Lời cảm ơn
Để hoàn thành tốt đề tài luận văn tốt nghiệp này, trong suốt thời gian thực
tập qua tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ hết sức quý báu của quý thầy cô
giáo trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội cùng sự giúp đỡ của ban lãnh đạo
công ty TNHH phát triển công nghệ Vạn Hoa.
Đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo trong trường, đặc
biệt là các thầy cô trong khoa Kế Toán & Quản Trị Kinh Doanh trường Đại học
Nông Nghiệp Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
trong đó tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới Th.S Nguyễn Duy Linh, người đã
tận tình truyền đạt và hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập để hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân
viên công ty TNHH phát triển công nghệ Vạn Hoa đã tạo điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập tại công ty.
Cuối cùng tôi xin gửi đến những người thân yêu trong gia đình và bạn bè
đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như trong
thời gian thực hiện đề tài này lời cảm ơn chân thành nhất.
Xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2010
Sinh Viên
Trần Thị Hằng
i
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng Tên bảng Trang
3.1:
Biến động nguồn vốn của công ty (2007-2009)
32
3.2:
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
33
3.3:
Biến động các khoản nợ phải thu của công ty (2007 - 2009)
35
3.4: Kết cấu nợ phải thu khách hàng theo đối tượng của công ty
qua 3 năm (2007 - 2009) 36
3.5: Kết cấu nợ phải thu khách hàng theo hình thức thanh toán của công
ty qua 3 năm (2007 - 2009) 37
3.6: Kết cấu nợ phải thu khách hàng theo thời gian của công ty qua
3 năm (2007 - 2009) 38
3.7:
Biến động các khoản phải trả của công ty (2007 - 2009)
39
3.8: Kết cấu nợ phải trả nhà cung cấp theo thời gian của công ty
qua 3 năm (2007 - 2009) 41
3.9:
Bảng phân tích công nợ phải thu của công ty (2007-2009)
47
3.10:
Bảng phân tích công nợ phải trả của công ty (2007-2009)
48
3.11:
Bảng phân tích khả năng thanh toán của công ty (2007-2009)
49
3.12:
Tỷ lệ chiết khấu cho khách hàng
54
ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Kí hiệu Chữ viết tắt
1 BHYT Bảo hiểm y tế
2 BHXH Bảo hiểm xã hội
3 ĐVT Đơn vị tính
4 SL Số lượng
5 Tr.đ Triệu đồng
6 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
7 TM Thương mại
8 GTGT Giá trị gia tăng
9 TSCĐ Tài sản cố định
10 TSLĐ Tài sản lưu động
11 VCĐ Vốn cố định
12 VLĐ Vốn lưu động
13 TNDN Thu nhập doanh nghiệp
14 HĐKD Hoạt động kinh doanh
15 HĐTC Hoạt động tài chính
16 NHT Nguồn hình thành
17 THPT Trung học phổ thông
iii
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh không một doanh nghiệp nào có
thể tồn tại được khi nó hoạt động riêng rẽ một mình, mà doanh nghiệp đó phải
có các mối quan hệ với các đơn vị, tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế, có như
vậy nó mới có thể tồn tại và phát triển được. Các mối quan hệ đó có thể là quan
hệ với nhà cung cấp, với khách hàng, với nhà nước, với người lao động trong
công ty…Với mỗi mối quan hệ mới được hình thành thì phát sinh một quan hệ
thanh toán mới có thể là thanh toán trước, thanh toán ngay hoặc thanh toán sau.
Nếu là thanh toán ngay thì không phát sinh quan hệ nợ nần giữa các đơn vị với
nhau, còn nếu là thanh toán trước hoặc sau khi giao (nhận) hàng hóa dịch vụ thì
quan hệ nợ nần giữa các đơn vị được hình thành, lúc này sẽ có một đơn vị đi
chiếm dụng vốn còn đơn vị kia thì bị chiếm dụng vốn. Một doanh nghiệp nếu để
xảy ra tình trạng bị doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn quá nhiều so với phần
vốn mà mình đi chiếm dụng của các đơn vị khác thì không tốt, ngược lại nếu
doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn của đơn vị khác quá nhiều thì dễ rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán, mất uy tín với đối tác. Do vậy nếu tổ chức tốt
công tác thanh toán và quản lý công nợ sẽ hạn chế và tránh được những tác động
xấu không đáng có trong đơn vị, làm tăng uy tín cho doanh nghiệp, giúp cho
việc huy động vốn được thuận lợi, hoạt động sử dụng vốn được linh hoạt và hiệu
quả, tình hình tài chính ổn định để doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Công ty TNHH phát triển công nghệ Vạn Hoa cũng là một tế bào của nền
kinh tế nên cũng có những mối quan hệ tài chính với các tổ chức tín dụng, nhà
cung cấp, khách hàng…Từ khi thành lập đến nay công ty đã có sự phát triển
1
mạnh mẽ, một trong những yếu tố tạo nên kết quả đó chính là khả năng và trình
độ quản lý các vấn đề trong công ty của các nhà quản trị mà trong đó phải kể
đến việc tổ chức công tác thanh toán và quản lý công nợ của công ty. Vậy các
nhà quản trị trong công ty đã tổ chức nó như thế nào? Nhận thức được tình hình
thực tiễn của việc nghiên cứu về tình hình thanh toán và quản lý công nợ của
công ty nên trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty TNHH phát triển công
nghệ Vạn Hoa chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Tình hình thanh toán và
quản lý công nợ tại công ty TNHH phát triển công nghệ Vạn Hoa".
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Tìm hiểu về tình hình thanh toán và quản lý công nợ từ đó đưa ra một số ý
kiến nhằm hoàn thiện công tác thanh toán và quản lý công nợ của công ty.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về tình hình thanh toán và quản
lý công nợ của công ty.
- Phản ánh thực trạng tình hình thanh toán và quản lý công nợ của công ty.
- Đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác thanh toán và quản lý
công nợ tại công ty.
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu công tác thanh toán và quản lý công nợ tại công ty TNHH
phát triển công nghệ Vạn Hoa.
2
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Tìm hiểu công tác thanh toán và quản lý công nợ
tại công ty TNHH phát triển công nghệ Vạn Hoa.
- Phạm vi về không gian: Tại công ty TNHH phát triển công nghệ Vạn Hoa.
- Phạm vi về thời gian: Thu thập số liệu từ năm 2007 – 2009.
1.4 Kết quả nghiên cứu dự kiến
- Đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác thanh toán và quản lý
công nợ tại công ty TNHH phát triển công nghệ Vạn Hoa.
3
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan tài liệu nghiên cứu
2.1.1. Các vấn đề chung về công nợ
2.1.1.1. Khái niệm công nợ
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, hầu hết các
doanh nghiệp đều không đủ khả năng tự trang trải nguồn vốn vì vậy việc chiếm
dụng vốn của các doanh nghiệp khác và bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng
vốn là điều tất yếu. Ngay cả từ khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh, số
vốn mà doanh nghiệp nắm giữ không phải hoàn toàn là vốn tự có mà bao gồm cả
nguồn vốn được huy động từ bên ngoài. Như vậy không phải chỉ ở trong quá
trình sản xuất kinh doanh công nợ mới được hình thành mà ngay từ khi mở đầu
doanh nghiệp công nợ đã được hình thành. Công nợ là quan hệ tồn tại xuyên suốt
trong quá trình sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào, nó phản ánh
nghĩa vụ thanh toán của khách nợ với người thụ hưởng.
2.1.1.2. Phân loại công nợ
Có rất nhiều cách nhìn nhận và phân chia công nợ như: Phân loại theo
thời gian (công nợ ngắn hạn và công nợ dài hạn), phân loại theo mối quan hệ tài
chính giữa doanh nghiệp với các cá nhân tổ chức khác…Nhưng công nợ trong
doanh nghiệp thường phân loại theo phần lợi ích và trách nhiệm liên quan đến
doanh nghiệp bao gồm công nợ phải thu và công nợ phải trả vì vậy nội dung và
đặc điểm của công nợ trong doanh nghiệp bao gồm nội dung và đặc điểm của nợ
phải thu và nợ phải trả.
4
1- Nợ phải thu
* Nội dung của nợ phải thu
Công nợ phải thu là một bộ phận tài sản của doanh nghiệp đang bị các
đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân khác chiếm dụng một cách hợp lý hay bất hợp
lý trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải thu
hồi các khoản nợ đó. Các khoản nợ đó bao gồm:
- Các khoản phải thu của khách hàng: Là khoản phải thu do doanh nghiệp
bán chịu hàng hoá, thành phẩm hoặc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Các
khoản phải thu của khách hàng thường chiếm phần lớn trong tổng số công nợ
phải thu vì doanh nghiệp thực hiện chính sách bán chịu hàng hóa nhằm thu hút
khách hàng, đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hoá.
- Các khoản phải thu của nhà cung cấp: Là khoản phải thu do doanh
nghiệp ứng trước tiền cho nhà cung cấp để mua hàng hoá dịch vụ.
- Các khoản phải thu nội bộ: Là các khoản phải thu ở các đơn vị trực
thuộc nhưng hạch toán riêng hoặc các đơn vị trực thuộc với nhau trong quan hệ
vay mượn, thu hộ, chi trả hộ
- Tạm ứng: Là số tiền doanh nghiệp ứng trước cho người nhận để thực
hiện những công việc đã được xây dựng. Tạm ứng bao gồm:
+ Tạm ứng nội bộ là khoản tiền hoặc vật tư do doanh nghiệp giao cho cán
bộ công nhân viên để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hoặc giải quyết
công việc nào đó đã được phê duyệt.
+ Tạm ứng kho bạc là khoản kinh phí tạm ứng kho bạc trong thời gian dự
toán chi ngân sách chưa được cấp có thẩm quyền giao dự toán chi ngân sách.
- Khoản cầm cố, ký cược, ký quỹ :
+ Cầm cố là việc doanh nghiệp mang tài sản của mình giao cho người
nhận cầm cố cầm giữ để vay vốn hoặc để nhận bảo lãnh.
+ Ký cược (đặt cược) là việc doanh nghiệp đi thuê tài sản giao cho bên
cho thuê một khoản tiền hoặc các vật có giá trị cao khác nhằm mục đích ràng
5
buộc và nâng cao trách nhiệm của người đi thuê tài sản phải quản lý, sử dụng tốt
tài sản đi thuê và hoàn trả tài sản đúng thời gian quy định.
+ Ký quỹ là số tiền hoặc tài sản gửi trước để làm tin trong các quan hệ
mua bán, nhận làm đại lý bán hàng hoặc tham gia đấu thầu nhằm đảm bảo sự tin
cậy giữa đôi bên và ràng buộc trách nhiệm của các bên có liên quan trong việc
thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết, trong trường hợp bên ký quỹ không tuân
theo đúng hợp đồng đã ký kết sẽ bị phạt trừ vào số tiền đã ký.
Các khoản phải thu khác: Như giá trị tài sản thiếu đã phát hiện được
nhưng chưa rõ nguyên nhân chờ xử lý, các khoản phải thu về bồi thường vật
chất do các đơn vị các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp gây ra đã được xử
lý bắt bồi thường nhưng chưa bồi thường, tiền vốn có tính chất tạm thời không
tính lãi, các khoản cho vay phải cho mượn vật tư
* Đặc điểm của nợ phải thu
Trong quá trình sản xuất kinh doanh việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa
các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra vì vậy nợ phải thu có các đặc điểm sau:
- Nợ phải thu là vốn của doanh nghiệp nhưng bị các đơn vị, tổ chức, cá
nhân khác chiếm dụng. Vì vậy trách nhiệm của doanh nghiệp là phải thu hồi đủ
số vốn bị chiếm dụng đó.
- Các khoản phải thu gồm nhiều khoản phức tạp như phải thu của khách
hàng, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, phải thu nội bộ, tạm ứng, thế chấp, phải
thu khác
- Các khoản phải thu do doanh nghiệp có chính sách bán chịu để thu hút
khách hàng. Và mỗi đối tượng doanh nghiệp có chính sách riêng, phù hợp và ở
trong hạn mức tín dụng cho phép cả về lượng và thời gian sao cho các khoản
phải thu phải được thanh toán đủ, đúng thời hạn, tránh gây thiệt hại cho công ty.
6
2 - Nợ phải trả
* Nội dung của nợ phải trả
Công nợ phải trả là những khoản tiền mà doanh nghiệp đi chiếm dụng
của các đơn vị, tổ chức, cá nhân khác và sử dụng trong một thời hạn nhất
định vì vậy doanh nghiệp phải có trách nhiệm phải trả. Công nợ phải trả bao
gồm các khoản sau:
- Vay ngắn hạn: Là khoản vay mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả
trong vòng một chu kỳ sản xuất kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một
năm tài chính kể từ khi nhận được tiền vay. Vay ngắn hạn được sử dụng cho một
mục đích tài trợ cho vốn lưu động trong kinh doanh. Các khoản vay ngắn hạn
thường được trả bằng tài sản lưu động và các khoản nợ mới phát sinh. Các
khoản vay ngắn hạn cần được hạch toán chi tiết theo từng hợp đồng vay, từng
người cho vay, số tiền, vật tư vay, lãi suất và thời hạn thanh toán.
Các khoản vay ngoại tệ phải theo dõi theo nguyên tệ và quy đổi ra đồng
Việt Nam theo tỷ giá liên ngân hàng bình quân hoặc tỷ giá hạch toán để ghi sổ
kế toán và cuối kỳ cũng điều chỉnh để đảm bảo giá trị của ngoại tệ vay.
- Vay dài hạn: Là khoản vay có thời hạn thanh toán sau một chu kỳ kinh
doanh hoặc trên 1 năm trở lên. Các khoản vay dài hạn thường được thanh toán
bằng kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vay dài hạn thường được
sử dụng cho mục đích mua sắm TSCĐ, xây dựng cơ bản, cải tiến kỹ thuật, kinh
doanh bất động sản, đầu tư chứng khoán dài hạn, góp vốn liên doanh dài hạn
hoặc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Do nó có thời hạn trả thường trên
một năm nên sẽ chứa đựng nhiều rủi ro hơn vay ngắn hạn, kéo theo lãi suất của
vay dài hạn sẽ cao hơn lãi suất của vay ngắn hạn (Nguyễn Thị Thu Hằng, 2007)
- Nợ dài hạn đến hạn trả: Là khoản nợ dài hạn đến thời điểm thanh toán
mà doanh nghiệp có kế hoạch chi trả.
7
- Phải trả cho người bán: Là toàn bộ giá trị hàng hoá, dịch vụ mà
doanh nghiệp đã nhận được nhưng chưa thanh toán tiền hàng và có trách
nhiệm thanh toán với người bán trong thời gian mua chịu.
- Các khoản phải trả công nhân viên: Là các khoản mà doanh nghiệp
phải trả cho công nhân viên như tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, tiền bảo
hiểm xã hội và các khoản thu nhập khác của người lao động.
- Các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước: Là các khoản thuế mà
doanh nghiệp có trách nhiệm nộp cho Nhà nước như thuế giá trị gia tăng,
thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế môn bài,
thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản phí, lệ phí phải nộp khác. Tùy vào
lĩnh vực hoạt động và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà mỗi
doanh nghiệp phải nộp một hoặc một số loại thuế.
- Phải trả đơn vị nội bộ: Là khoản phải trả giữa đơn vị cấp trên là đơn vị hạch
toán độc lập với đơn vị cấp dưới là đơn vị trực thuộc hoặc giữa các đơn vị với nhau.
- Các khoản nợ phải trả, phải nộp khác: Là những khoản phát sinh không
mang tính chất trao đổi, mua bán như vi phạm hợp đồng phạt do giao hàng
chậm, sai quy cách, do ô nhiễm môi trường…
- Chi phí phải trả: Là chi phí thực tế chưa phát sinh, nhưng do tính chất
và yêu cầu quản lý nên được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ nhằm
đảm bảo cho giá thành hoặc chi phí sản xuất không bị biến động cao.
- Tài sản thừa chờ xử lý: Là giá trị tài sản thừa phát hiện được trong quá
trình nhập hoặc đánh giá lại tài sản thấy chênh lệch thì cần giải quyết trong kỳ.
- Nhận ký quỹ dài hạn: Là khoản phải trả sau khi các đơn vị, tổ chức, cá nhân
vay vốn của đơn vị mình và giao tài sản của họ làm vật thế chấp trừ khi đi vay.
* Đặc điểm của nợ phải trả
Nợ phải trả là khoản tiền mà doanh nghiệp mình đi chiếm dụng của các
đơn vị, tổ chức, cá nhân khác phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Nợ phải
trả có đặc điểm cụ thể sau:
8
- Khi doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp
khác sử dụng cho nhu cầu của mình nên nó hạn chế bởi thời gian sử dụng.
- Trong thời hạn sử dụng những loại vốn này doanh nghiệp phải trả một
khoản chi phí cho việc sử dụng nó và tương đương với khoản lãi khi đi vay vốn
ở ngân hàng.
- Các khoản nợ phải trả phát sinh trong quá trình mua hàng hoặc vay
mượn của các tổ chức tín dụng vì vậy có rất nhiều đối tượng khác nhau.
- Để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh nên các doanh nghiệp cần rất
nhiều vốn nên để có vốn doanh nghiệp thường vay, nợ mà để vay được lượng
vốn lớn thì vay ngân hàng, kho bạc là dễ nhất vì vậy các khoản nợ phải trả ở các
doanh nghiệp chủ yếu là nợ vay ở các ngân hàng và các kho bạc. Các khoản nợ
này cũng phải thanh toán theo thời hạn quy định để đảm bảo uy tín cho việc đi
vay lần sau và tạo niềm tin cho đơn vị mình. Mặt khác doanh nghiệp cần phải
thường xuyên đối chiếu công nợ để số nợ phải trả không được vượt quá số vốn
tự có, làm mất khả năng thanh toán dẫn đến tình trạng công ty bị phá sản.
2.1.1.3. Quản lý công nợ trong doanh nghiệp
1 - Nội dung quản lý nợ phải thu
Với nhiều khoản thu khác nhau thì tương ứng có các đối tượng, thời gian,
tính chất thu khác nhau vì vậy để có căn cứ kế hoạch thu hồi nợ, quản lý nợ phải
thu bao gồm:
- Quản lý theo đối tượng: Là quản lý theo từng khách hàng thông qua mối
quan hệ mua bán, với các loại khách hàng khác nhau cần có những chính sách
áp dụng khác nhau, đối với đối tượng nợ thanh toán dứt khoát đúng hạn thì có áp
dụng thu hồi nợ có ưu đãi thanh toán như chiết khấu giảm giá hàng bán… Đối
tượng nợ dây dưa, quá hạn cần có biện pháp vừa cứng rắn vừa mềm dẻo để thu
nợ có hiệu quả nhất. Vì vậy quản lý nợ phải thu theo từng đối tượng nợ để doanh
9
nghiệp có sự theo dõi đánh giá tổng quát tình trạng tài chính của đơn vị, để
doanh nghiệp có chính sách áp dụng cụ thể linh hoạt cho từng đối tượng nợ.
- Quản lý theo hình thức nợ: Đây là hình thức theo dõi khoản nợ phải thu
theo các hình thức khác nhau như thu bằng tiền, thu bằng hàng… nhằm giúp các
doanh nghiệp có kế hoạch thu tiền hoặc hàng đúng kỳ hạn.
- Quản lý theo thời gian: Đây là hình thức theo dõi các khoản nợ phải thu
theo nợ ngắn hạn hoặc dài hạn nhằm giúp các doanh nghiệp định ra các khoản
phải thu hợp lý nhất đảm bảo thu nợ đúng kế hoạch, đủ cả về số lượng và chất
lượng của từng khoản nợ, tránh con nợ dây dưa kéo dài, đáp ứng kịp thời việc sử
dụng vốn cho sản xuất kinh doanh. Đây cũng là căn cứ giúp các doanh nghiệp có
biện pháp xử lý nợ quá hạn như tăng lãi suất, tái đầu tư…
Tóm lại, mỗi hình thức quản lý nợ phải thu đều nhằm mục đích giúp cho
doanh nghiệp nắm được tình hình nợ phải thu của mình để từ đó có các biện
pháp thu được nợ một cách hiệu quả nhất. Nếu quản lý tốt giúp doanh nghiệp
thu hồi đầy đủ, đúng hạn các khoản phải thu, tránh tình trạng ứ đọng vốn, mất
mát vốn do nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ không thu hồi được. Ngoài ra quản lý nợ
phải thu còn giúp nhà quản lý doanh nghiệp có thể điều chỉnh đưa ra một chính
sách tín dụng thương mại có hiệu quả nhất nhằm tác động tới doanh số bán để
tạo ra kết quả sản xuất kinh doanh tốt nhất. Tuy nhiên mỗi hình thức quản lý nợ
đều có những ưu điểm riêng vì vậy để thu được các khoản nợ một cách có hiệu
quả nhất cần phải kết hợp các hình thức quản lý nợ khác nhau.
2 - Nội dung quản lý nợ phải trả
Các khoản nợ phải trả là khoản vốn doanh nghiệp phải thanh toán với
khách hàng theo từng hoạt động cung cấp, các khoản nộp Ngân sách Nhà nước
hoặc thanh toán tiền lương cho người lao động. Đối với nợ phải trả nếu quản lý
tốt sẽ giúp doanh nghiệp có kế hoạch trả nợ đúng hạn, đầy đủ, tránh doanh
nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn tới phá sản. Từ đó tạo ra
10
cho doanh nghiệp tình trạng tài chính lành mạnh, có uy tín với các chủ nợ và có
điều kiện huy động vốn nhanh chóng trong các trường hợp cần thiết.
Việc quản lý các khoản nợ phải trả không những đòi hỏi doanh nghiệp
phải thường xuyên duy trì một lượng vốn tiền mặt đủ để đáp ứng yêu cầu thanh
toán mà còn cần phải lựa chọn hình thức thanh toán thích hợp, thanh toán các
khoản phải trả một cách chính xác, an toàn, hiệu quả tiết kiệm thời gian và chi
phí, trả nợ trong khả năng cho phép sao cho đảm bảo uy tín đối với chủ nợ, tư
cách tín dụng không bị mất đi mà vẫn chiếm dụng vốn cho sản xuất kinh doanh.
Quản lý các khoản phải trả cần phải chủ động chú trọng các biện pháp
như kiểm tra đối chiếu các khoản thanh toán với khả năng thanh toán của đơn vị,
chủ động đáp ứng yêu cầu thanh toán nợ đến hạn. Đối với các khoản nợ đến hạn
trả doanh nghiệp phải có kế hoạch để trả nợ đúng thời hạn quy định, doanh nghiệp
cần tránh nợ quá hạn vì nó làm giảm uy tín của doanh nghiệp, là nguy cơ dẫn đến
tình trạng mất khả năng thanh toán, do vậy khi doanh nghiệp đã có khoản nợ quá
hạn thì yêu cầu lập kế hoạch trả nợ dần hoặc có điều kiện đối với bên chủ nợ
trong thời gian bị quá hạn đó.
2.1.1.4. Ý nghĩa của quản lý công nợ
Công nợ luôn luôn gắn liền quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và có tác động mạnh mẽ đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu
quản lý công nợ tốt, đúng đắn hợp lý thì doanh nghiệp sẽ luôn chủ động về mặt
tài chính, giúp cho doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách dễ dàng. Cụ thể:
Với việc quản lý công nợ phải thu: Nếu quản lý tốt sẽ thu hồi được nợ
phải thu đủ, kịp thời tránh những tổn thất thiệt hại cho doanh nghiệp. Mặt khác
nếu quản lý nợ phải thu tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp có những chính sách tín
dụng thu hút được khách hàng, đẩy nhanh quá trình sản xuất lưu thông hàng
hóa.
11
Với việc quản lý công nợ phải trả: Nếu quản lý tốt các nhà quản trị tài chính
kế toán trong nội bộ doanh nghiệp có kế hoạch trả nợ đầy đủ, đúng thời hạn nâng
cao uy tín của doanh với các nhà đầu tư, với nhà cung cấp…, tránh đưa doanh
nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến nguy cơ bị phá sản.
2.1.2. Các vấn đề chung về thanh toán
2.1.2.1. Khái niệm thanh toán
Thanh toán đơn giản là thuật ngữ ngắn gọn mô tả việc chuyển giao các
phương tiện tài chính từ một bên sang một bên khác. Trong đó có quan hệ thanh
toán bằng cách chấp nhận, từ chối, thưởng phạt về vật chất thông qua mua bán
có liên quan đến việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ mới được coi là quan hệ
tài chính, còn các quan hệ về mua bán trao đổi thông thường không không thuộc
về quản lý tài chính. Mỗi một doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh trên
thị trường đều phải đặt mình trong mối quan hệ tài chính với nhiều tổ chức và
đơn vị khác. Mỗi mối quan hệ mới ra đời gắn liền với nó một quá trình thanh
toán mới phát sinh, quan hệ này có thể phát sinh ở trong hoặc ngoài đơn vị. Vì
vậy quan hệ thanh toán được hiểu là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà khi phát sinh các quan hệ này thì
đồng thời phát sinh các dòng tiền đi ra và đi vào doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp giải
quyết tốt các mối quan hệ thanh toán sẽ là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Thông qua các nội dung và hình thức thanh toán người ta
có thể đánh giá mức độ hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trên thị trường,
đồng thời giúp doanh nghiệp đưa ra các phương thức thanh toán phù hợp.
2.1.2.2. Vai trò và nhiệm vụ của hoạt động thanh toán trong quản lý tài chính
trong doanh nghiệp
- Vai trò của hoạt động thanh toán
Kế toán hoạt động thanh toán trong doanh nghiệp xuyên suốt quá trình
hoạt động của từng đơn vị từ khâu mua các yếu tố đầu vào, trong quá trình
12
sản xuất đến khâu tiêu thụ, nếu tổ chức tốt hoạt động thanh toán sẽ giúp cho
hoạt động kinh doanh một mặt được tiến hành một cách trôi chảy, đem lại
hiệu quả kinh tế cao mặt khác doanh nghiệp còn có thể tự chủ về mặt tài
chính và tạo được niềm tin giữa doanh nghiệp với các đối tác, các tổ chức tài
chính tín dụng có liên quan vì vậy vai trò của hoạt động thanh toán hết sức
quan trọng. Cụ thể là để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được thì
phải có yếu tố đầu vào, lúc này quan hệ thanh toán với nhà cung cấp sẽ nảy
sinh trong việc mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hóa, tài sản cố
định, trả trước cho nhà cung ứng…Còn trong quá trình sản xuất sẽ nảy sinh
quan hệ thanh toán với người lao động về việc thanh toán các khoản tiền
lương, phụ cấp lương, tiền thưởng, tạm ứng…Và khi sản phẩm hoàn thành
cung ứng ra thị trường thì có quan hệ thanh toán với nhà nước, với người mua
được phát sinh.
- Nhiệm vụ của hoạt động thanh toán
Các khoản nợ phải thu cần phải được thu hồi nhanh, chính xác, đảm
bảo điều hòa tiền tệ. Các khoản nợ phải trả thì phải được trả một cách chính
xác, đúng hạn, tránh nợ tồn đọng kéo dài dẫn đến lãi suất cao và mất khả
năng thanh toán.
Các hình thức thanh toán cần phải được áp dụng một cách linh hoạt,
phù hợp với mỗi mối quan hệ thanh toán, đảm bảo thanh toán nhanh gọn, tiện
lợi, an toàn nhưng phải tuân theo đúng quy định của Nhà nước.
2.1.2.3. Các hình thức thanh toán và các quan hệ thanh toán trong doanh nghiệp
A. Các hình thức thanh toán
Thứ nhất là hình thức thanh toán bằng tiền mặt:
Thanh toán bằng tiền mặt là hình thức thanh toán thông qua việc nhập
hoặc xuất quỹ tiền mặt của doanh nghiệp không thông qua nghiệp vụ thanh toán của
ngân hàng, hình thức thanh toán này được áp dụng phổ biến trong quan hệ thanh
13
toán giữa doanh nghiệp với tư nhân không có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng,
giữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp khi trả lương, thưởng,
phạt… hoặc giữa doanh nghiệp với các đơn vị kinh tế khác, các cơ quan nhà
nước trong trường hợp thanh toán có tiền nhỏ dưới mức quy định chuyển khoản.
Tiền mặt trong thanh toán là đồng Việt Nam. Tuy nhiên, một số doanh
nghiệp nước ngoài tại Việt Nam có thể sử dụng tiền mặt là đồng đô la Mỹ trong
thanh toán, nhưng chỉ với số lượng rất nhỏ hoặc trong những trường hợp đặc
biệt và phải theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Hình thức thanh toán bằng tiền mặt là hình thức thanh toán đơn giản, không
phải làm các thủ tục qua ngân hàng. Tuy nhiên, với hình thức thanh toán này nhà
nước không thể trực tiếp quản lý, kiểm soát lưu chuyển tiền tệ của các doanh
nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân, gây lãng phí và chi phí tốn kém
trong việc vận chuyển và bảo quản tiền mặt và sẽ gây khó khăn cho cả bên thanh
toán và bên được thanh toán trong trường hợp thanh toán với số tiền lớn.
Thứ hai là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (thanh toán bằng
chuyển khoản):
Hình thức thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán được
tiến hành thông qua việc thực hiện bút toán trên tài khoản tiền gửi ngân hàng
của các đơn vị, các doanh nghiệp. Hình thức này được thực hiện theo quy định
bắt buộc của Nhà nước đối với các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, các cơ
quan trong nền kinh tế quốc dân. Đó là hình thức sử dụng tiền tệ hợp lý và là
một trong những công cụ quan trọng để thực hiện quản lý kinh tế nhà nước đối
với nền kinh tế quốc dân. Đây là hình thức thanh toán chủ yếu của các doanh
nghiệp và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, để thực hiện được hình
thức thanh toán này đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định và phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định, những cụ thể về các hình thức thanh toán đó là:
Đầu tiên muốn thực hiện bằng hính thức thanh toán này thì các doanh
nghiệp, các tổ chức, cơ quan và cá nhân phải có tài khoản tiền gửi ở các tổ chức
14
thuộc hệ thống ngân hàng. Toàn bộ vốn tiện tệ, ngoài số tiền mặt được giữ tại quỹ
theo định mức và sự thoả thuận với ngân hàng, các doanh nghiệp và các đơn vị
bắt buộc phải gửi tất cả vào ngân hàng. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp, các
đơn vị có quyền chọn cơ sở ngân hàng thuận lợi trong phạm vi tỉnh và thành phố
để mở tài khoản tiền gửi chính để thực hiện các nghiệp vụ gửi, rút tiền, vay, trả và
thanh toán, đồng thời được mở tài khoản tiền gửi phụ và tài khoản tiền vay phụ ở
ngân hàng thuộc địa phương khác nơi có các đơn vị có quan hệ mua bán với
mình.
Thứ hai là việc thanh toán giữa các bên mua bán hàng hoá và cung ứng
lao vụ phải được thực hiện ngay sau khi giao chuyển hàng hoá và cung ứng lao
vụ trong thời hạn quy định của ngân hàng. Bên bán chỉ được phát hành chứng từ
thanh toán sau khi đã giao chuyển hàng hoá hoặc cung ứng lao vụ, bên mua chi
trả tiền sau khi đã nhận các chứng từ thanh toán.
Ngoài ra ngân hàng không được tự động trích chuyển tiền trên tài khoản
của các đơn vị mà chỉ có thể trích tài khoản của đơn vị này để chi trả cho đơn vị
khác khi có yêu cầu hoặc sự đồng ý của chủ tài khoản, trừ trường hợp có quyết
định của nhà nước hay cơ quan có thẩm quyền. Ngân hàng phải thực hiện đầy đủ
chức năng trung tâm thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, hướng dẫn, thúc đẩy
các doanh nghiệp, các đơn vị thực hiện đúng mọi quy định của chế độ thanh
toán. Trong quá trình thanh toán, nếu bên nào (bên mua, bên bán, ngân hàng) vi
phạm những quy định về nguyên tắc, chế độ thanh toán… thì bên đó phải chịu
phạt về vật chất để đền bù cho bên bị thiệt hại.
Theo quy định hiện hành năm 1994, thanh toán không dùng tiền mặt ở
nước ta bao gồm các hình thức của yếu sau:
Thanh toán bằng séc
- Khái niệm séc:
Séc là lệnh vô điều kiện do chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của
ngân hàng nhà nước Việt Nam, yêu cầu ngân hàng trích từ tài khoản của chủ tài
15
khoản một số tiền nhất định để trả cho đơn vị được hưởng có tên trong séc hoặc
cho người cầm séc. Đơn vị được hưởng từ séc đem tờ séc đó nộp vào ngân hàng,
ngân hàng sẽ thực hiện nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền cho người được hưởng
séc.
Ngân hàng trung ương là cơ quan duy nhất được quyền ấn loát các loại
séc. Các đơn vị muốn sử dụng séc phải đến ngân hàng nơi mở tài khoản tiền gửi
thanh toán, đăng ký và mua séc trắng về sử dụng. Séc được sử dụng để thanh
toán tiền hàng hoá, lao vụ, nộp thuế, trả nợ hoặc để rút tiền mặt ở các chi nhánh
ngân hàng. Đối với đơn vị phát hành séc, không được phát hành séc quá số dư tài
khoản tiền gửi thanh toán mở tại ngân hàng, nếu séc phát hành quá số dư tài khoản
tiền gửi, phần giá trị vượt phải có hợp đồng vượt chi trước với ngân hàng, nếu
không chủ phát hành séc sẽ bị phạt 30% số tiền vượt quá số dư tiền gửi. Ngoài ra,
chủ phát hành séc còn bị phạt chậm trả (tính từ ngày séc về ngân hàng đến khi tài
khoản tiền gửi của chủ tài khoản có đủ tiền để thanh toán). Tiền phạt này ngân
hàng trả cho bên hưởng séc.
Số tiền phạt = Giá séc × số ngày chậm trả × Tỷ lệ lãi phạt
Trong đó tỷ lệ lãi phạt được tính bằng 150% lãi suất vay cao nhất. Đối với
bên nhận séc cần chú ý phải kiểm soát tính chất hợp lệ và hợp pháp của tất cả
các yếu tố yêu cầu ghi trên tờ séc theo mẫu. Phải lập bảng kê nộp séc và nộp vào
ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của tờ séc.
- Phân loại séc:
Séc gồm có các loại sau: Séc thanh toán (bao gồm séc chuyển khoản, séc
bảo chi, séc định mức) séc chuyển tiền (séc tiền mặt) do người mua phát hành để
trả tiền hàng hoá, dịch vụ.
Séc tiền mặt: Là loại séc cho phép người hưởng séc lấy tiền mặt từ ngân
hàng ra, loại này chỉ dùng trong quan hệ thanh toán với số tiền nhỏ hoặc giữa
các doanh nghiệp, các đơn vị với cá nhân không có tài khoản ngân hàng.
16
Séc thanh toán: Là loại séc chỉ dùng thanh toán chuyển khoản, người hưởng
séc không được lấy tiền mặt từ ngân hàng, đây là loại séc chủ yếu dùng trong quan
hệ thanh toán giữa các doanh nghiệp, các đơn vị có tài khoản ngân hàng.
Nhìn chung phương thức thanh toán bằng séc thủ tục đơn giản, tiện lợi.
Hai bên mua và bán trực tiếp kiểm tra lẫn nhau về hàng hoá, dịch vụ cũng như
việc chi trả luôn có sự ăn khớp giữa số tiền chi trả với giá trị hàng hoá, dịch vụ
cung ứng. Tuy nhiên, trong trường hợp dùng séc bảo chi và sổ séc định mức thì
bên mua có những bất lợi nhất định do thủ tục phức tạp hơn, vốn bị ứ đọng trong
thời gian nằm trên séc chưa phát hành.
Thanh toán theo uỷ nhiệm thu
Thanh toán theo ủy nhiệm thu là lệnh của bên bán lập gửi vào ngân hàng
nơi bên mua thu hộ tiền hàng đã giao hay dịch vụ đã cung ứng ghi trên hoá đơn,
có hoặc không có kèm theo các chứng từ hàng hoá. Hình thức này có thể dùng
trong thanh toán giữa các đơn vị có cùng tài khoản tiền gửi ngân hàng hoặc có
tài khoản tiền gửi ở hai ngân hàng khác nhau và thường được dùng khi hai bên
mua và bán quan hệ tín nhiệm lẫn nhau và thường xuyên giao dịch với nhau
hoặc giao dịch mang tính chất định kỳ theo kế hoạch đã thoả thuận hoặc trong
quan hệ thanh toán bù trừ, thanh toán công nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp.
Thanh toán theo uỷ nhiệm chi
Thanh toán theo uỷ nhiệm chi : Là một hình thức thanh toán khá phổ biến
trong môi trường kinh tế các nước khi bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường.
Ủy nhiệm chi là lệnh của chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn của ngân hàng để
yêu cầu ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản giao dịch của mình để trả
cho người được hưởng hoặc chuyển tài khoản khác của mình ở ngân hàng khác.
Hình thức này có thể dùng trong thanh toán giữa các đơn vị có cùng tài khoản tiền
gửi ở một ngân hàng hoặc ở hai ngân hàng khác nhau trong các trường hợp:
- Dùng trong trường hợp xin trích tiền từ tài khoản của mình để phát hành
séc bảo chi, sổ séc định mức hoặc chuyển tiền đến ngân hàng khác để mua hàng.
17
- Thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ.
- Thanh toán về các nghiệp vụ mang tính chất phi hàng hoá như nộp ngân
sách, trả nợ ngân hàng, trích nộp các quỹ, phân phối lại vốn lưu động giữa các
đơn vị, trả tiền quảng cáo…
Thanh toán theo uỷ nhiệm chi có ưu điểm là thủ tục thanh toán nhanh
chóng đơn giản, tiết kiệm do đó tăng kỳ luân chuyển vốn. Tuy nhiên nó có
nhược điểm là chỉ áp dụng thích hợp khi bên bán tín nhiệm bên mua về khả năng
chi trả, tính tự giác, chủ động trong chi trả của bên mua.
Thanh toán theo thư tín dụng
Thư tín dụng: Là lệnh của ngân hàng bên mua đề nghị bên bán trả tiền cho
bên bán về số hàng hoá đã giao và dịch vụ đã cung ứng cho bên mua theo các
điều kiện đã ghi trong hợp đồng kinh tế và giấy xin mở thư tín dụng. Đối với
thanh toán trong nước hình thức này ít được sử dụng, chủ yếu được sử dụng
trong việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch
vụ. Thanh toán theo thư tín dụng được áp dụng trong thanh toán giữa các đơn vị
có tài khoản tiền gửi ở hai ngân hàng khác nhau về tiền vật tư hàng hoá và dịch
vụ, trong trường hợp bên mua và bán không có quan hệ giao dịch thường xuyên,
chưa tín nhiệm lẫn nhau hoặc trường hợp có quyết định của ngân hàng đối với
bên mua thiếu năng lực chi trả có hệ thống.
Thanh toán bằng ngân phiếu ngân hàng
Ngân phiếu thanh toán: Thực chất là một lệnh trả tiền đặc biệt của chủ sở
hữu nào đó, việc trả tiền thực hiện theo đúng chứng từ thanh toán có tên Ngân
phiếu thanh toán. Nó dùng để thay tiền mặt trong thời hạn hiệu lực ghi trên ngân
phiếu. Ban đầu ngân phiếu thanh toán được nhà nước phát hành sau đó xuất kho
và đưa qua sở giao dịch. Các tổ chức tài chính trung gian lĩnh ngân phiếu thanh
toán tại ưở giao dịch Ngân hàng trung ương sau đó phân phối cho xã hội. Các cá
nhân, tổ chức kinh tế nắm giữ ngân phiếu có thể sử dụng ngân phiếu (ghi trên
ngân phiếu), nếu các đơn vị, cá nhân nộp ngân phiếu vào ngân hàng sẽ nhận
18
được tiền mặt hoặc chuyển số tiền trên ngân phiếu vào tài khoản tiền gửi của
mình tại ngân hàng. Sau khi luân chuyển, ngân phiếu được giữ lại ở các ngân
hàng thương mại, kho bạc, các tổ chức tín dụng khi hết hiệu lực thanh toán, sau
đó được chuyển về kho tiền của ngân hàng Nhà nước.
Thanh toán bằng thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là thẻ điện tử do Ngân hàng phát hành bán cho khách hàng
sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác, rút tiền mặt tại
các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy rút tiền tự động ngân hàng cấp
cho người mua để làm công cụ thanh toán thông qua mạng điện toán ngân hàng.
Người muốn sử dụng thẻ thanh toán phải làm thủ tục với tổ chức phát
hành thẻ về dịch vụ thẻ thanh toán để nhận thẻ thanh toán mang về sử dụng.
Thanh toán bằng thẻ đảm bảo cho cả người mua và người bán tiết kiệm
được phương tiện tiền tệ trong lưu thông cũng như những khoản chi phí vận
chuyển tiền tệ. Tuy nhiên, nó đòi hỏi phải có những phương tiện tự động hoá.
Như vậy đối với tư nhân không có tài khoản ngân hàng, giữa đơn vị kinh
tế với người lao động (nếu có), khi thanh toán hàng hoá và dịch vụ có giá trị nhỏ
thì dùng tiền mặt để thanh toán. Đối với những đơn vị kinh tế có tài khoản tiền
gửi ngân hàng thì khi khi mua hàng với giá trị lớn, mua bán hàng hoá ở các địa điểm
xa đơn vị, thanh toán với Nhà nước… thì thanh toán bằng tiền gửi. Vì vậy tùy theo
điều kiện của các doanh nghiệp mà lựa chọn hình thức thanh toán cho phù hợp.
B. Các quan hệ thanh toán
Mỗi doanh nghiệp có điều kiện và đặc trưng riêng, vì thế quan hệ thanh
toán giữa các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Thông thường trong doanh
nghiệp phát sinh các mối quan hệ thanh toán sau:
Quan hệ thanh toán với nhà cung cấp: Quan hệ này được hình thành khi
doanh nghiệp có nhu cầu mua vật tư, hàng hoá, dịch vụ… nó tạo ra các quan hệ
phải thu, phải trả với các nhà cung ứng. Quan hệ thanh toán với nhà cung cấp bắt
đầu khi hai bên ký kết hợp đồng kinh tế với nhau, thoả thuận về các điều kiện có
19
ràng buộc về khối lượng vật tư, hàng hoá, dịch vụ, giá trị vật tư, hàng hoá trong
hợp đồng. Trong đó quan hệ phải thu phát sinh khi doanh nghiệp đã ứng trước tiền
hàng cho người bán (người cung cấp), quan hệ phải trả phát sinh khi doanh nghiệp
đã nhận vật tư hàng hoá nhưng trả chậm tiền hàng theo thoả thuận giữa hai bên.
Quan hệ thanh toán với khách hàng: Đây là mối quan hệ phát sinh khi
doanh nghiệp bán vật tư, hàng hoá, dịch vụ, tài sản thanh lý của mình theo
phương thức trả trước, trả ngay hoặc trả chậm. Khả năng tài chính của khách
hàng mua chịu có ảnh hưởng lớn tới độ chắc chắn thu hồi tiền nợ phải thu khách
hàng của doanh nghiệp (Trần Thị Thương, 2008).
Quan hệ thanh toán với Nhà nước: Đây là quan hệ thanh toán bắt buộc đối
với tất cả các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh
nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với ngân sách Nhà nước, các khoản
thanh toán với ngân sách Nhà nước thuộc quan hệ này có thể khác nhau giữa các
doanh nghiệp.
Quan hệ thanh toán với các chủ thể trong doanh nghiệp: Quan hệ thanh
toán này thường xuyên xảy ra trong doanh nghiệp, bao gồm các khoản thanh
toán tiền lương, tiền công, tạm ứng, công tác phí… cho cán bộ công nhân viên.
Ngoài các mối quan hệ thanh toán phổ biến trên, một số công ty lớn được tổ
chức theo hình thức công ty mẹ, công ty con do đó còn phát sinh các mối quan
hệ thanh toán khác như tạm ứng… cho vay, thu hộ, chi hộ.
2.1.2.4. Phân loại các nghiệp vụ thanh toán
- Căn cứ vào đặc điểm các nghiệp vụ thanh toán có thể chia thành hai loại:
+ Thanh toán các khoản phải thu: Bao gồm thu từ khách hàng, phải thu
nội bộ, phải thu khác…
+ Thanh toán các khoản phải trả: Bao gồm phải trả cho người bán, các
khoản phải nộp cho Nhà nước, phải trả người lao động, phải trả phải nộp khác…
- Căn cứ vào thời hạn thanh toán có ba loại:
20
+ Thanh toán trả trước: Là việc bên mua trả tiền cho bên bán trước khi
nhận hàng hoá hoặc dịch vụ vào một khoảng thời gian xác định để nhận hàng
hoá, dịch vụ như mong muốn.
+ Thanh toán trả ngay: Là việc bên mua trả tiền cho bên bán ngay khi
nhận được hàng hóa hay dịch vụ mà bên bán đã cung cấp, phương thức thanh
toán này thường áp dụng cho những trường hợp có giá trị thanh toán nhỏ.
+ Thanh toán trả chậm: Là việc bên mua thanh toán cho bên bán sau khi
đã nhận hàng hóa, dịch vụ được một thời gian nhất định. Hình thức thanh toán
này phản ánh việc chiếm dụng vốn của bên mua.
- Căn cứ vào đối tượng thanh toán, các nghiệp vụ thanh toán có thể chia
làm các loại:
+ Thanh toán với nhà cung cấp.
+ Thanh toán với người mua.
+ Thanh toán Ngân sách Nhà nước.
+ Thanh toán nội bộ.
Việc phân chia các nghiệp vụ thanh toán có ý nghĩa rất quan trọng. Nó tạo
điệu kiện cho việc tổ chức theo dõi và hạch toán các nghiệp vụ thanh toán, điều
này giúp cho việc kiểm tra, giám sát, tham mưu cho các cấp lãnh đạo.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
2.2.1.1. Chỉ tiêu phân tích tình hình quản lý công nợ
- Tỷ lệ thanh toán các khoản phải thu so với các khoản phải trả (%):
Tỷ lệ các khoản nợ phải thu
so với các khoản nợ phải trả (%)
=
Tổng các khoản nợ phải thu
×100
Tổng các khoản nợ phải trả
21
Nếu tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả > 100%
chứng tỏ số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng nhiều hơn số vốn đi chiếm dụng và
ngược lại, nếu tỷ lệ này < 100% chứng tỏ số vốn doanh nghiệp chiếm dụng
nhiều hơn là số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng. Trên thực tế nếu số vốn bị
chiếm dụng lớn hơn hay nhỏ hơn 100% đều phản ánh tình hình tài chính không
lành mạnh và đều ảnh hưởng tới uy tín, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
(Nguyễn Năng Phúc, 2003).
- Tỷ lệ vốn chiếm dụng so với vốn bị chiếm dụng (Tỷ lệ các khoản nợ phải
trả so với các khoản nợ phải thu) (%):
Tỷ lệ vốn chiếm dụng so
với vốn bị chiếm dụng (%)
=
Tổng số vốn chiếm dụng
× 100
Tổng số vốn bị chiếm dụng
Chỉ tiêu này phản ánh các khoản doanh nghiệp đi chiếm dụng. Nếu tỷ lệ
các khoản nợ phải trả so với các khoản nợ phải thu > 100%, chứng tỏ số vốn của
doanh nghiệp đi chiếm dụng lớn hơn số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng và ngược
lại. Về thực chất chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu trên.
- Số vòng luân chuyển các khoản phải thu (Vòng):
Số vòng luân chuyển của các
khoản phải thu (vòng)
=
Tổng số tiền hàng bán chịu
Số dư bình quân các khoản phải thu
Trong đó:
=
2
Số vòng luân chuyển các khoản phải thu cho biết trong kỳ phân tích các
khoản phải thu quay được bao nhiêu vòng, cho biết mức hợp lý của số dư các
22
Tổng số nợ phải thu đầu kỳ và cuối kỳ
Số dư bình quân các
khoản phải thu