Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TIỂU LUẬN Môn Seminar Lâm Sản NG Chuyên đề Phát triển LSNG trong rừng NLKH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.05 KB, 11 trang )

PHÂN HIỆU TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

TIỂU LUẬN

Môn: Seminar Lâm Sản NG

Chuyên đề số 2: Phát triển LSNG trong rừng NLKH
Giảng viên hướng dẫn: a
Sinh viên:
Lớp

Đăk Nông, tháng 03 năm 2021

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

Ban Qlrph Nam Cát Tiên thuộc huyện Đăk Rlấp, tỉnh Đăk Nơng nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng, ẩm với nguồn tài nguyên thực vật rừng
phong phú đa dạng. Ngoài chức năng lưu giữ, cung cấp nguồn nước và gỗ, rừng
còn cung cấp rất nhiều lâm sản ngồi gỗ (LSNG) vơ cùng đáng quý.

LSNG thường có giá trị cao, khối lượng nhẹ, vận chuyển dễ dàng hơn so với
gỗ, cho thu hoạch sớm hơn gỗ, giá trị, năng suất kinh tế cao, ổn định, có khả năng
kinh doanh liên tục, phù hợp với quy mô hộ gia đình nên dễ được người dân chấp
nhận trong các chương trình xã hội nghề rừng, phát triển kinh tế hộ gia đình và
cộng đồng.

Hoạt động bảo tồn, gây trồng, khai thác, buôn bán và sử dụng LSNG mang
lại thường giá trị sản xuất gia tăng cao, không chỉ gắn liền với đời sống hàng ngày
mà còn là một trong những nguồn thu nhập chính, góp phần xố đói giảm nghèo,
đảm bảo an sinh xã hội cho nhiều cộng đồng dân cư, nhất là cộng đồng dân cư
miền núi. Qua đó, mang lại giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp tương đối lớn,


đóng góp thực sự vào sự phát triển của nền kinh tế, xã hội và môi trường ở nước ta.

Nguồn lâm sản ngoài gỗ trên địa phương rất phong phú gồm nhiều loại như:
LSNG cho sợi gồm có tre, le, lồ ơ, song, mây...; các lồi LSNG cho thực phẩm
gồm có rau nhíp, mây, dương xỉ( rau dớn)...; các lồi dược liệu: trà dây, thiên niên
kiện, ký ninh, củ mài, tắc kè đá, bí kỳ nam, nấm linh chi... Tuy nhiên việc khai thác
LSNG khơng kiểm sốt, trong đó nhiều loại cây thuốc phải lấy từ rừng tự nhiên,
măng, mây bị khai thác trái phép vì mục đích gia dụng và bán bn cho các đầu
nậu ở cửa rừng vì vậy sản lượng của thực vật LSNG giảm trữ lượng do khai thác
quá mức.

Khai thác thực vật lâm sản ngoài gỗ giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập
cho người dân sống gần rừng đóng góp vào nguồn ngân sách nhà nước.

Thực vật lâm sản ngoài gỗ có tiềm năng phát triển tốt, cung cấp được nhiều
nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển như: thuốc chữa bệnh, thực phẩm, sản xuất
các đồ thủ công mỹ nghệ... Sau đây là phân tích chuyên đề phát triển TVNG trong
rừng nông lâm kết hợp(NLKH).

PHẦN 2: PHÁT TRIỂN TVNG TRONG RỪNG NÔNG LÂM KẾT HỢP

Sau đây là cây trồng TVNG trong rừng NLKH tự phát tại địa phương.( trồng
xen canh cây lá bép trong vườn cây công nghiệp, cây ăn trái). Các loại lâm sản
ngồi gỗ thường được trồng là cây rau nhíp, cây mây nếp( lấy đọt làm thực phẩm),
cây lá đắng... chủ yếu trồng nhỏ lẻ dùng làm thực phẩm để cải thiện bữa ăn trong
gia đình là chính, chưa mang tính hàng hóa.

Mơ hình trồng cây lá Bép trong vườn điều:

Đặc điểm của cây lá Bép:


Tên thường gọi: Rau Nhíp, rau Danh, Bét, Cắm.

Tên khoa học: Gnetum gnemon L.

Họ khoa học: thuộc họ Dây gắm - Gnetaceae.

Mô tả:
Lá Bép (cịn gọi là rau Nhíp, rau Danh...) có dạng cây thân gỗ cao từ 2-5 m và
có nhiều nhánh. Cây thường xanh, lá đơn mọc đối, dài 8-20 cm và rộng 3-10 cm,
lúc mới mọc có màu đồng, khi trưởng thành có màu lục sẫm. Cây lá Bép phân bố ở
một số tỉnh thuộc miền Trung, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ ở độ cao từ 200
tới 900m.
Công dụng của cây Lá Bép:

Các bộ phận cây lá bép dùng làm thuốc

+Theo Đông y

Cây Lá bép hay còn gọi là cây lá bét (Gnetum gnemon L.
var.griffithii Markgr.) có tiềm năng lớn không chỉ bởi giá trị dinh dưỡng mà cịn vì
dược tính của nó.

Khơng chỉ ngon, đủ calo, an tồn, lá bép còn chứa các hoạt chất sinh học tự
nhiên cần cho sức khỏe, kéo dài tuổi thọ.

+Theo Tây y

-Năm 1955, Masilungan và những đồng nghiệp phát hiện chất chiết trong lá
cây lá bép có chứa các chất kháng sinh.


-Gần đây, cây lá bép được phát hiện là loài cây giàu các hợp chất chất hoạt
động sinh hóa nhóm stilbenoid, bao gồm chất resveratrol (3,5,4 '-trihydroxy-trans-
stilbene) là một chất phenol tự nhiên , và chất phytoalexin (sản xuất tự nhiên khi
cây bị tấn công bởi các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn hoặc nấm). Đây là những
hợp chất dimer (kết hợp bởi hai phân tử cùng loại bởi nối cộng hóa trị).

Một ví dụ về một stilbenoid là resveratrol , được tìm thấy trong nho và đã
được cơng nhận có nhiều lợi ích sức khỏe. Chất resveratrol trong cây lá bép giống

như ở cây nho. Kết quả này đã được công bố tại Hội nghị XXIII quốc tế về
polyphenol, Canada, vào năm 2006.

-Trong các thí nghiệm ở chuột, khả năng chống ung thư, chống viêm , hạ
lượng đường trong máu và mang lại lợi ích tim mạch do tác động của resveratrol
đã được báo cáo nói chung là tích cực.

-Trong một thử nghiệm ở con người với liều cao (3-5 g) resveratrol, trong
một công thức thiết kế để tăng cường khả dụng sinh học , lượng đường trong
máu hạ thấp đáng kể.

-Chất resveratrol trong cây lá bép có tính kháng khuẩn và chống hoạt động
oxy hóa , được dùng như là một chất bảo quản thực phẩm. Lồi này có thể có
những ứng dụng trong các ngành cơng nghiệp thực phẩm mà khơng sử dụng bất kỳ
hóa chất tổng hợp nào.

c- Các công dụng khác

-Hạt rang lên ăn bùi như Lạc (đậu phộng).


-Vỏ cây có sợi rất dai, chịu đợc nước biển, nên đợc dùng làm dây thừng và l-
ưới đánh cá.

-Gỗ xấu, ít có giá trị, được sử dụng để sản xuất bột giấy ở Indonesia,
Malaysia và Hồng Kông.

-Ở Indonesia người dân dùng gỗ đốt xơng khói để đuổi muỗi.

Dùng làm rau
Lá non, cụm hoa, quả non, và quả chín để dùng ăn được.

Rau lá bép (rau nhíp)

+Ở Việt Nam

-Cây lá bép được dùng làm rau đã biết từ lâu đời bởi người dân tộc thiểu số
sống trên các vùng có lồi cây này mọc tự nhiên trong rừng.

Đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây nguyên thường xuyên và yêu thích sử dụng
lá bép làm rau ăn ở dạng xào hoặc nấu canh với cá suối...

Lá bép mọc quanh năm, nhưng sau khoảng 5-6 trận mưa đầu mùa là thời
điểm lá bép ngon nhất. Khi này, đọt mầm bung nở, tươi mát nhất. Đồng bào dân
tộc tranh thủ vào rừng hái, đây cũng là lúc lá cho vị ngọt hơn tất cả mọi thời điểm.

-Rau lá bép trở nên nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiếng chống Mỹ khi bộ
đội Việt Nam sống trong chiến khu thiếu lương thực phải ăn rau rừng để sống
trong thời kỳ chiến trường ác liệt.

Trong quyển "Những kỷ niệm ở rừng miền Đông" của Nhà xuất bản Quân

đội nhân dân có kể rằng, một đơn vị bộ đội khi hành quân trên vùng Bình Phước
chẳng may bị lạc rừng. Hết lương thực, đoàn quân hàng trăm người phải tìm lá cây
rừng ăn cầm hơi suốt một tuần. Đó là những thứ lá rừng vị ngọt thanh, ăn khá ngon
miệng. Mãi sau này, nhiều người mới biết đó là lá bép.

Để giúp bộ đội Trường Sơn chủ động tìm nguồn thức ăn khi thiếu lương
thực, Nhà Xuất bản Quân đội nhân dân in ấn sách rau rừng dạng sổ tay khổ nhỏ,
trong đó mơ tả hàng trăn loại rau rừng, củ, quả và nấm rừng ăn được có hình ảnh
mẫu kèm theo để giúp bộ đội đi tới đâu, gặp rau nào thì đối chiếu tìm nấu. Trong
đó có lồi rau bép thuộc những cây rau chủ lực.

Vùng Đông Nam Bộ thời chiến tranh, ở Bù Đốp, Bù Gia Mập, Bù Bơng, Bù
Đăng, Sóc Bom Bo… có nhiều cây bép mà nhạc sĩ Huy Du sáng tác bài "Nổi lửa
lên em"có câu: " … lá bép rau rừng thêm thắm tình anh ni".

Đọc đến đây chắc bạn hiểu thêm “lá bép” trong bài ca rồi nhĩ!
-Lá bép khi còn non, mỏng và mềm, màu lục nhạt, dùng nấu canh ăn rất
ngon, có thể so sánh với rau Sắng chùa Hương (Melientha suavis Pierre).
Ăn Rau bép khơng có ảnh hởng gì xấu đến cơ thể. Có thể nấu với thịt ăn
cũng ngon.
Người Chơ ro có một món canh ngon, lạ và hội đủ tinh túy của núi rừng
khiến ai đã từng một lần thưởng thức đều phải nhớ mãi. Đó là canh ống thụt lá bép.

Món canh rau bép ống thụt (nấu trong ống nứa) của

Đồng bào dân tộc Tây Nguyên

Bao năm qua, đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng sử dụng lá bép làm rau
ăn và thời gian gần đây mang ra chợ miền núi ở Di Linh bán với giá tương đương
với rau muống.


Ngày nay, lá bép đã có mặt trong thực đơn của các nhà hàng ở Tây Nguyên
như canh cua lá bép, đọt mây-lá bép xào cá hộp, … và luôn được giới thiệu với
khách miền xi như là một món ngon đặc sản mà núi rừng đã hào phóng ban tặng
cho những con người Tây Nguyên nồng hậu và mến khách này.

+Ở nước ngoài

-Ở Indonesia Cây lá bép là cây bản địa mọc hoang hoặc trồng rất phổ biến
và được dùng trong ẩm thực ở nước này.

Hạt cây lá bép được dùng để nấu món Súp rau chua Indonesia (Sayur
Asem) và cũng có thể, nghiền thành bột và chiên thành món bánh emping , một
loại bánh ghém krupuk giống như bánh phòng tơm ở Việt Nam. Loại bánh này có
hương vị hơi đắng và thường được dùng để ăn nhẹ hoặc ăn kèm với các món chiên,
xào khác. Lá cây rau bép cũng thường được sử dụng làm rau trong các món ăn.

Hạt được nghiền thành bột và rán kỹ thành một loại bánh giòn. Bánh này có
vị hơi đắng và được dùng như là đồ ăn kèm với tên gọi 'Keropok Belinjau' trong
ẩm thực của người Indonesia và Malaysia.

Loài cây này được trồng phổ biến ở khu vực Aceh và được xem như một
loại cây rau cao cấp.

Hoa, lá non và quả tươi được dùng như thành phần trong món cà ri rau
truyền thống gọi là Kuah pliek . Món ăn này được phục vụ trên tất cả các dịp lễ
truyền thống quan trọng, chẳng hạn như khanduri và keureudja .

Ở quận Pidie, phụ nữ chọn trái chín (màu đỏ) để làm món keureupuk muling.


Bánh quy dòn Melinjo là một phần của thực đơn trong bữa ăn tối để tiếp đải
tổng thống Mỹ Barack Obama trong chuyến thăm cấp nhà nước với Indonesia vào
năm 2010, ngài tổng thống da đen này đã ca ngợi bánh quy giịn, cùng với các
món Bakso (súp thịt viên) và Nasi Goreng (cơm chiên) là ngon.

Hiện nay, sản phẩm bánh quy dòn Melinjo Extract được sản xuất và giám sát
theo hợp tác giữa Hiệp hội Nông nghiệp Indonesia ( NOFA (id: KTNA); Tổ chức
Mẹ Ikamaja) và JASMELINDO (Tổ chức phi lợi nhuận Nhật Bản), để bảo vệ lợi
nhuận nhất định cho nông dân Indonesia.

-Ở Thái Lan có loài Cây Phác mang (Phat miang) của Thái
Lan Gnetum gnemon L. var, tenerum Markgr, là loại rau quan trọng ở
miền Nam nước này.

-Ở Châu Phi có hai lồi cây Lá gắm Gnetum africanum và G.
buchholzianum phát triển rộng rải ở Trung Phi, là loại rau ăn lá giàu dinh dưỡng.

Cả hai loài này được mọc hoang và trồng nhiều ở Gabon, Congo,
Cameroon, Nigeria và Angola với tên gọi địa phương phổ biến là ‘koko’, ‘eru’,
‘okok’, ‘ukasi’... (Bahuchet, 1990).

Lá giàu đạm, acid amin và khoáng chất, được dùng làm rau ăn sống, luộc,
xào, nấu súp và được buôn bán khắp các chợ ở Trung Phi. Ước tính hàng tuần có
khoảng 600 tấn lá được vận chuyển đến các chợ đầu mối.

-Ở Nam Mỹ có nhiều lồi dây leo thuộc Chi Dây gấm (Gnetum) có lá non,
cụm hoa, quả non và quả chín đều ăn được và được xếp vào loại rau sạch quý
hiếm.

Ươm giống cây Lá Bép

Vào tháng 6-7 khi quả cây rau Nhíp chín, vỏ quả chuyển sang màu đỏ, ta tiến hành
thu hái quả. Thu hái quả lá Bép ở những cây đã thành thục, khỏe mạnh, không bị
sâu bệnh, có quả từ 3 năm trở lên và đã ra quả ổn định.

Quả Lá Bép
Khi quả trên cây đã chuyển sang màu đỏ thì tiến hành thu hái. Chọn
những quả to, chín đỏ đều tới cuống quả để đưa vào nhân giống. Quả chín thu về
đem xát và đãi sạch vỏ, phơi nhẹ trong bóng râm cho se vỏ hạt.

Hạt Lá Bép

Ngâm hạt lá Bép trong nước ấm có pha thuốc tím ở nhiệt độ 40 - 50 độ C, ủ
hạt vào cát sạch, tỉ lệ 1 hạt + 3 cát (độ ẩm cát ủ đảm bảo khi nắm hạt cát không bị
tơi ra). Sau khoảng 35-40 ngày hạt sẽ nảy mầm, lúc này ta lấy xén nhỏ tách mầm lá
Bép và cho mầm vào bầu đất giá thể đã được chuẩn bị sẵn. Cấy mầm lá Bép vào
bầu đất và tiến hành chuyển sang chăm sóc ở chế độ cây con.

Cây Lá Bép Giống
Ngồi ra, có thể nhân giống cây lá Bép bằng cách giâm hom: Giâm hom lá
Bép vào bầu đất có độ tới xốp tốt (70% đất dưới tán rừng + 30% phân hữu cơ hoai
mục). Cần che bóng 75% luống ươm ở giai đoạn đầu, sau đó giảm dần theo độ
tuổi.
Tiêu chuẩn cây con: cây rau Nhíp giống có hình dáng đẹp, lá bóng, khơng sâu
bệnh. Cây rau Nhíp giống đạt chiều cao 20-25cm, có từ 2-3 tầng lá thật, cây giống
đã được thuần tự nhiên từ 10-15 ngày thì có thể đưa cây đi trồng.
Kĩ thuật trồng và chăm sóc cây Lá Bép
Điều kiện gây trồng cây lá Bép: trồng dưới tán rừng ẩm, trồng phân tán hay
trong các mô hình nơng lâm kết hợp( xen canh trong vườn cây công nghiệp, cây ăn
trái) nơi đất nhiều mùn và đủ ẩm. Có thể trồng thuần lồi hoặc trồng xen canh với
các cây lâm nghiệp, cây ăn quả.

Khoảng cách trồng: trồng xen canh 1,5x1,5m, hố trồng 20x20x20cm. Mỗi
hố bón 0,5-1kg phân chuồng hoai mục + NPK. Trồng xen dưới tán rừng, 1ha có
thể trồng tới 1500 cây. Sau khi trồng 4-5 tháng có thể cho thu hoạch.
Chăm sóc: Giai đoạn cịn nhỏ cây lá Bép còn chậm phát triển và chịu bóng, cần
duy trì độ che bóng thích hợp. Tiến hành làm cỏ, kiểm tra sâu bệnh và duy trì bón
phân cho cây. Năm thứ 2 là có thể thu hoạch rau Nhíp. Lúc này có thể giảm dần độ
che bóng để lá cây dày, thơm ngon và mọc nhiều hơn. Định kỳ làm cỏ, bón phân,
chú ý bảo vệ cây khỏi cháy rừng và sự phá hoại của gia súc.
Chăm sóc:
Giai đoạn còn nhỏ cây lá Bép còn chậm phát triển và chịu bóng, cần duy trì
độ che bóng thích hợp. Tiến hành làm cỏ, kiểm tra sâu bệnh và duy trì bón phân
cho cây. Năm thứ 2 là có thể thu hoạch rau Nhíp. Lúc này có thể giảm dần độ che
bóng để lá cây dày, thơm ngon và mọc nhiều hơn. Định kỳ làm cỏ, bón phân, chú ý
bảo vệ cây khỏi cháy rừng và sự phá hoại của gia súc.

Vườn Trồng Cây Lá Bép
Hiệu quả kinh tế:

Với giá từ 40.000- 50.000 đồng/kg. Vào mùa khô giá tăng lên từ 80.000 -
100.000 đồng/ kg. Mỗi ha có thể cho thu nhập 8-9 triệu đồng/tháng. Nếu trồng
chuyên canh bên trên có che lưới đen thì giá trị có thể cao hơn.
Ý nghĩa mơi trường:
-Tăng độ che phủ, chống xói mịn đất, giữ nước, bảo vệ mơi trường.
- Bảo tồn và phát triển lồi cây q hiếm có giá trị về khoa học và kinh tế...

Phần 3: KẾT LUẬN
Phát triển lâm nghiệp ngồi gỗ trong nơng lâm kết hợp làm đa dạng cây
trồng, nâng cao thu nhập trên một diện tích đất canh tác. Bảo tồn nguồn gen một
loại thực phẩm quý tốt cho sức khỏe con người. Giảm áp lực khai thác trong tự
nhiên góp phần bảo vệ rừng.


Phát triển kinh tế thực vật lâm sản ngoài gỗ cần phải đi đơi với việc bảo vệ,
chăm sóc các loại thực vật ngoài gỗ, đối với những thực vật lâm sản ngoài gỗ có
khả năng trồng và phát triển cần phải gây ni, khuyến khích người dân trồng và
phát triển, ngồi ra cần phải có đầu ra cho người dân, giúp người dân dễ dàng hơn
trong việc mở rộng quy mô nâng cao kinh tế, giải quyết việc làm cho người dân.

Tài liệu tham khảo

[1]. Bài giảng Seminar Lâm sản ngoài gỗ. Ts Đặng Việt Hùng

[2]. Viện Khoa học và Công Nghệ Việt Nam Bộ Khoa học và Công nghệ
(2007), Sách đỏ Việt Nam, Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội.

[3]. Nghị định Số: 06/2019/NĐ-CP ngày 22/1/2019 của Chính phủ nước
Cộng hóa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2019), về quản lý thực vật rừng, động vật
rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi cơng ước về bn bán quốc tế các lồi động
vật, thực vật hoang dã nguy cấp.

[4]. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2006), Cẩm nang ngành Lâm nghiệp -
Chương Lâm sản ngoài gỗ, Chương trình hỗ trợ ngành Lâm nghiệp và đối tác, ed.

[5]. Quốc Hội nước cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV (2017),
"Luật số: 16/2017/QH14, Luật Lâm nghiệp thông qua ngày 15/11/2017 và có hiệu
lực từ ngày 01/01/2019".


×