp bao gồm các bài
báo, tạp chí, kết luận phân tích đã được các tác giả khác thực hiện và công bố trong
các sách chuyên khảo, tham khảo.

Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ luận án để khái quát hoá,
phân loại, xếp loại các tri thức, số liệu qua việc phân tích các tài liệu, từ đó giúp

nghiên cứu sinh đưa ra các nhận xét, đánh giá tổng quan ở mỗi chương và trong
phần Kết luận của luận án.

Phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong toàn bộ luận án, đặc biệt là ở
các Chương 2 và 3 để đối chiếu tìm ra sự tương đồng và khác biệt về quan điểm
giữa các tác giả, cũng như để đánh giá sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam với
pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác về PCTT. Phương pháp so
sánh cũng nhằm làm rõ sự phát triển của pháp luật PCTT ở Việt Nam qua các giai
đoạn lịch sử.

5. Đóng góp mới của luận án
Luận án là một trong những cơng trình khoa học có tính chun sâu, tồn diện
và là cơng trình đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật học phân tích vấn đề hồn thiện pháp
luật về PCTT từ góc độ của chuyên ngành Luật hiến pháp và luật hành chính ở Việt
Nam. Những đóng góp mới của luận án thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, củng cố và bổ sung nền tảng lý luận về pháp luật PCTT. Luận án kế
thừa các công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này nhưng có phân tích, đánh giá để
xác định rõ hơn khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung của pháp luật PCTT và
những yêu cầu đặt ra với việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Luận
án khẳng định tra tấn là một hành vi vi phạm nhân quyền đặc biệt nghiêm trọng,
cần phải cấm tuyệt đối. Cấm tra tấn là một nguyên tắc mang tính tập quán quốc tế,
ràng buộc nghĩa vụ tuân thủ của mọi nhà nước, trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong
bối cảnh khẩn cấp của quốc gia. Đây là luận điểm là cơ sở để củng cố quyết tâm
chính trị trong việc xây

8

dựng, hoàn thiện pháp luật về PCTT của mọi nước, trong đó có Việt Nam.
Thứ hai, thơng qua việc nghiên cứu q trình phát triển và thực trạng, luận án


đã bổ sung những phân tích, đánh giá có tính hệ thống và cập nhật khn khổ pháp
luật Việt Nam hiện hành về PCTT, chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những
hạn chế, khó khăn đồng thời xác định nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn
đó. Luận án khẳng định, mặc dù khung khổ pháp luật về PCTT ở Việt Nam đã khá
toàn diện, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, do nhiều nguyên nhân khách
quan, chủ quan, trong đó nguyên nhân khách quan chủ yếu là do tính chất phức tạp
của vấn đề, còn nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do nhận thức về tầm quan trọng
và các biện pháp PCTT của một số cơ quan nhà nước còn chưa đầy đủ. Đây là luận
điểm đóng vai trị cơ sở để xác định các phương hướng và nhóm giải pháp chủ yếu
trong việc hoàn thiện pháp luật về PCTN ở Việt Nam.

Thứ ba, luận án xây dựng các quan điểm, đề xuất và luận giải một hệ thống
giải pháp tồn diện nhằm hồn thiện khn khổ pháp luật Việt Nam hiện hành về
PCTT. Các quan điểm, giải pháp có sự kế thừa từ những nghiên cứu đã được cơng
bố, song được hồn thiện, phát triển ở mức độ toàn diện, cụ thể và sâu sắc hơn, dựa
trên những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn đáng tin cậy đã được làm rõ trong
luận án.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, củng cố cơ sở lý luận khoa
học cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về PCTT.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội trong việc phân tích,
đánh giá vấn đề và hoạch định, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện các chính
sách, pháp luật về PCTT.
Bên cạnh đó, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở học
thuật, các tổ chức xã hội và chính quyền địa phương trong việc giảng dạy, nghiên
cứu và tổ chức thực thi pháp luật về PCTT.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án

9

gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận của việc hồn thiện pháp luật về phịng, chống tra tấn
Chương 3: Thực trạng pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn
Chương 4: Quan điểm, giải pháp hồn thiện pháp luật về phịng, chống tra tấn

ở Việt Nam hiện nay

10

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngồi
Tra tấn là hình thức vi phạm nghiêm trọng đến QCN, đe doạ trực tiếp và
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ và danh dự, nhân phẩm của con người. Do
vậy, PCTT đã và đang là vấn đề nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ sở
học thuật và nhiều học giả trên thế giới. Một số cơng trình khoa học tiêu biểu về vấn
đề này được cơng bố ở nước ngồi bao gồm:
1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu lý luận về tra tấn và phòng, chống tra tấn
Trong những vi phạm nhân quyền thì tra tấn là hành vi bị lên án mạnh mẽ và
phổ biến nhất, bởi đó được xem là một trong những hành vi vô nhân đạo và đê hèn
nhất mà con người phạm phải với đồng loại. Bản chất hành vi tra tấn, cũng như tính

cấp thiết của PCTT được thể hiện trong một số cơng trình tiêu biểu sau:
“The United Nations Convention Against Torture” (tạm dịch: Công ước LHQ
về chống tra tấn) của tác giả Manfred Nowak, Elizabeth McArthur, năm 2008 [181].
Đây là một trong những nguồn tài liệu đầy đủ nhất về đề tài này, được nghiên cứu,
biên soạn bởi những nghiên cứu nổi tiếng về nhân quyền, đặc biệt là GS. Manfred
Nowak (Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về chống tra tấn). Cuốn sách đã giải thích
cụ thể những nội dung quan trọng trong định nghĩa tra tấn tại Điều 1 của CAT, theo
đó: “Tra tấn” khơng chỉ là các hành vi đánh đập về thể chất như: sốc điện vào các
bộ phận sinh dục, rút móng tay… mà cịn có các hành vi tra tấn về tinh thần: bỏ đói,
uy hiếp về tinh thần, thẩm vấn xuyên đêm kéo dài, tra tấn tình dục… làm cho nạn
nhân đau khổ và lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần, tuyệt vọng. Việc cấm tra
tấn về thể chất và tinh thần được bảo đảm, bảo vệ như một quyền tuyệt đối, không
được phương hại đến ngay cả trong thời chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp. Bên
cạnh đó, các tác giả cũng phân tích nghĩa vụ của các quốc gia khi tham gia CAT,
bao gồm nghĩa vụ phòng ngừa các hành vi tra tấn bằng nhiều hình thức như: hình sự
hóa hành vi tra tấn, có các biện pháp bảo vệ trong giai đoạn điều tra sơ bộ, đào
tạo nhân viên thực thi

11

công vụ; quá trình thẩm vấn tù nhân; các quyền khiếu nại của phạm nhân khi bị tra
tấn, quyền được bồi thường thiệt hại khi phát hiện tra tấn… Tài liệu cũng phân tích
các trình tự, thủ tục, hoạt động giám sát của Ủy ban chống tra tấn; phân biệt giữa tra
tấn và đối xử vô nhân đạo hay hạ nhục, tàn nhẫn và nguyên tắc không chấp nhận
bằng chứng do bị tra tấn. Ngồi ra, tài liệu cịn phân tích luật pháp và thực tiễn
chống tra tấn ở các tòa án quốc tế, khu vực và toà án của một số quốc gia.

“The Torture Reporting Handbook” (tạm dịch: Sổ tay tố cáo hành vi tra tấn)
của tác giả Camille Giffard, năm 2000 [170]. Tài liệu phân tích về việc tiếp nhận và
xử lý các tố cáo về tra tấn trong cơ chế quốc tế về bảo vệ QCN. Bên cạnh đó, tài liệu

cũng phân tích nội hàm của khái niệm tra tấn theo quy định tại Điều 1 của CAT,
đồng thời phân tích các khái niệm đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con
người mà theo đó có mức độ đau khổ ít nghiêm trọng (thấp hơn) so với tra tấn. Tài
liệu khẳng định nạn nhân của tra tấn rất đa dạng, có thể là bất kỳ ai: nam giới, phụ
nữ, người cao tuổi, trẻ em, tơn giáo, khơng có tơn giáo, trí thức hay nơng dân…
nhưng phổ biến nhất là những người bất đồng về quan điểm chính trị, người phản
đối chính quyền, hoặc những người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.

“Some perspectives on torture victims, reparation and mental recovery” (tạm
dịch: “Một vài quan điểm về nạn nhân của tra tấn, bồi thường và phục hồi tinh thần
cho họ”) của tác giả P. Dalton [171]. Tài liệu này do Uỷ ban Nhân quyền châu Á xuất
bản năm 2002, đã phân tích hậu quả của hành vi tra tấn đối với các nạn nhân, vấn đề
bồi thường và việc phục hồi đối với nạn nhân của tra tấn, nhất là về phương diện tinh
thần.

“A History of Torture” (tạm dịch: Lịch sử tra tấn) của tác giả Jame Ross, năm
2007 [175]. Tài liệu này cung cấp thông tin về lịch sử hành vi tra tấn và cuộc đấu
tranh chống tra tấn của nhân loại. Theo tác giả, tra tấn đã có từ thời xa xưa trong
lịch sử nhân loại, tuy nhiên, mọi hành vi tra tấn trong mọi tình huống đều bị lên án,
bất cứ hình thức tra tấn nào về bản chất đều đi ngược với công lý, vô đạo đức và vi
phạm nhân phẩm của con người.

“The Shape of Modern Torture” (tạm dịch: Hình thức tra tấn hiện đại) của tác
giả John T. Parry, năm 2005 [177]. Cuốn sách phân tích những ý kiến tranh luận
hiện nay về khái niệm “tra tấn”, trong đó cho rằng, “tra tấn” và các hình thức
“cưỡng bách

12

điều tra và thẩm vấn” về bản chất là giống nhau. Trong cuốn sách, tác giả cũng phân

tích từ góc độ pháp lý một số vấn đề và hoạt động liên quan đến tra tấn mà đang xảy
ra trong thực tế trên thế giới.

“Understanding Torture” (tạm dịch: Tìm hiểu về tra tấn) của tác giả John T.
Parrty, năm 2011 [178]. Tác giả giải thích tra tấn là hành động diễn ra tại nhiều
quốc gia, đặc biệt là ở các nhà nước chuyên chế, nhằm đạt được nhiều mục đích
khác nhau, bao gồm việc giữ trật tự cơng cộng, kiểm sốt các nhóm thiểu số về
chủng tộc, sắc tộc và tôn giáo... Tác giả nêu ra một số ví dụ như ở nhà tù Abu
Ghraib ở Iraq, việc đàn áp các nhóm sắc tộc thiểu số trong lịch sử Hoa Kỳ… để làm
minh chứng.

“Art of Torture” (tạm dịch: Phương pháp tra tấn) của tác giả Jeanne Sarson và
Linda MacDonald [176]. Nghiên cứu nhấn mạnh sự phổ biến của hành vi tra tấn
trên thế giới hiện nay, mặc dù đã có cam kết của các quốc gia về chống tra tấn.
Hành vi tra tấn có thể do nhân viên nhà nước hoặc bởi chính các thành viên trong
gia đình, dưới những hình thức như đánh đập, lạm dụng tình dục và khủng bố tinh
thần.

“Human Rights in Closed Environment” (tạm dịch: QCN trong mơi trường
khép kín) của tác giả Bronwyn Naylor, Julie Debeljak, Anita Mackay, năm 2014
[168]. Tài liệu nghiên cứu về những vi phạm QCN trong các mơi trường khép kín
như nhà tù, cảnh sát, trung tâm di trú tạm giam… qua đó nhấn mạnh tính dễ bị tổn
thương của người bị giam giữ trong những mơi trường này. Trên cơ sở đó, tác giả
nhấn mạnh vai trò của các cơ chế giám sát độc lập (Thanh tra, Ủy ban nhân
quyền…) trong việc đảm bảo QCN, đặc biệt là quyền không bị tra tấn, đối xử tàn
bạo, vô nhân đạo và hạ nhục trong những môi trường khép kín.

“Torture in International Law - A Guide to Jurisprudence” (tạm dịch: Tra tấn
trong Luật quốc tế - Hướng dẫn luật học) của Hiệp hội phòng, chống tra tấn (APT,
Thụy Sĩ) và Trung tâm Tư pháp và Luật Quốc tế (CEJIL, Mỹ), năm 2008 [164].

Cơng trình này nghiên cứu về vấn đề tra tấn và các hình thức đối xử ngược đãi khác
nhằm mục đích cung cấp cho các chuyên gia và cả những người không chuyên về
luật pháp quốc tế một cái nhìn tổng thể về vấn đề tra tấn, nghĩa vụ của các quốc gia,
và trách nhiệm cá nhân đối với hành vi tra tấn. Trong đó, bốn chương đầu đề cập
đến pháp luật quốc tế và khu vực áp dụng cho các quốc gia trong LHQ, châu Âu,
châu Mỹ và

13

châu Phi; chương thứ năm đề cập đến trách nhiệm hình sự của cá nhân đối với tội
phạm tra tấn, trong đó phân tích cụ thể việc áp dụng luật pháp của Tòa án quốc tế
đặc biệt đối với Nam Tư cũ và Rwanda, và quy chế của Tịa án hình sự quốc tế.

“The Study of Torture: Why It Persists, Why Perceptions of It are Malleable,
and Why It is Difficult to Eradicate” (tạm dịch Nghiên cứu về tra tấn: Tại sao nó
tồn tại, tại sao nhận thức về nó là dễ bị thao túng, và tại sao nó khó loại bỏ) của tác
giả Erin M. Kearns (Đại học Washington, Hoa Kỳ), Tạp chí Pháp luật, năm 2014
[173]. Trong bài viết, tác giả đã phân tích làm rõ sự cần thiết phải chống tra tấn, cả
trong cuộc chiến chống khủng bố, thông qua việc giải quyết ba câu hỏi quan trọng
đó là: “Tại sao tra tấn vẫn tồn tại?”, “Tại sao có những nhận thức khác nhau về tra
tấn và chống tra tấn?”, và “Tại sao một số nhà nước khơng thể thực hiện cam kết
xố bỏ tra tấn?”.

Ngồi các cơng trình tiêu biểu nêu trên, cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu
khác liên quan đến đề tài được xuất bản ở nước ngoài, bao gồm các bài báo khoa
học về PCTT được đăng tải trên nhiều tạp chí quốc tế có uy tín như: “Terrorism and
Torture” (Khủng bố và Tra tấn) của tác giả Fritz Allhoff, Tạp chí quốc tế về triết
học ứng dụng (International Journal of Applied Philosophy), Philosophy
Documentation Center, năm 2003 [161]; “Torture: When the Unthinkable is
Permissible” (Tra tấn: Khi điều không thể tưởng tượng được cho phép) của nhóm

tác giả Bagaric, Mirko, Clarke, Julie, Nxb Đại học New York, năm 2007 [165];
“Torture and Human Dignity: An Essay on Moral Injury” (Tra tấn và phẩm giá con
người: Bài luận về thương tích đạo đức) của tác giả Bernstein, J. M., Nxb Đại học
Chicago, năm 2015 [167]; “Torture, Terrorism and the State: A Refutation of the
Ticking Bomb Argument” (Tra tấn, khủng bố và nhà nước: Phản bác lập luận về
hành động đánh bom khủng bố), của tác giả
V. Bufacchi và Jean Maria Arrigo, Tạp chí quốc tế về triết học ứng dụng
(International Journal of Applied Philosophy), năm 2006 [169]; “The Moral
Justification of Torture and other Cruel, Inhuman, or Degrading Treatment” (Biện
minh về mặt đạo đức cho việc tra tấn và các đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
nhục khác) của tác giả Michael Davis, Tạp chí quốc tế về triết học ứng dụng
(International Journal of Applied Philosophy), năm 2005 [184]; “May Necessity be
Available as a Defence for Torture in the Interrogation of Suspected Terrorists?”
(Phương tiện biện


×