Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài tiểu luận quản lý công xã hội hoá dịch vụ công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.84 KB, 14 trang )

BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

----------

BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Lý luận chung về Quản lý cơng

Đề tài: “Những thuận lợi và khó khăn trong xã hội hố dịch vụ cơng tại
tỉnh Đắk Lắk, những giải pháp để tăng cường hoạt động này trong thời

gian tới”

Học viên : Phạm Đức Nguyên Hoàng
Giảng viên
Lớp : TS.GVC. Phùng Thị Phong Lan
: LH9.TN2 - Ngành Luật Hiến pháp và
Niên khóa Luật Hành chính
: 2022-2024

2
A. PHẦN MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh tồn cầu hóa, một trong những thách thức lớn đối với
Chính phủ ở nhiều nước là nền hành chính cơng phải giải quyết nhiều hơn
những vấn đề phức tạp của đời sống, kinh tế - xã hội. Để vượt qua những thách
thức này, địi hỏi hành chính cơng ở các nước phải thay đổi mạnh mẽ và tích cực
hơn.

Nhằm giảm gánh nặng tài chính của nhà nước thì xã hội hóa dịch vụ cơng
là một trong những nội dung quan trọng nhất trong mơ hình quản lý cơng mới ở


các nước phát triển. Xã hội hóa dịch vụ công đồng nghĩa với việc giảm thiểu
trách nhiệm của nhà nước trong cung cấp các dịch vụ, nhà nước đóng vai trị
điều tiết bảo đảm sự có mặt của dịch vụ cơng đó thay vì trực tiếp cung cấp các
dịch vụ cơng. Như vậy, vai trị của nhà nước lúc này dần trở thành người "lái
thuyền" thay vì người "chèo thuyền" như trước đây.

Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và cải cách hành chính nhà nước, mức sống và lối sống của người dân
ngày càng được nâng cao, phát sinh nhiều nhu cầu xã hội mới, nhất là sự khác
biệt về nhu cầu giữa các đối tượng, thành phần và khu vực khác nhau (thành thị,
nông thôn). Sự thay đổi như vậy ln tạo nên áp lực về cho chính quyền (tổ
chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, ngân sách…), vượt quá khả năng cung ứng và
quản lý của nhà nước. Do đó, xã hội hóa dịch vụ cơng là xu hướng tất yếu mà tất
cả các thành phố đều phải phát huy trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị.

Là một trong những tỉnh đi đầu về phát triển dịch vụ công tại khu vực Tây
Nguyên, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua đã đã đạt được một số thành quả từ
việc xã hội hóa dịch vụ cơng trên tất cả các lĩnh vực đời sống. Tuy nhiên bên
cạnh những thuận lợi, vẫn tồn tại những khó khăn và hạn chế địi hỏi các cơ
quan quản lý nhà nước phải có những biện pháp quản lý mới.

Với những kiến thức lý luận và thực tế thu nhận được xin phép được trình
bày những thuận lợi, khó khăn trong xã hội hố dịch vụ cơng tại tỉnh Đắk Lắk.
Qua đó đề xuất những giải pháp tăng cường hoạt động này trong thời gian tới.

3
B. PHẦN NỘI DUNG

I. Lý Luận chung:


1. Dịch vụ cơng là gì?

- Về lý thuyết chung, dịch vụ cơng là những dịch vụ có đặc tính là không
loại trừ và không cạnh tranh trong tiêu dùng. Không loại trừ có nghĩa là tất cả
mọi người đều sử dụng, tiêu dùng dịch vụ này, không loại trừ bất cứ ai, bất kể
họ có trả tiền cho dịch vụ đó hay khơng. Khơng cạnh tranh có nghĩa là việc sử
dụng, tiêu dùng của người này không ảnh hưởng đến việc sử dụng, tiêu dùng của
người khác. Như vậy, “Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các nhu cầu
cơ bản, thiết yếu của người dân vì lợi ích chung của xã hội, do nhà nước chịu
trách nhiệm trước xã hội (trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho
khu vực tư thực hiện) nhằm bảo đảm ổn định và công bằng xã hội”.

Theo nội hàm của khái niệm dịch vụ cơng hiện nay chúng ta đang sử
dụng, có thể phân biệt ba nhóm dịch vụ chủ yếu. Một là, nhóm dịch vụ hành
chính cơng, các dịch vụ ở nhóm này hầu hết thỏa mãn hai tiêu chí của dịch vụ
công là không cạnh tranh và không loại trừ trong tiêu dùng (ví dụ: cấp giấy
phép, đăng ký, đăng kiểm, cơng chứng...). Hai là, nhóm dịch vụ cơng cộng chủ
yếu là những dịch vụ đáp ứng tiêu chí khơng cạnh tranh trong tiêu dùng (ví dụ:
giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa,..). Ba là, nhóm dịch vụ cơng ích chủ yếu là
những dịch vụ thỏa mãn tiêu chí khơng loại trừ trong tiêu dùng (ví dụ: vệ sinh
mơi trường, cấp thốt nước, giao thơng cơng cộng...).

2. Vì sao phải xã hội hố dịch vụ cơng?

Xã hội hóa dịch vụ cơng là việc nhà nước chia sẻ với xã hội cung cấp các
dịch vụ vốn dĩ trước đây chỉ thuộc về nhà nước mà các dịch vụ đó khơng nhất
thiết phải do nhà nước mới thực hiện được (ví dụ: cơng chứng, giáo dục, y tế,
giao thơng...). Nói cách khác, đây là q trình mở rộng sự tham gia của các chủ
thể xã hội và tăng cường vai trò của nhà nước đối với dịch vụ công.


4
Cần phải xác định rõ mục tiêu mà công cuộc cải cách dịch vụ công hướng
tới là chất lượng dịch vụ chứ không phải là mức độ xã hội hóa. Xã hội hóa loại
hình dịch vụ này chỉ là phương thức để đạt được chất lượng dịch vụ công mong
muốn. Ở nhiều nước phát triển, xu thế chuyển giao dịch vụ công cho các tổ chức
khu vực tư ngày càng được áp dụng nhiều dưới những hình thức khác nhau. Nhà
nước chỉ chịu trách nhiệm cung cấp những lĩnh vực mà khu vực tư không hoặc
chưa tham gia. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, hoạt động cung ứng dịch vụ công
của khu vực nhà nước thường kém hiệu quả hơn so với khu vực tư nhân. Đối với
Việt Nam, hiện nay cung ứng dịch vụ cơng vẫn phụ thuộc phần lớn vào nhà
nước vì khu vực tư chưa đủ năng lực để cung cấp tốt các dịch vụ này. Do vậy,
cần phải xác định được lĩnh vực nào cần xã hội hóa và xã hội hóa ở cấp độ nào
sẽ đem lại hiệu quả tốt nhất cho người dân, chứ khơng vì tiêu chí xã hội hóa mà
thiếu quan tâm tới chất lượng dịch vụ.

Trong điều kiện hiện nay, xu thế xã hội hóa dịch vụ cơng đang là yêu cầu
tất yếu với mỗi quốc gia bởi các lý do sau:

Thứ nhất, xu thế chung của các quốc gia trên thế giới là thu hẹp bộ máy
của chính phủ, giảm bớt các bộ phận không cần thiết làm cho bộ máy của chính
phủ hoạt động năng động và hiệu quả hơn. Khi bộ máy thu hẹp lại thì một số
chức năng, cơng việc sẽ chuyển cho tư nhân đảm nhiệm, chính phủ chỉ tập trung
vào các nhiệm vụ quản lý vĩ mô.

Thứ hai, bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, mang nặng dấu ấn cơ chế
tập trung, quan liêu bao cấp, chức năng, nhiệm vụ chưa phù hợp, phân cấp chưa
rõ ràng, phương thức, thủ tục cung ứng dịch vụ cơng cịn rườm rà, đội ngũ cán
bộ, cơng chức cịn nhiều điểm yếu kém. Xuất hiện nhiều mâu thuẫn trong quản
lý: mâu thuẫn giữa khoản kinh phí bao cấp quá lớn với ngân sách nhà nước còn
hạn hẹp; mâu thuẫn giữa khối lượng cung ứng với năng lực của bộ máy nhà

nước; mâu thuẫn giữa nhu cầu tăng nhanh với khả năng cung ứng có hạn của
nhà nước; mâu thuẫn giữa ưu thế vốn có với chất lượng và hiệu quả dịch vụ
cơng.

5
Thứ ba, gắn liền với xu thế thu hẹp bộ máy chính phủ, khu vực tư nhân
ngày càng phát triển mạnh đòi hỏi nhà nước phải chia sẻ một số lĩnh vực trước
đây chỉ thuộc về nhà nước mà tư nhân có thể thực hiện được.

Thứ tư, dân số đông, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao, nhu cầu
xã hội ngày một lớn, chỉ nhà nước thực hiện cung ứng các dịch vụ cho xã hội thì
khơng thể đáp ứng được nhu cầu của người dân, vì vậy nhà nước để cho xã hội
tự cung ứng và điều tiết các nhu cầu nhằm giảm bớt gánh nặng cho nhà nước,
thực hiện “nhà nước và nhân dân cùng làm”.

- Xã hội hố dịch vụ cơng gồm những nội dung sau:

+ Một là, chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư. Đối
với các dịch vụ công mà Nhà nước không can thiệp hoặc can thiệp khơng có
hiệu quả thì Nhà nước có thể chuyển giao nhiệm vụ này cho khu vực tư, tức là
cho phép các tổ chức trong khu vực tư nhân tham gia vào việc cung ứng dịch vụ
công này.

+ Hai là, huy động sự đóng góp của các tổ chức và cơng dân. Việc huy
động sự đóng góp của các tổ chức và công dân được thực hiện thông qua 2
phương thức cơ bản là: Huy động kinh phí đóng góp của dân vào việc cung ứng
dịch vụ cơng của các tổ chức nhà nước; Động viên, tổ chức sự tham gia rộng
rãi, chủ động và tích cực của các tổ chức và cơng dân vào q trình cung ứng
dịch vụ cơng, đa dạng hố các hoạt động cung ứng dịch vụ công trên cơ sở phát
huy công sức và trí tuệ của dân. Chẳng hạn như huy động chất xám, năng lực

quản lý, công sức của dân vào các hoạt động cung cấp dịch vụ công.

II. Những thuận lợi và khó khăn trong xã hội hố dịch vụ cơng tại
một số lĩnh vực trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

1. Trong lĩnh vực y tế:

Cùng với hệ thống y tế công lập, thời gian qua, hệ thống y tế ngồi cơng
lập cũng được quan tâm phát triển thơng qua chủ trương xã hội hóa y tế. Với
những chính sách ưu đãi, khuyến khích trong đầu tư phát triển, Đắk Lắk đã thu

6
hút được nhiều nhà đầu tư chọn để xây dựng bệnh viện, cơ sở y tế, mở rộng
mạng lưới cơ sở y tế ngồi cơng lập. Qua đó góp phần chia sẻ với hệ thống y tế
cơng lập trong việc chăm sóc, nâng cao sức khỏe cho nhân dân, đưa dịch vụ kỹ
thuật cao, đa dạng phục vụ cho người dân. Tính đến thời điểm này, tồn tỉnh đã
hình thành 5 bệnh viện đa khoa tư nhân với quy mô 897 giường bệnh (trong đó
có 3 bệnh viện với quy mơ 597 giường bệnh đã đi vào hoạt động); 9 phòng
khám đa khoa tư nhân; 508 phòng khám chuyên khoa và cơ sở dịch vụ y tế.

Bên cạnh những hiệu quả rõ rệt nói trên thì q trình thực hiện xã hội hố
thời gian qua đã bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập. Trong lĩnh vực y, dược tư
nhân sự phát triển cả về số lượng lẫn loại hình hành nghề đã làm cho cơng tác
quản lý Nhà nước gặp khơng ít khó khăn. Hiện tượng dịch chuyển nguồn nhân
lực có chất lượng được đào tạo từ hệ thống y tế công sang y tế tư đang ngày
càng trở nên phổ biến. Cơ chế chính sách chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ,
cịn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm cho
q trình xã hội hóa cịn chậm so với u cầu. Hằng năm, quy mơ nguồn vốn xã
hội hóa y tế tuy có tăng, song so với nhiều địa phương khác, con số này ở tỉnh
Đắk Lắk còn khá khiêm tốn.


Phải khẳng định rằng, công tác quản lý Nhà nước trong xã hội hóa y tế
hiện còn nhiều bất cập. Trên thực tế, ngành Y tế đã có các văn bản hướng dẫn,
triển khai, thẩm định, giám sát mợt sớ cơ sở xã hội hóa theo lĩnh vực, song chủ
yếu vẫn chỉ tập trung về chuyên môn nghiệp vụ. Còn các lĩnh vực khác của cở
sở y tế ngoài công lập chưa được phối hợp kiểm tra, giám sát chặt chẽ.

Mặc dù có nhiều ưu đãi hơn, nhưng cho đến nay, xã hội hóa ở tuyến
huyện còn ít triển khai, có nơi triển khai thì thực hiện chưa hiệu quả. Bởi, có
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này, trong đó chủ yếu vẫn là mức thu
nhập của người dân, khả năng “đồng chi trả” cho y tế còn thấp nên xu hướng chỉ
đầu tư ở khu vực có nhu cầu khám chữa bệnh cao.

Từ thực tế này, để đẩy mạnh phát triển xã hội hóa y tế tại các huyện và
các bệnh viện tuyến huyện, trước hết cần tiếp tục ban hành các chính sách ưu

7
đãi, hỗ trợ đầu tư tốt hơn. Bên cạnh đó, cấp ủy, chính quyền các địa phương cần
thực hiện tốt việc quy hoạch đất đai, ưu tiên những khu đất cơng có vị trí thuận
lợi cho các dự án xã hội hóa y tế, tăng cường mời gọi doanh nghiệp và ban hành
các chính sách hỗ trợ đặc thù của địa phương để hỗ trợ doanh nghiệp. Có như
vậy, tương lai xã hội hóa ở tuyến huyện mới có thể thực hiện tốt hơn nữa vai trò
đồng hành trong chăm sóc sức khỏe người dân.

Tiếp tục phối hợp với các cấp, các ngành để huy động thêm nguồn lực
phát triển các đơn vị y tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cho công tác khám
chữa bệnh, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh thực
hiện hoạt động xã hội hóa y tế theo đúng các quy định của Nhà nước và thường
xuyên tổ chức kiểm tra, giám sát hoạt động này; hướng dẫn các đơn vị y tế thực
hiện có hiệu quả Thơng tư số 15/2007/TT-BYT ngày 12-12-2007 của Bộ Y tế về

thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm việc sử dụng tài sản để liên doanh,
liên kết hoặc góp vốn liên doanh để mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động
dịch vụ của các cơ sở y tế công lập; tăng số lượng các đơn vị thực hiện cơng tác
xã hội hóa y tế, hướng tới mục tiêu đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa ngay từ
tuyến y tế xã, phường, thị trấn.

Bên cạnh đó, ngành cũng chủ động đề xuất, tham mưu cho Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh ban hành quy định ưu đãi đầu tư cho các dự án đầu tư xây
dựng cơ bản, trang thiết bị y tế trong lĩnh vực khám chữa bệnh công lập và tư
nhân (ngoài các dự án đã được đầu tư cơng); ban hành một số cơ chế, chính sách
"thơng thống", tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để thu hút các nhà đầu tư tham
gia vào xã hội hóa cơng tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

2. Trong lĩnh vực giáo dục:

Phong trào xã hội hoá giáo dục tại tỉnh Đắk Lắk được các cấp uỷ, chính quyền,
ngành chức năng và nhân dân địa phương hết sức quan tâm. Hằng năm, bên cạnh công
tác tuyên truyền, vận động để các tầng lớp nhân dân chung tay đóng góp kinh phí,
ngày cơng lao động xây dựng trường lớp, thì việc kêu gọi đầu tư của chính quyền địa
phương đến các tổ chức từ thiện, các dự án lớn, nhỏ trong và ngoài tỉnh cũng đang tạo

8
hiệu quả cao cho cơng tác xã hội hóa giáo dục.

Ngoài việc kêu gọi xã hội hoá đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường lớp,
nhà vệ sinh, thời gian qua chính quyền các huyện trong tỉnh Đắk Lắk cũng chú
trọng kêu gọi xã hội ủng hộ để đầu tư hệ thống thư viện cho các trường vùng
sâu, vùng khó khăn.

Cùng với các chính sách đặc thù mà địa phương đầu tư cho ngành Giáo

dục, những đóng góp của xã hội ngày cũng càng nhiều và thiết thực hơn. Nhờ đó
đã góp phần giúp Đắk Lắk đến thời điểm hiện tại đã có hơn 400 trường đạt
chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 40%. Tỷ lệ học sinh vào lớp 1 ở tiểu học đạt trên 99%
và vào lớp 6 ở bậc trung học cơ sở đạt trên 98%. Đặc biệt, nhận thức của người
dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới … đối với giáo dục đã có nhiều thay đổi,
phụ huynh quan tâm hơn đến việc học hành của con em, tham gia đóng góp, xây
dựng trường lớp.

Tuy nhiên, theo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk, số lượng trường
học được xã hội hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói chung hiện vẫn cịn hạn chế
bởi nhiều nguyên nhân như: địa bàn rộng; nhiều trường, điểm trường giao thông
không thuận lợi. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cịn cao, nên rất khó khăn trong
việc đóng góp kinh phí cùng với ngành Giáo dục để đảm bảo các điều kiện cho
việc dạy và học tại các trường.

Ở các địa bàn đặc biệt khó khăn, đa số người dân là đồng bào dân tộc
thiểu số, đời sống kinh tế còn khó khăn nên cơng tác xã hội hóa giáo dục hết sức
hạn chế. Thực trạng đã góp phần làm gia tăng nguy cơ học sinh yếu kém, học
sinh bỏ học ở một số xã vùng sâu, vùng xa

Do đó, để ngăn chặn tình trạng học sinh bỏ học hoặc đi học không chuyên
cần, tỉnh Đắk Lắk đã có những chính sách riêng dành cho những trường học tại
những vùng đặc biệt khó khăn như: ưu tiên bổ sung cơ sở vật chất cho những
trường khơng thể xã hội hóa, ưu tiên phân bố ngân sách chi tiêu cho các nhà
trường để từ đó, các trường học chủ động nguồn kinh phí chăm lo cho sự nghiệp

9
giáo dục.

3. Trong lĩnh vực thể dục thể thao:


Thực hiện Quyết định số 727/QĐ-UBND ngày 26/3/2015 của UBND tỉnh
về ban hành “Kế hoạch triển khai xã hội hóa phát triển TDTT trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk giai đoạn 2015 – 2020”, thời gian qua, các tổ chức xã hội, các tầng lớp
nhân dân trong tỉnh đã tích cực hưởng ứng, đóng góp sức người, sức của để đầu
tư hạ tầng cơ sở phục vụ hoạt động TDTT, hình thành các câu lạc bộ cũng như
thường xuyên tham gia các giải thi đấu được tổ chức tại địa phương. Phong trào
xã hội hóa đã thực sự tạo được động lực thúc đẩy hoạt động TDTT ngày càng
phát triển mạnh mẽ, nhân dân phấn khởi thi đua rèn luyện thân thể, có thêm tinh
thần, sức khỏe trong lao động sản xuất, xây dựng quê hương.

Ở mỗi địa phương huyện, thị xã, thành phố; xã, phường, thị trấn đã thành
lập và duy trì hàng chục câu lạc bộ TDTT như: Võ thuật, Bóng bàn, Bóng đá,
Thể hình… thu hút đơng đảo các tầng lớp nhân dân hăng say luyện tập hàng
ngày.

Được sự ủng hộ, đồng thuận của nhân dân và các doanh nghiệp trong và
ngoài tỉnh, các tổ chức xã hội, các đơn vị trong tỉnh đã thường xuyên vận động
kinh phí để tổ chức các giải thi đấu, tạo phong trào, khí thế thi đua rèn luyện
TDTT hết sức sôi nổi ở khắp các địa phương.

4. Đối với hoạt động công chứng:

Qua nhiều năm thực hiện, số lượng tổ chức hành nghề công chứng và
công chứng viên ngày càng tăng. Năm 2010, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định
cho phép thành lập 02 Văn phịng cơng chứng đầu tiên (Văn phòng cơng chứng
Đại An và Văn phòng công chứng Đắk Lắk). Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã thành
lập 25 Văn phòng công chứng.

Cùng với các Phòng công chứng thuộc Sở Tư pháp, sự ra đời của các Văn

phịng cơng chứng đã đáp ứng được yêu cầu của cá nhân, tổ chức một cách kịp
thời. Các tổ chức hành nghề công chứng có sự đầu tư về cơ sở vật chất, trang

10
thiết bị làm việc; các công chứng viên cũng không ngừng bồi dưỡng nâng cao
chuyên môn nghiệp vụ. Hoạt động của văn phòng công chứng ngày càng chuyên
nghiệp, nhân viên có thái độ lịch sự, tôn trọng khách hàng; giải quyết các yêu
cầu tận tình, chu đáo, nhanh gọn và cơ bản đúng quy định pháp luật; giải thích
rõ ràng và hướng dẫn đầy đủ những vấn đề cần thiết, không gây phiền hà, sách
nhiễu đối với khách hàng. Từ năm 2010 đến nay, các tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn tỉnh đã thực hiện công chứng trên 521.000 việc với tổng số
phí công chứng gần 106,4 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước trên 24,7 tỷ đồng.

Với những kết quả mà việc xã hợi hóa hoạt đợng cơng chứng mang lại đã
góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu ngân
sách địa phương; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao chất
lượng phục vụ yêu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức, góp phần quan trọng
vào tiến trình cải cách tư pháp.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc xã hội hóa hoạt động
công chứng còn một số khó khăn, vướng mắc. Việc đào tạo, phát triển đội ngũ
công chứng viên trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; một số
văn phòng công chứng do thiếu công chứng viên hợp danh buộc phải chấm dứt
hoạt động.

Để cơng tác xã hội hóa hoạt động cơng chứng đạt kết quả cao, trong thời
gian tới cần tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật về hoạt động công
chứng; thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Công chứng năm 2014.
Đồng thời, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để phát hiện và chấn
chỉnh kịp thời những sai phạm và những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động này.


5. Trong lĩnh vực giao thông

Quy hoạch phát triển GTVT tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020, định hướng đến
năm 2030 xác định rõ: Nguồn vốn xây dựng cho giao thông rất lớn nên cần đa
dạng hóa các hình thức đầu tư, tranh thủ tối đa nguồn vốn đầu tư nước ngoài
dưới các hình thức như ODA, FDI, BOT..., đồng thời huy động nguồn nội lực từ

11
nhân dân, các doanh nghiệp và thành phần kinh tế khác trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk tham gia.

Hệ thống mạng lưới quốc lộ (giao thông đối ngoại) qua địa bàn tỉnh gồm
7 tuyến, chiều dài đang khai thác là 678 km, bao gồm: đường Hồ Chí Minh
(Quốc lộ 14), Quốc lộ 26, Quốc lộ 27, Quốc lộ 29, Quốc lộ 14C, Quốc lộ 19C và
đường Trường Sơn Đông. Trong những năm qua, tỉnh đã được đầu tư xây dựng
và mở rộng nhiều tuyến đường giao thông quan trọng. Trong đó, các dự án lớn
đã và đang mang lại những hiệu quả tích cực, từng bước hồn thiện hệ thống hạ
tầng trên các tuyến giao thông trọng điểm. Trước năm 2015, đường Hồ Chí
Minh qua địa bàn Đắk Lắk luôn là nỗi ám ảnh với người dân, tài xế khi lưu
thông qua đây. Tại những cuộc tiếp xúc cử tri được tổ chức ở các địa phương
trong tỉnh Đắk Lắk, hàng trăm ý kiến của cử tri đã bày tỏ mong muốn tuyến
đường được đầu tư, xây dựng để đáp ứng nhu cầu đi lại và hạn chế tai nạn giao
thông do đường hư hỏng, xuống cấp. Cuối năm 2013, các dự án trên tuyến chính
thức được khởi cơng và đến năm 2015 hồn thành đưa vào sử dụng. Đây được
xem là "dấu mốc” quan trọng trong xây dựng hạ tầng giao thông trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk.

Nhằm từng bước hồn thiện hạ tầng giao thơng trên tuyến đường huyết
mạch này, tỉnh Đắk Lắk tiếp tục đề nghị Chính phủ và bộ, ngành liên quan đầu

tư các tuyến tránh nhằm giảm áp lực cho tuyến chính. Năm 2016, Bộ GTVT phê
duyệt thêm 2 dự án đường Hồ Chí Minh qua địa bàn tỉnh Đắk Lắk gồm: tuyến
tránh phía Tây thị xã Buôn Hồ, với tổng mức đầu tư 575 tỷ đồng; đường Đinh
Tiên Hồng nối đường Lê Duẩn (TP. Bn Ma Thuột), với tổng mức 80 tỷ
đồng. Năm 2020, Dự án đường Hồ Chí Minh đoạn tuyến tránh phía đơng TP.
Buôn Ma Thuột được Bộ GTVT phê duyệt chủ trương đầu tư, tổng mức trên
1.500 tỷ đồng, hiện đang trong giai đoạn mời thầu để khởi công xây dựng. Bên
cạnh đó, Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 26 được quan tâm đầu tư, là tuyến
đường kết nối giữa Đắk Lắk với các tỉnh duyên hải miền Trung, tạo điều kiện
thuận lợi cho đi lại, giao thương hàng hóa. Ngoài ra, các tuyến Quốc lộ 29 nối

12
Đắk Lắk với thành phố Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên); Quốc lộ 27 nối với thành phố
Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng), tỉnh Ninh Thuận; Quốc lộ 14C chạy dọc biên giới Việt
Nam - Campuchia, nối tỉnh Đắk Lắk với các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk
Nông… cũng từng bước được nâng cấp, mở rộng.

Đắk Lắk có vị trí quan trọng trong khu vực Tây Nguyên, nhưng hạ tầng
giao thông của tỉnh chưa phát triển đồng bộ và đó là điểm nghẽn cho sự phát
triển và thu hút đầu tư của địa phương này. Các phương thức vận tải trên địa bàn
tỉnh chủ yếu tập trung vào đường bộ, chiếm 95% phương thức vận chuyển,
đường hàng không chỉ đảm bảo vận chuyển 5% còn lại.

Ông Phạm Văn Xây, Chánh văn phịng Sở Giao thơng - Vận tải (GTVT)
Đắk Lắk cho biết, được sự quan tâm của Trung ương, tỉnh đã triển khai xây
dựng các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm trên địa bàn để tăng cường kết nối
giữa các tỉnh khu vực Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung như tuyến Quốc lộ
26, Quốc lộ 14, đường liên tỉnh Gia Lai - Đắk Lắk... Hệ thống giao thông đối
nội được gắn kết chặt chẽ, liên hoàn với hệ thống giao thông đối ngoại. Tuy
nhiên, nhiều tuyến quốc lộ cịn lại do khó khăn về nguồn vốn nên chưa được đầu

tư, nâng cấp.

Đắk Lắk cịn nhiều khó khăn, phải cân đối thu chi từ nguồn ngân sách
Trung ương hỗ trợ, nên việc đầu tư, cải tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông
chỉ mới đáp ứng được 30% nhu cầu.

UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết, tỉnh sẽ tiếp tục chú trọng các giải pháp phát
triển giao thơng, trong đó tập trung huy động các nguồn vốn để đầu tư hệ thống
kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng kết nối với các khu du lịch, các khu, cụm công
nghiệp, khu nông nghiệp ứng dụng cơng nghệ cao và các vùng có tiềm năng
phát triển kinh tế. Ưu tiên đầu tư các cơng trình, dự án có sức lan tỏa, tạo sự đột
phá…

Vừa qua, 2 tỉnh Đắk Lắk và Khánh Hịa đã ký cơng văn đề nghị Bộ Giao
thông - Vận tải xem xét bổ sung tuyến cao tốc Buôn Ma Thuột - Nha Trang vào

13
quy hoạch triển mạng lưới đường cao tốc Việt Nam.

. Bên cạnh đường cao tốc, Đắk Lắk cũng muốn mở rộng công suất và mở
đường bay quốc tế đến sân bay Buôn Ma Thuột. Theo thống kê, giai đoạn 2015 -
2020, tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Đắk Lắk ước đạt hơn 2,9 tỷ USD.
Song, hàng xuất khẩu của tỉnh hiện vẫn được vận chuyển bằng xe container rồi
quá cảnh tại một số hệ thống cảng cạn ở các tỉnh lân cận.

Hiện sân bay Buôn Ma Thuột chưa nằm trong quy hoạch của Bộ GTVT
về cảng hàng không quốc tế, nhưng việc mở đường bay quốc tế tại sân bay nội
địa khơng cịn q khó khăn, khi hạ tầng tại sân bay đủ điều kiện để đáp ứng các
chuyến bay quốc tế.


Sở GTVT tỉnh Đắk Lắk cho biết, Bộ GTVT đã thống nhất về sự cần thiết
của việc nâng cấp sân bay Buôn Ma Thuột và giao Cục Hàng không Việt Nam
nghiên cứu, đề xuất phương án đầu tư hợp lý.

III. Kết luận

Có thể thấy rằng xã hội hố dịch vụ cơng tại tỉnh Đắk Lắk đã và đang
được thực hiện ở hầu hết mọi lĩnh vực. Đứng trước những khó khăn, hạn chế của
một tỉnh miền núi, nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, cơ sở hạ tầng còn kém phát
triển, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư. Đội ngũ nhà quản lý và người dân
Đắk Lắk vẫn nỗ lực hết mình để mang đến một nền dịch vụ cơng tiên tiến, qua
đó đem lại thuận lợi trong việc thụ hưởng các dịch vụ cho người dân. Góp phần
đưa nền kinh tế đất nước nói chung và tỉnh Đắk Lắk nói riêng ngày càng phát
triển.

14


×