Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHUYÊN ĐỀ 3 ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 77 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

CHUYÊN ĐỀ 3:
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

GVHD: TS DIỆP GIA LUẬT
Nhóm 2 - Lớp ngày 2
1. Nguyễn Hoàng Anh. 8. Nguyễn Triệu Phát
2. Tăng Hữu Cường. 9. Nguyễn Thái Sơn.
3. Nguyễn Nam Hải. 10. Đặng Thị Xuân Thảo.
4. Nguyễn Duy Hoan. 11. Ngô Duy Thái.
5. Khúc Thanh Hương. 12. Huỳnh Diễm Phương Trang.
6. Trần Ngọc Lan. 13. Nguyễn Minh Tuấn.
7. Nguyễn Thị Ái Mỹ. 14. Trần Trịnh Tiến Vũ.


Tháng 11 năm 2013

PHẦN ĐÁNH GIÁ TỈ LỆ ĐÓNG GÓP
CỦA CÁC THÀNH VIÊN NHÓM 2 – NGÀY 2

Họ và Tên Tỉ lệ(%)
Nguyễn Hoàng Anh 6,2068
Tăng Hữu Cường 7,5862
Nguyễn Nam Hải 6,2068
Nguyễn Duy Hoan 7,5862


Khúc Thanh Hương 6,8966
Trần Ngọc Lan 7,5862
Nguyễn Thị Ái Mỹ 6,8966
Nguyễn Triệu Phát 7,5862
Nguyễn Thái Sơn 6,8966
Đặng Thị Xuân Thảo 7,5862
Ngô Duy Thái 7,5862
Huỳnh Phương Diễm Trang 6,8966
Nguyễn Minh Tuấn 6,8966
Trần Trịnh Tiến Vũ 6,8966

Tổng cộng 100,0000
ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
CHƯƠNG 1 : HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 5
1.1 Khái niệm và cơ cấu của hệ thống tài chính 5
1.2 Các yêu tố cấu thành hệ thống tài chính 5
1.2.1 Thị trường tài chính 5
1.2.2 Thị trường tiền tệ và thị trường vốn 6
1.2.3 Thị trường nợ và thị trường vốn chủ sở hữu 7
1.2.4 Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp 7
1.2.5 Thị trường tập trung và thị trường OTC 8
1.3 Các chủ thể tài chính 8
1.3.1 Tài chính công 8
1.3.2 Tài chính doanh nghiệp 9
1.3.3 Các định chế tài chính 9
1.3.4 Tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình 12
1.4 Cơ sở hạ tầng tài chính 12
CHƯƠNG 2: CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 15
2.1 Những quy định về điều tiết hệ thống tài chính: 15
2.1.1 Ngân hàng: 15

2.1.2 Chứng khoán: 30
2.2 Giám sát tài chính: 32
2.2.1 Định nghĩa: 32
2.2.2 Mục đích của việc giám sát tài chính: 33
2.2.3 Đôí tượng của hoạt động giám sát tài chính bao gồm: 34
2.2.4 Nội dung của giám sát tài chính: 34
2.2.5 Những nguyên tắc cơ bản về giám sát : 35
2.3 Mô hình tổ chức giám sát và điều hành hệ thống tài chính ở Việt Nam: 39
2.4 Những hạn chế, rủi ro còn tồn tại trong hệ thống tài chính ở Việt Nam: 41
2.4.1 Đối với thị trường bảo hiểm : 41
2.4.2 Đối với thị trường chứng khoán : 42
2.4.3 Đối với thị trường ngân hàng : 44
2.4.4 Đối với cơ chế giám sát tài chính : 46
3 Một số giải pháp để phát triển các cơ chế điều tiết và giám sát nhằm ổn định, hạn chế
các rủi ro cho hệ thống tài chính Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: 48
CHƯƠNG 3: CÁC MÔ HÌNH KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 56
3.1 Khủng hoảng tài chính 56
3.1.1 Khái niệm 56
3.1.2 Một số dấu hiệu của khủng hoảng tài chính 57
3.1.3 Phân loại khủng hoảng tài chính: 58
3.1.4 Nguyên nhân và hậu quả của những cuộc khủng hoảng tài chính 61
3.2 Hướng giải quyết khủng hoảng tài chính 70
3.3 Tóm lượt một số khủng hoảng tài chính tiêu biểu 70

Page | 5

CHƯƠNG 1 : HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.1 Khái niệm và cơ cấu của hệ thống tài chính
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng,

chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy
nhiên, đó không phải là một hoạt động hỗn loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những nguyên tắc,
những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau
nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng buộc
lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài chính.
Do vậy, hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính,
mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác
động lẫn nhau theo những quy luật nhất định.
Hệ thống tài chính là một hệ thống gồm có thị trường và các chủ thể tài chính thực hiện chức
năng gắn kết cung – cầu về vốn lại với nhau. Cơ cấu hệ thống tài chính gồm:
- Thị trường tài chính
- Các chủ thể tài chính
- Cơ sở hạ tầng tài chính của thị trường tài chính
1.2 Các yêu tố cấu thành hệ thống tài chính
1.1.1 Thị trường tài chính
Sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa, với sự phân công lao động xã hội sâu sắc đòi hỏi
các chủ thể kinh tế phải năng động trong quá trình tìm kiếm và huy động các nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội. Trong khi đó, một bộ phận nhàn rỗi lại có nhu cầu tái đầu tư với lợi nhuận cao và
an toàn. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa là quá trình đa dạng hóa hình thức
luân chuyển vốn từ người có vốn sang người cần vốn, làm cho các công cụ tài chính- đối tượng
giao dịch trên các thị trường tài chính ngày càng đa dạng và có khả năng dế dàng chuyển đổi
quyền sở hữu. Đây là tiền đề quan trọng để hình thành nên thị trường tài chính
Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được kết chuyển từ nguời có vốn
dư thừa sang người thiếu vốn. Thông qua việc mua bán trao đổi các tài sản tài chính, Thị trường
tài chính là tổng hòa các mối quan hệ cung cầu về vốn. Hiểu theo cách đơn giản thì Thị trường
tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng nguồn tài chính. Việc mua bán
quyền sử dụng nguồn tài chính chủ yếu được thực hiện thông qua các công cụ tài chính( tín
Page | 6

phiếu,thương phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, chưng chỉ tiền gửi ).

Thị trường tài chính là môi trường trong đó hệ thống tài chính vận động. Dó đó đề cập đến
Thị trường tài chính không chỉ đề cập tới phương thức giao dịch, công cụ tài chính được trao đổi
mà còn đề cập tới các chủ thể hoạt động và giám sát tại đó. Việc chuyển đổi quyền sở hữu và sử
dụng các nguồn tài chính trên Thị trường tài chính thông qua các phương thức giao dịch và các
công cụ tài chính nhất định.
Chức năng cơ bản của Thị trường tài chính là dẫn vốn từ người dư thừa vốn tới người cần
vốn. Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi để cung cầu về vốn gặp nhau. Thị trường tài
chính tạo điều kiện huy động các nguồn lực tài chính trong nước và nước ngoài để phục vụ phát
triển kinh tế xã hội
Thị trường tài chính còn thể hiện chức năng giám sát thông qua sự vận động của các nguồn
tài chính
Thị trường tài chính không phải là nơi sinh ra giá trị, làm tăng giá trị mà nó chỉ thực hiện
việc chia sẻ, phân phối lợi nhuận và rủi ro giữa các chủ thể giao dịch
Phân loại thị trường tài chính:
- Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
- Thị trường nợ và thị trường vốn chủ sở hữu
- Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
- Thị trường tập trung và thị trường OTC
1.1.2 Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
- Thị trường tiền tệ
Là nơi các công cụ nợ ngắn hạn được mua bán với số lượng lớn. Các công cụ nợ ngắn hạn
lưu hành trên thị trường tiền tệ do nhà nước, các ngân hàng, các công ty lớn phát hành, có đặc
điểm là tính thanh khoản cao và rủi ro không thanh toán thấp. Các công cụ nợ của thị trường tiền
tệ bao gồm các giấy tờ có giá ngắn hạn như thương phiếu, kỳ phiếu thương mại, tín phiếu kho
bạc, các cam kết mua lại, các loại chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng,…
- Thị trường vốn
Là nơi các công cụ vốn, công cụ nợ trung và dài hạn (do các chính quyền trung ương, chính
quyền địa phương, các công ty cổ phần, doanh nghiệp phát hành) được trao đổi mua bán, chuyển
nhượng theo quy định của pháp luật. Thị trường vốn chủ yếu giao dịch các loại trái phiếu dài hạn
và cổ phiếu.

Page | 7

Việc phân định các bộ phận của thị trường tài chính chỉ là biện pháp để thuận lợi cho quá
trình nghiên cứu từng loại thị trường. Trên thực tế, rất khó có thể xác định rõ đâu là ranh giới của
khu vực tiền tệ, và đâu là pham vi hoạt động của thị trường vốn. Hai thị trường này lại có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, điều này cũng có nghĩa là các định chế tài chính có mối quan hệ hữu
cơ, chặt chẽ, mật thiết với nhau và với thị trường chứng khoán. Các biến đổi về giá cả , lãi suất
trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn, mà cụ thể là thị
trường chứng khoán. Ngược lại, những biến động trên thị trường chứng khoán như chỉ số chứng
khoán, thị giá cổ phiếu cũng ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ.
1.1.3 Thị trường nợ và thị trường vốn chủ sở hữu
Các doanh nghiệp hoặc cá nhân có thể nhận được vốn trên thị trường tài chính theo hai cách.
Cách thịnh hành nhất hiện nay là phát hành một công cụ nợ, có thể là trái phiếu hoặc hợp đồng
cầm cố. Đây là loại hợp đồng mà người đi vay phải trả cho người nắm giữ công cụ nợ một số
tiền nhất định ( lãi suất và vốn gốc) trong các khoảng thời gian bằng nhau cho tới một thời điểm
nhất định, gọi là ngày đáo hạn, khi lần thanh toán cuối cùng được thực hiện. Công cụ nợ được
coi là ngắn hạn nếu ngày đáo hạn của nó dưới một năm và dài hạn nếu ngày đáo hạn là mười
năm hoặc dài hơn. Các công cụ nợ có ngày đáo hạn nằm giữa một năm và mười năm được gọi là
trung hạn
Phương pháp thứ hai là phát hành vốn cổ phần, ví dụ như cổ phiếu phổ thông. Đây là loại trái
quyền cho phép chia sẻ thu nhập ròng( thu nhập còn lại sau khi trừ các khoản chi phí và thuế) và
tài sản của doanh nghiệp. Vốn sở hữu thường đem lại các khoản thanh toán định kỳ (cổ tức) cho
những người nắm giữ chúng và được coi là loại chứng khoán dài hạn vì không có ngày đáo hạn.
Ngoài ra, việc sở hữu cổ phiếu đồng nghĩa với việc bạn sở hữu một phần doanh nghiệp và do vậy
bạn có quyền biểu quyết để thông qua các vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp,
cũng như bầu ra thành viên hội đồng quản trị.
Nhược điểm chủ yếu của việc sở hữu vốn cổ phần trong công ty là tính rủi ro cao, tức là công
ty phải thanh toán cho tất cả cho những người nắm các khoản nợ của mình trước khi thanh toán
cho người nắm vốn cổ phần. Tuy nhiên lợi thế của việc nắm vốn cổ phần là trực tiếp thu lợi từ
bất kỳ sự gia tăng nào trong lợp nhuận của công ty hoặc giá trị tài sản.

1.1.4 Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường tài chính mà trong đó các chứng khoán mới phát hành như
trái phiếu hoặc cổ phiếu được bán cho người mua lần đầu. Người phát hành có thể là công ty
hoặc cơ quan chính phủ muốn vay vốn.
Thị trường thứ cấp là thị trường tài chính trong đó các chứng khoán đã phát hành từ trước
được mua đi bán lại
Khi một người mua một loại chứng khoán chứng khoán trên thị trường thứ cấp, người bán
chứng khoán đó nhận được tiền, còn công ty đã phát hành nó không kiếm thêm được đồng vốn
Page | 8

nào. Các công ty chỉ kiếm được vốn khi phát hành chứng khoán lần đầuvà bán ra thị trường sơ
cấp. Cho dù vậy thị trường thứ cấp vẫn làm được hai chức năng quan trọng
- Nó làm cho công cụ tài chính có tính thanh khoản cao. Do vậy doanh nghiệp dễ dàng bán
chứng khoán lần đầu trên thị trường sơ cấp hơn.
- Nó quyết định giá chứng khoán mà doanh nghiệp phát hành bán ra trên thị trường sơ cấp.
Tức là giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp càng cao, thì giá mà doanh nghiệp phát
hành nhận được khi phát hành chứng khoán mới trên thị trường sơ cấp càng cao. Do đó
lượng vốn tài chính mà nó có thể nhận được càng nhiều.
1.1.5 Thị trường tập trung và thị trường OTC
Thị trường thứ cấp có thể được tổ chức theo 2 cách. Một là tổ chức thành sở giao dịch, nơi
người mua và người bán chứng khoán đã niêm yết gặp nhau, thường là một địa điểm tập trung để
thực hiện hoạt động trao đổi. Cách khác để tổ chức thị trường thứ cấp là chấp nhận thị trường
qua quày OTC. Trong thị trường này, nhà buôn phải nắm giữ một số chứng khoán nhất định và
sẵn sàng mua bán với bất kỳ ai, miễn là những người này chấp nhận giá mà họ đưa ra. Do các
nhà buôn OTC liên hệ với nhau bằng máy tính và biết giá cả của nhau, nên thị trường OTC có
tính cạnh tranh cao và không khác sở giao dịch có tổ chức nhiều lắm. Trên thị trường OTC,
chứng khoán được giao dịch là chứng khoán chưa niêm yết ở Sở Giao dịch Chứng khoán
1.3 Các chủ thể tài chính
Các chủ thể tài chính bao gồm các thẻ nhân và pháp nhân tài chính ở khu vực tư hoạt động
theo những nguyên tắc hay cơ chế nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, cấu thành các chủ thể

tài chính tương ứng với từng khu vực hình thành nên các khâu tài chính như: tài chính công
(Public finance), tài chính doanh nghiệp (Business/corporate finance), định chế tài chính
(Financial institutions) và tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình (Personal or Household finance)
1.1.6 Tài chính công
Tài chính công được đặc trưng bằng các quỹ tiền tệ của các định chế thuộc khu vực công gắn
liền với việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Các tổ chức tài chính công bao gồm các đơn
vị thuộc hệ thống cơ quan công quyền, các đơn vị cung cấp dịch vụ công
Tài chính công tác động đến sự hoạt động và phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội, một
mặt khắt phục thất bại thị trường, mặt khác thực hiện tái phân phối thu nhập đảm bảo công bằng
xã hội. Điều này được thể hiện bằng quá trình phân phối và phân phối lại của quỹ ngân sách nhà
nước. Tài chính công thực hiện huy động và tập trung một bộ phận nguồn tài chính từ các định
chế tài chính khác chủ yếu qua thuế và các khoản thu mang tính chất thuế. Trong trường hợp
ngân sách bị thiếu hụt, thì chính phủ tham gia trên thị trường tài chính bằng việc phát hành trái
phiếu để vay nợ,… Trên cơ sở nguồn lực huy động được, chính phủ sẻ dụng quỹ ngân sách để
tiến hành cấp phát kinh phí, tài trợ vốn cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị thuộc các khu vực
kinh tế nhằm thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Page | 9

1.1.7 Tài chính doanh nghiệp
Chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời đây cũng là nơi thu hút trở lại phần
quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. trong hệ thống tài chính, tài chính doanh
nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy nó có khả
năng tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất. Tài
chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính trong quá
trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung khác nhau, quá trình kinh doanh chứng khoán
trên thị trường chứng khoán. mỗi quan hệ đều có những nét khác biệt và có những tác động khác
nhau đến tài chính doanh nghiệp. Chính sự đa dạng này phản ánh mối quan hệ giữa tài chính
doanh nghiệp với các bộ phận khác trong hệ thống tài chính.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng cơ bản của bộ phận tài chính doanh nghiệp thể hiện ở
chỗ: nó bao gồm những quan hệ tài chính vận hành theo cơ chế kinh doanh hướng tới lợi nhuận

cao. Chính nhờ cơ chế này mà nguồn tài chính được tăng cường và mở rộng không ngừng, đáp
ứng tốt nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.8 Các định chế tài chính
Các định chế tài chính là những định chế thực hiện chức năng cơ bản chu chuyển nguồn vốn
từ các chủ thể tiết kiệm (thừa vốn) đến các chủ thể cần vốn. Khi nhấn mạnh chức năng trung gian
chu chuyển vốn, các nhà kinh tế thường gọi các định chế tài chính là các trung gian tài chính.
Các định chế tài chính gồm: ngân hàng, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty tài chính,
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, các định chế ngày càng hoàn thiện
và đa dạng các công cụ huy động vốn và tài trợ vốn. Ngoài nguồn vốn điều lệ, cơ cấu nguồn vốn
huy động của các định chế tài chính còn có vốn huy động từ các loại tiền gửi, cung cấp hợp đồng
bảo hiểm, phát hành các loại chứng khoán. Kèm theo đó, các định chế tài chính áp dụng nhiều
biện pháp phòng chống rủi ro và cung cấp nhiều tiện ích để bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư.
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, các định chế tài chính tiến hành xây dựng danh mục đầu
tư, phát triển theo mô hình kinh doanh đa năng trên nhiều lĩnh vực, qua đó đáp ứng tối đa nhu
cầu vốn và các dịch vụ tài chính cho xã hội.
1.1.8.1 Định chế nhận tiền gửi
Các định chế nhận tiêng gửi là các trung gian tài chính nhận tiền gởi từ các cá nhân và tổ
chức, sau đó tiến hành cho vay, bao gồm các ngân hàng thương mại, các định chế tiết kiệm như
hiệp hội tiết kiệm và cho vay, ngân hàng tiết kiệm hỗ trợ và liên minh tín dụng.


Page | 10

a) Ngân hàng thương mại
Loại hình trung gian tài chính này gọi vốn trước hết bằng cách phát hành tiền gửi séc, tiền
gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó họ sử dụng số vốn thu được để cung cấp các khoản
cho vay thương mại, tín dụng người tiêu dùng, hợp đồng cầm cố, mua chứng khoán của chính
phủ và trái phiếu chính phủ
b) Hiệp hội tiết kiệm và cho vay
Các định chế nhận tiền gửi từ loại này gồm khoảng 1500 cơ sở. Chúng nhận được vốn trước

hết thông qua tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi séc. Trước đây, các định chế này
bị giới hạn hoạt động chủ yếu thực hiện các khoản cho vay cầm cố để mua nhà ở. Theo thời gian,
nhiều hạn chế dần dần được nới lỏng và vì vậy sự phân biệt giữa chúng và ngân hàng thương mại
trở nên không rõ ràng. Do vậy hai dạng trung gian này ngày càng trở nên giống nhau hơn và hiện
nay có khả năng cạnh tranh với nhau nhiều hơn
c) Liên minh tín dụng
Đây là các hợp tác xã rất nhỏ được tổ chức thành đơn vị, bao gồm thành viên công đoàn hay
người lao động của một doanh nghiệp nhất định. Họ gọi vốn bằng cách thu hút tiền gửi dưới
dạng cổ phần và chủ yếu cung cấp tín dụng tiêu dùng
d) Định chế tiết kiệm theo hợp đồng
Định chế tiết kiệm theo hợp đồng, chẳng hạn công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí, là trung gian
tài chính thu hút vốn định kỳ trên cơ sở hợp đồng. Do có thể dự báo với mức độ chính xác hợp lý
là cần thanh toán bao nhiêu trợ cấp trong năm tới, nên họ không lo lắng nhiều như định chế tiền
gửi nhận tiền gửi về việc mất vốn. Cho nên họ không quan tâm nhiều tới tính thanh khoản như
các định chế nhận tiền gửi. Vì lý do đó, họ có xu hướng đầu tư vốn của mình trước hết vào
chứng khoán dài hạn như trái phiếu công ty, cổ phiếu và hợp đồng cầm cố.
e) Công ty bảo hiểm nhân thọ
Công ty bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho mọi người để chống lại các rủi ro về tài chính
sau khi chết và bán lợi tức đồng niên (trả thu nhập hàng năm sau khi nghỉ hưu). Họ thu hút vốn
bằng phí bảo hiểm mà mọi người trả để giữ cho hợp đồng của mình có hiệu lực và sử dụng nó
chủ yếu để mua trái phiếu công ty và cho vay cầm cố. Họ cũng mua cổ phiếu, nhưng bị hạn chế
bởi số tiền mà họ có thể nắm giữ.
f) Công ty bảo hiểm hỏa hoạn và tai nạn
Các công ty này bảo hiểm cho người có hợp đồng bảo hiểm với mình chống lại các tổn thất
do trộm cắp, hỏa hoạn và tai nạn. Chúng rất giống công ty bảo hiểm nhân thọ: nhận được vốn
thông qua phí bảo hiểm trả cho các hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, ở đây có nguy cơ bị mất vốn
lớn hơn nếu các tai nạn lớn xảy ra. Vì lý do này, chúng sử dụng vốn của mình để mua các tài sản
có tính thanh khoản cao hơn so với công ty bảo hiểm nhân thọ.
Page | 11


g) Quỹ hưu trí tư nhân và quỹ hưu trí của chính phủ
Quỹ hưu trí tư nhân và các quỹ hưu trí của chính quyền địa phương cung cấp thu nhập hưu trí
dưới dạng lợi tức đồng niên cho những người lao động là thành viên của các chương trình hưu
trí. Quỹ thu hút tiền gửi thông qua các khoản đóng góp của người chủ hoặc người lao động dưới
dạng tự động trừ vào quỹ lương hoặc đóng góp tự nguyện.
1.1.8.2 Trung gian đầu tư
Loại hình trung gian tài chính này bao gồm các công ty tài chính, quỹ hỗ tương và quỹ hỗ
tương trên thị trường tiền tệ
a) Công ty tài chính
Công ty tài chính thu hút vốn bằng cách bán thương phiếu (công cụ nợ ngắn hạn) và bằng
cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Họ cho người tiêu dùng muốn mua các hàng hóa như đồ
nội thất, ô tô và cải tạo nhà ở hoặc cho các doanh nghiệp nhỏ vay số vốn này. Một số công ty tài
chính được công ty mẹ tổ chức ra với mục đích góp phần bán sản phẩm của mình. Ví dụ, công ty
Tín dụng của công ty Ford Motor thực hiện các khoản cho vay đối với những người tiêu dùng
muốn mua ô tô Ford
b) Quỹ hỗ tương
Các trung gian tài chính này thu hút vốn bằng cách bán cổ phần cho nhiều cá nhân và sử
dụng số tiền thu được để mua một danh mục đầu tư đa dạng, bao gồm nhiều cổ phiếu và trái
phiếu. Quỹ hỗ tương cho phép cổ đông tập trung nguồn lực để tận dụng lợi thế về chi phí giao
dịch thấp hơn khi mua nhiều loại cổ phiếu hoặc trái phiếu. Ngoài ra quỹ hỗ tương cho phép cổ
đông nắm giữ danh mục đầu tư đa dạng hơn. Cổ đông có thể bán cổ phiếu tại bất kỳ thời điểm
nào, nhưng giá trị cổ phiếu này bị quy định bởi giá trị của chứng khoán mà quỹ hỗ tương nắm
giữ. Do giá của chứng khoán này biến động mạnh, nên giá trị cổ phiểu của quỹ hỗ tương cũng
vậy. Cho nên, việc đầu tư vào quỹ hỗ tương khá rủi ro
c) Quỹ hỗ tương của thị trường tiền tệ
Loại hình định chế tài chính tương đối mới này có đặc trưng của một quỹ hỗ tương, nhưng
trong một chừng mực nào đó, chúng hoạt động như một định chế nhận tiền gửi do chúng sẵn
sàng mở tài khoản dạng tiền gửi. Giống như hầu hết quỹ hỗ tương, chúng bán cổ phần để thu hút
vốn và sau đó sử dụng số vốn này để mua các công cụ trên thị trường tiền tệ vừa an toàn, vừa có
tính thanh khoản cao. Lãi suất thu được từ các tài sản này sau đó được trả cho các cổ đông

Đặc điểm then chốt của loại quỹ này là cổ đông có thể viết séc vào giá trị của số cổ phần mà
họ nắm giữ. Kết quả là, cổ phần của quỹ hỗ tương trên thị trường tiền tệ có tác dụng giống như
tiền gửi trong tài khoản viết séc đêm lại lãi suất ở ngân hàng
Page | 12

1.1.9 Tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình
Theo nghĩa rộng tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình là một định chế tài chính vốn quan trọng
trong hệ thống tài chính. Đặc trưng cho bộ phận hoạt động tài chính này là sự tồn tại của các quỹ
tiền tệ được sở hữu bởi cá nhân hoặc hộ gia đình bao gồm thu nhập từ lao động, thu nhập từ gốp
vốn đầu tư cho kinh doanh và từ đầu tư tài chính, thu nhập từ tài sản thừa kế và quà tặng,… Với
nguồn thu nhập có được, các cá nhân hoặc hộ gia đình thực hiện các quyết định tài chính: lập kế
hoạch chi tiêu (phân chia giữa tiêu dùng và tiết kiệm); lựa chọn các doanh mục đầu tư cho phần
tiết kiệm trên cơ sở phân bố mức tài trợ cho chi tiêu đối với các hoạt động như giáo dục, y tế,
mua sắm các loại hàng hóa có tính bền lâu(đất đai, nhà cửa,…), mua bảo hiểm và các hoạt động
đầu tư tài chính khác. Việc xây dựng doanh mục chi tiêu của các ca nhân hoặc hộ gia đình lệ
thuộc nhiều vào chu kỳ kinh tế. Khi nên kinh tế tăng trưởng cao thì thu nhập dành cho tiêu dùng
của cá nhân hoặc hộ gia đình cũng gia tăng theo và ngược lại. Mức độ phát triển hệ thống tài
chính có tác động rất lớn đến việc phát triển các hoạt động đầu tư tài chính của cá nhân hoặc hộ
gia đình; quản lý rủi ro gắn liền với các hoạt động tài chính trên cơ sở tiếp cận các dịch vụ được
cung cấp trên thị trường tài chính.
1.4 Cơ sở hạ tầng tài chính
Cơ sở tài chính là những nền tảng để qua đó các doanh nghiệp, nhà đầu tư, cá nhân lập kế
hoạch và thực hiện các diao dịch tài chính với các định chế tài chính và thị trường tài chính. Cơ
sở hạ tầng tài chính hỗ trợ và thúc đẩy sự hoạt động hiệu quả của hệ thống tài chính. Các thành
phần của cơ sở hạ tầng:
- Hệ thống luật pháp và quản lý nhà nước
- Hệ thống thông tin
- Hệ thống giám sát
- Hệ thống thanh toán
- Hệ thống dịch vụ chứng khoán

- Nguồn nhân lực
Trong nền kinh tế hiện đại, các cơ sở hạ tầng tài chính phải được phát triển dựa trên sáng
kiến của những người tham gia thị trường. Thị trường hoạt động hiệu quả khi những người tham
gia thị trường tự phát triển các cơ chế tiều tiết tạo ra sự tương thích giữa các các động cơ khuyến
khích và hành vi.
Theo kinh nghiệm các nước phát triển, việc thành lập các hiệp hội tự quản để điều tiết thị
trường tỏ ra rất hiệu quả. Tuy nhiên cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng phát huy tác
dụng, mà cần có sự tác động của nhà nước. Nhà nước có vai trò quan trọng trong phát triển cơ sở
hạ tầng tài chính. Đặc biệt, để đáp ứng mục tiêu can thiệp và đảm bảo sự ổn định tài chính cũng
Page | 13

như giải quyết các vấn đề ngoại tác, thông tin bất cân xứng, tâm lý ỷ lại, các quy định của nhà
nước cần tập trung là:
- Quy định cấu trúc: gồm quy định các loại hình hoạt động, sản phẩm tài chính, phạm vi
hoạt động của các định chế tài chính.
- Quy định an toàn: gồm các quy định thuộc về quản trị bên trong của các định chế tài
chính
- Quy định bảo vệ các nhà đầu tư: gồm các quy định bảo vệ quyền lợi các nhà đầu tư, ngăn
chặn các hành vi lợi dụng chức quyền, mua bán thông tin nội gián, gian lận.
Chi tiết hơn:
- Quy định về cấp giấy phép hành nghề
- Những yêu cầu minh bạch thông tin
- Bảo hiểm tiền gởi
- Giới hạn các nghiệp vụ hoạt động
- Quy định tính lỏng, dự trữ ngân quỹ
- Quy định vốn pháp định
- Quy định các giao dịch tài chính (ngoại hối,…)
Hoạt động của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường:













Ngư
ời tiết kiệm
-

cho vay

Hộ gia đình
Doanh nghiệp
Chính phủ
Người nước ngoài
Ngư
ời chi ti
êu


đi

vay

Doanh nghiệp

Chính phủ
Hộ gia đình
Người nước ngoài
Thị trường tài
chính
V
ốn

V
ốn

Tài trợ trực tiếp
Trung gian tài
chính
V
ốn

V
ốn

V
ốn

V
ốn

Tài tr
ợ gián tiếp

V

ốn

Page | 14


Hệ thống tài chính vận hành theo nguyên tắc là tạo ra kênh chuyển tải vốn từ người thừa vốn
đến người cần vốn. Các chủ thể thừa vốn như hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ hay các cá
nhân nước ngoài sử dụng vốn để đầu tư trực tiếp vào thị trường tài chính hoặc có thể thông qua
các định chế tài chính trung gian để sử dụng vốn còn dư vào mục đích đầu tư kiếm lời.
Trong kênh tài trợ trực tiếp người đi vay trực tiếp vay vốn từ người cho vay trên thị trường
tài chính bằng cách bán chứng khoán (công cụ tài chính) cho họ. Lấy 1 ví dụ công ty đang cần
vốn để thực hiện một dự án kinh doanh, nó có thể vay vốn từ những người tiết kiệm bằng cách
bán cho nọ trái phiếu, tức là chứng chỉ nợ hứa hẹn sẽ trả tiền định kỳ trong một khoảng thời gian
nhất định.
Trong kênh tài trợ gián tiếp, người đi vay có thể vay được vốn thông qua các định chế tài
chính trung gian như ngân hàng để có thể tiếp cận với các nguồn vốn từ những chủ thể dư vốn ở
ngoài thị trường. Các định chế tài chính trung gian sẽ ăn lời dựa vào chênh lệch lãi suất của
người đi vay và người gửi tiền.
Khi hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả nó sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và gia
tăng phúc lợi xã hội, người gửi tiền sẽ dễ dàng sử dụng nguồn vốn của mình qua thị trường tài
chính một cách nhanh chóng và thuận tiện, còn người cần tiền cũng sẽ dễ dàng tiếp cận được với
nguồn vốn nhàn rỗi trong thị trường và ngược lại nếu hệ thống hoạt động không có hiệu quả, sẽ
kìm hãm sự phát triển làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, vốn nhàn rỗi không tiếp cận
được với người cần vốn, còn những người muốn gửi tiền thì không có nơi để có thể gửi một cách
hiệu quả.
Mặt khác sự tồn tại của thị trường tài chính cũng có lợi ngay cả khi một người nào đó muốn
vay nợ để phục vụ cho mục đích khác ( kết hôn, du lịch,…) chứ không phải gia tăng sản xuất.
Nói tóm lại cơ chế hoạt động của hệ thống tài chính hoạt động trong nền kinh tế thị trường là
phân bổ vốn một cách có hiệu quả , chúng cho phép vốn chuyển từ người không có cơ hội đầu tư
vào sản xuất sang cho người có các cơ hội như thế.


Page | 15

CHƯƠNG 2: CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU TIẾT VÀ GIÁM SÁT HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

2.1 Những quy định về điều tiết hệ thống tài chính:
2.1.1 Ngân hàng:
2.1.1.1 Quy định về bảo hiểm tiền gửi:
a) Khái niệm Bảo hiểm tiền gửi:
Bảo hiểm tiền gửi được hiểu là việc cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với các tổ chức
tín dụng tham gia BHTG về việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền cho người dân khi tổ chức tín dụng
mất khả năng thanh toán.
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) được xem như một phương án dự phòng khi bất ổn xảy ra cho
ngân hàng cũng như trấn an người dân để họ không rút toàn bộ tiền gửi do lo ngại ngân hàng mất
khả năng thanh khoản. Tổ chức BHTG thường hoạt động theo mô hình cơ quan của nhà nước
độc lập với Chính phủ. Đa phần các tổ chức tín dụng và ngân hàng phải tham gia bắt buộc
BHTG trong đó có Việt Nam.
Bảo hiểm tiền gửi được hình thành bắt nguồn từ những quan ngại của người gửi tiền về
sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng, những thông tin không mấy khả quan về tình hình hoạt động
của các ngân hàng được công bố như: nợ xấu, thanh khoản sụt giảm, yếu kém trong quản
lý…làm ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin của người gửi tiền dẫn đến khả năng các khách hàng có
thể rút tiền khỏi các ngân hàng và dẫn vốn vào những kênh đầu tư khác. Trong khi đó hệ thống
ngân hàng lại được xem như một kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế, việc thiếu đi nguồn
tiền gửi từ các khách hàng sẽ dẫn đến tình trạng thiếu vốn để cung cấp cho sự phát triển của nền
kinh tế cũng như sự phát triển của ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Trong
những tình huống xấu hơn, các biến động không tốt trong hệ thống tài chính có thể dẫn đến vệc
rút tiền hàng loạt của người gửi tiền dẫn đến việc ngân hàng có thể mất khả năng thanh toán
thậm chí đi đến sụp đỗ. Nếu không có biện pháp gì được thực hiện để khôi phục lòng tin của
người gửi tiền, sự sụp đổ trong hệ thống ngân hàng hoàn toàn có thể lại xảy ra.
Để giải quyết vấn đề trên, tại Việt Nam cũng như đa số các quốc gia khác trên thế giới đã

sử dụng “Bảo hiểm tiền gửi” như là một biện pháp điều tiết hữu hiệu để khôi phục lại lòng tin
của công chúng và tránh xảy ra các biến động bất lợi đối với thị trường tài chính.

Page | 16

b) Hạn chế của BHTG:
Một câu hỏi được đặt ra là sự lan rộng này của bảo hiểm tiền gửi trên thế giới có phải là một điều
tốt? Liệu nó có giúp cải thiện hoạt động của hệ thống tài chính và ngăn chặn các cuộc khủng
hoảng ngân hàng?
Trong nhiều trường hợp, bảo hiểm tiền gửi lại tạo ra nhiều tác động tiêu cực đến hệ thống tài
chính. Nghiên cứu tại Ngân hàng Thế giới đã cho thấy rằng, trung bình, việc thông qua bảo hiểm
tiền gửi (explicit) của chính phủ ít có liên quan tới sự ổn định trong khu vực ngân hàng và có
nhiều liên quan hơn đối với các cuộc khủng hoảng ngân hàng. Hơn nữa, tính theo trung bình,
điều này dường như còn làm chậm quá trình phát triển tài chính.
Khi tham gia bảo hiểm tiền gửi, các TCTD và ngân hàng cho rằng họ đã được bảo đảm an toàn,
do đó, họ có thể tham gia đầu tư vào các hoạt động rủi ro hơn mà không cần kiểm soát nhiều.
Bên cạnh đó, người gửi tiền và người cho vay được bảo vệ có rất ít lý do để giám sát các hoạt
động của tổ chức tài chính, mà không có sự can thiệp của chính phủ, những kẻ xấu có thể lợi
dụng điều này để gian lận hay tham ô để kiếm tiền, trục lợi cho các hoạt động cá nhân họ, làm
cho hoạt động của các TCTD chứa đựng nhiều rủi ro hơn, có nguy cơ đổ vỡ cao hơn. Từ đó, làm
cho hoạt động của thị trường tài chính bất ổn.
Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của bảo hiểm tiền gửi chỉ xuất hiện ở những nước có môi
trường thể chế yếu kém: một sự thiếu vắng các quy định của pháp luật, việc điều tiết và giám sát
ngành tài chính không hiệu quả, và tình trạng tham nhũng cao. Đây chính xác là điều có thể kỳ
vọng bởi vì một môi trường thể chế hoàn thiện là cần thiết để hạn chế động cơ xảy ra các rủi ro
đạo đức do các ngân hàng dựa vào bảo hiểm tiền gửi tự cho phép mình tham gia vào các hoạt
động có mức độ rủi ro vượt mức có thể chấp nhận. Vấn đề là phát triển một môi trường thể chế
hoàn thiện thì có thể rất khó khăn tại thị trường các nước mới nổi. Điều này cho chúng ta đưa ra
kết luận như sau: Việc thông qua bảo hiểm tiền gửi có thể là phương pháp sai lầm để thúc đẩy sự
ổn định và hiệu quả của hệ thống ngân hàng ở thị trường các nước mới nổi.

c) Thực trạng tại VN:
Tổ chức BHTG Việt Nam – DIV (Deposit Insurance of Vietnam) được thành lập tháng 7/2000
với mục tiêu được đề ra là bảo vệ người gửi tiền và tham gia đảm bảo an toàn hệ thống tài chính
ngân hàng. Nhưng trong tình hình hiện nay chúng ta có thể đánh giá cả 2 mục tiêu trên đều khó
đạt được.
Page | 17

Thứ nhất, mức thu phí BHTG ở Việt Nam hiện nay được áp dụng đồng hạng 0,15% trên tổng số
dư tiền là không hợp lý. Theo các quy định của pháp luật về BHTG thì mức phí bảo hiểm tiền
gửi không phân biệt về quy mô, hình thức sở hữu cũng như mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng
tham gia bảo hiểm. Chính điều đó đã gây ra sự không công bằng trong hệ thống ngân hàng. Trái
với xu hướng trên thế giới, phí bảo hiểm tiền gửi được áp dụng theo phân loại ngân hàng, ngân
hàng nào hoạt động yếu kém, quy mô nhỏ và nguy cơ rủi ro lớn thì mức phí bảo hiểm sẽ cao
hơn.
Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ dự trữ bảo hiểm tiền gửi (quỹ BHTG/Tổng số dư tiền gửi được bảo
hiểm) thường là 2,5% – 3%. Tỷ lệ này ở nước ta là khoảng 1%, khá thấp so với các nước khác
như Mỹ 1.25%, Thụy Điển 2,5%, Đài Loan 5%, Croatia 5% và ở Kenya là 20%. Sau hơn 10 năm
hoạt động, quỹ DIV mới chỉ phải chi trả tiền bảo hiểm trên 18 tỷ đồng trên 6000 tỷ đồng quỹ
hiện có. Nhưng 6000 tỷ đồng chỉ bằng 2 lần vốn điều lệ tối thiểu của 1 ngân hàng thương mại cổ
phần, trong khi DIV hiện đã cấp chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho 37 ngân hàng TMCP, 5 ngân
hàng nhà nước và gần 1000 tổ chức tín dụng trên toàn Việt Nam. Do đó khi hệ thống ngân hàng
bất ổn, số tiền 6000 tỷ đồng trong quỹ của DIV rất khó có thể đảm bảo khả năng chi trả dù chỉ là
mức chi trả tối thiểu cho người gửi. Theo số liệu của DIV, tính đến cuối năm 2011, tổng số phí
thu được từ các tổ chức tham gia là 6.074 tỉ đồng, với mức tăng trung bình hằng năm trên 20%.
Hình 1. Tỷ lệ dự trữ Bảo hiểm Tiền gửi một số nước trên thế giới

Page | 18


Thứ hai, mức chi trả tối đa của BHTG ở Việt Nam hiện tại là quá thấp không đảm bảo được

niềm tin của người gửi khi có biến cố xảy ra. 50 triệu là mức chi trả tối đa cho 1 người với đối
với 1 ngân hàng hay 1 tổ chức tín dụng. Điều đó có nghĩa là nếu bạn có 1 tỷ bạn phải gửi vào ít
nhất 20 ngân hàng thì mới có thể được đảm bảo an toàn nếu tất cả các ngân hàng đồng loạt phá
sản. Hiện tại 50 triệu tương đương 2.14 lần GDP đầu người Việt Nam năm 2010 thấp hơn nhiều
so với các nước khác và trong khu vực (tỉ lệ này ở Mỹ là 5.40 lần và ở Philippin là 5,42 lần).
Hình 2. Cơ cấu Tiền gửi ở Việt Nam theo số tiền.


Theo biểu đồ trên, tiền gửi ở mức dưới 50 triệu chỉ chiếm 19% tổng số tiền gửi bảo hiểm. Nếu
các ngân hàng ngừng hoạt động, trên 81% tổng lượng tiền gửi sẽ không được chi trả đủ 100% số
tiền gốc và lãi. Hiện nay, có rất nhiều người dân gửi hàng tỷ đồng nhàn rỗi vào ngân hàng nhưng
khi có rủi ro xảy ra, họ chỉ nhận được 50 triệu đồng thì gần như bảo hiểm không có nhiều ý
nghĩa.
Thêm vào đó, DIV không bảo hiểm cho các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ hoặc vàng. Trong khi
theo thống kê gần nhất của NHNN, hệ thống ngân hàng đang giữ hộ người dân khoảng 30 tỷ đô
và 100 tấn vàng (5 tỷ USD). Do không được bảo hiểm nên người dân có tâm lý muốn rút ngoại
tệ và vàng ra khỏi ngân hàng khi có bất ổn trong nền kinh tế. Ngân hàng không thể ngay lập tức
Page | 19

quy đổi những khoản đầu tư vào bất động sản, hàng hóa và tài sản sinh lợi khác thành vàng và đô
la để trả cho người dân, thanh khoản cạn kiệt, có thể dẫn đến sụp đổ hàng loạt hệ thống ngân
hàng.
Như vậy, những quy định về mức thu phí, loại tiền được bảo hiểm và mức chi trả tối đa của
BHTG hiện nay đã không phát huy được những yếu tố hỗ trợ trong tình hình tài chính bất ổn.
Theo ước tính hiện tại thì khoàng 60 ~ 65% lượng tiền gửi tại các thương mại là của người dân.
Trong trường hợp xấu, khi người dân rút tiền hàng loạt, những ngân hàng nhỏ, yếu kém sẽ phải
chịu những tác động đầu tiên và nếu không có sự hỗ trợ kịp thời của ngân hàng nhà nước, nguy
cơ đổ vỡ là không thể tránh khỏi.
2.1.1.2 Hiệp ước vốn Basel:
a) Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel:

Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS)
được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của
10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng
loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân
hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada,
Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha,Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy
ban được nhóm họp 4 lần trong một năm.
Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở
Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt
phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên. Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng
đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước.
Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban
này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay
vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát
rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng
lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của
chính họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn
chung mà không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên.
Page | 20

Ủy ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân
hàng của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Những tiêu
chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng trong công việc
của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản là: (1)
không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát
phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành
rất nhiều văn bản, tài liệu liên quan đến vấn đề này.
Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó được đề
cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ thống này cung cấp
khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ biến

trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng
hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp
ước vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về
vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành. Sau khi Basel II không thể ngăn chặn
được cuộc khủng hoảng toàn cầu , Basel III ra đời.
b) Những quy định cơ bản về Basel I ,II ,III:
Basel I :
 Mục đích của Basel I : Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế .
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh
không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
 Tiêu chuẩn của Basel I:
(1) Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - “Tỉ lệ Cook”: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục đích
củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc
tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng
phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp
khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc/Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
(RWA)

Page | 21

Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi
CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm
trọng khi CAR < 2%.
(2) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa
mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của
ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định: Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự
phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố (Lợi nhuận
giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất báo cáo tài

chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng đánh giá lại tài
sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn
ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
(3) Vốn tính theo rủi ro gia quyền:
RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân đối kế toán)
+ Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)


Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức: quốc gia 0%; ngân hàng 20%; doanh nghiệp
100% Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại này.
 Những thiếu sót của Basel I: Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ
ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động
kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996,
Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả chi phí vốn đối với rủi ro thị trường.
Mặc dù vậy, Basel I vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế cơ bản
của Basel I là không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ
ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận hành (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành).
Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: không phân biệt theo loại rủi ro, không có lợi
ích từ việc đa dạng hóa…
Page | 22

Basel II:
 Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc
tế; Tạo lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện
quốc tế; Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi
ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel I. Mục
tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều tiết dựa trên

tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà sẽ dựa nhiều hơn
vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
 Nội dung Basel II : Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối
thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính
toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi
ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng
có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản
mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150%
hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này cũng
cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống, rủi
ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp
lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các ngân hàng cần
phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải
có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ hai, các giám sát viên nên
rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như
khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số
hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này. Thứ ba,
Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy
định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng
Page | 23

không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức
vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải
công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông

tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro
vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân
hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo
vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
 Ưu điểm của Basel II so với Basel I:
 Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là
“yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội
bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên nguyên tắc
thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia được tăng lên bởi họ cần phải
đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm rủi ro cụ thể của nó.
 Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả các ngân
hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp khuyến
khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
 Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn với
rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công
khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
 Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 - 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation and
Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao
gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
 Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa nhận về kỹ
thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo, phái sinh
tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
Page | 24

 Hạn chế của Basel II :
Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ
công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại đã
cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Đó là:

 Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có thể được
chấp nhận rộng rãi.
 Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu kỳ kinh
doanh.
 Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm dịch vụ có
khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao
Basel III:
 Mục tiêu của Basel III: Hạn chế rủi ro, phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng tái phát và
ràng buộc các ngân hàng vào trách nhiệm.
 Nội dung của Basel III:
Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và hệ lụy lâu dài của
chúng đối với hệ thống tài chính - ngân hàng toàn thế giới, Uỷ ban Basel một lần nữa lại dự
thảo và thông qua phiên bản thứ 3 (Basel 3) về các tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu. Nội dung
bao trùm là:
 Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%.
 Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%.
 Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2,5%.
 Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo
chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được đảm bảo bằng vốn
chủ sở hữu phổ thông (common equity). Phần vốn dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường
hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng
một cách có hệ thống.
Page | 25

Ngoài ra, Basel 3 còn đưa ra các biện pháp giám sát chặt chẽ các ngân hàng và nhằm ngăn
chặn việc lạm dụng chia thưởng, hoặc chia cổ tức cao trong bối cảnh tình trạng tài chính và
tỷ lệ an toàn vốn không đảm bảo. Basel 3 cũng đồng thời rà soát lại các tiêu chuẩn (định
nghĩa) vốn cấp 1, vốn cấp 2 và sẽ loại bỏ các khoản vốn không đủ tiêu chuẩn khi giám sát chỉ
tiêu an toàn vốn tối thiểu.
Như vậy, có thể thấy rằng, loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài chính 2,5%, tiêu

chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy nhiên, kết cấu của các loại vốn
đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1, đồng thời tăng tỷ trọng vốn
chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ cả 2 khoản vốn đệm dự phòng suy
giảm tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu được điều
chỉnh tăng từ 2% (Basel 2) tăng lên thành 9,5% (4,5% + 2,5% + 2,5%) ở Basel 3. Nếu loại
trừ phần vốn đệm chống chu kỳ kinh tế 2,5% (không bắt buộc trong điều kiện bình thường)
thì mức tối thiểu vốn chủ cũng phải đạt mức 7%. Bên cạnh đó, có thể một số khoản trước đây
được tính vào vốn chủ sở hữu nay phải bóc tách ra vì không đủ điều kiện coi là vốn chủ sở
hữu. Chẳng hạn, khoản vốn vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ chức tài chính khác,
khoản vốn có nguồn gốc từ số thuế thu nhập lưu kỳ (hoãn lại) Vì thế, yêu cầu nâng cao tỷ
lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều ngân hàng xét trong bối cảnh
kinh tế xã hội đang có nhiều biến động.
Các tiêu chuẩn của Basel 3 không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu có hiệu lực từ năm
2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực hiện đầy đủ vào ngày
1/1/2019. Bảng sau sẽ cho thấy lộ trình cụ thể của việc thực thi hiệp ước Basel 3:
Ch
ỉ ti
êu

2013

2014

2015

2016

2017

2018


2019

T
ỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu

3,5%

4.0%

4,5%

4,5%

4,5%

4,5%

4,5%

V
ốn đệm dự ph
òng

-

-

-


0,62
5%

1.25%

1,875%

2,5%

Vốn chủ sở hữu tối thiểu cộng vốn
đệm dự phòng
3,5%

4%

4,5%

5,125%

5,76%

6,375%

7%

Loại trừ khỏi vốn chủ sở hữu các
-

20%


40%

60%

80%

100%

100%

×