Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Sáng kiến ngữ văn 9 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.63 MB, 42 trang )

PHỊNG GD&ĐT CON CNG
TRƯỜNG PT DÂN TỘC NỘI TRÚ THCS CON CUÔNG

ĐỀ TÀI:
“Một số giải pháp
nâng cao hiệu quả tiết dạy văn bản
trong chương trình Ngữ văn 9 theo
định hướng phát triển năng lực học sinh”

Lĩnh vực: Ngữ văn
Tác giả: Nguyễn Thị Thơ
Năm thực hiện: 2020 – 2021
Số điện thoại: 0974879986

1

MỤC LỤC

TT TIÊU MỤC TRANG

Phần 1 Đặt vấn đề 4

I Lí do chọn đề tài 4

II Mục đích nghiên cứu 5

III Phạm vi, đối tượng, thời gian nghiên cứu 5

IV Phương pháp nghiên cứu 5

Phần 2 Nội dung 7



I Cơ sở lí luận 7

II Cơ sở thực tiễn 7

III Giải pháp thực hiện 8

1 Sử dụng phương pháp trực quan 8

2 Sử dụng phương pháp trò chơi 12

3 Sử dụng phương pháp dùng lời bình nghệ thuật kết hợp thơ 15
hoăc câu chuyện liên quan đến tác phẩm

4 Vận dụng một kĩ thuật dạy học tích cực 20

5 Sử dụng phương pháp kết hợp dạy học trên lớp với hình 23
thức ngoại khóa – trải nghiệm

6 Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới một cách chi tiết. 24

Phần 3 Kết luận 26

I Kết quả đạt được 26

II Bài học kinh nghiệm 27

III Kiến nghị 28

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NL Năng lực
GD& ĐT Giáo dục và Đào tạo
THCS Trung học cơ sở
PPDH Phương pháp dạy học
GV Giáo viên
HS Học sinh
PP Phương pháp
KT Kĩ thuật

3

PHẦN 1 - ĐẶT VẤN ĐỀ

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Quyết
định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ: “Tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo định hướng phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học”.
Dạy học hiện nay theo định hướng phát triển năng lực người học, vì thế đòi hỏi
người thầy cần chú trọng rèn luyện cho học sinh các năng lực: như giao tiếp, hợp
tác, tư duy, ngôn ngữ, ứng dụng công nghệ thông tin, năng lực tự học, năng lực
giải quyết vấn đề và sáng tạo… Không những thế nội dung dạy học hiện nay cịn
hướng tới hình thành phẩm chất cho người học.

Với quan điểm “Học đi đôi với hành”, người giáo viên phải hướng tới tạo cho
học sinh khả năng thích ứng với xã hội, ứng xử tích cực trong các mối quan hệ xã

hội, các tình huống của cuộc sống và mơi trường tự nhiên xung quanh... Có được
những năng lực và phẩm chất đó, họ mới có thể trở thành cơng dân đích thực, năng
động đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội hiện đại, đáp ứng được các yêu
cầu cơ bản của giáo dục Việt Nam, đó là: “Học để biết”, “Học để làm”, “Học để
chung sống” và “Học để khẳng định mình”. Đây chính là nhiệm vụ đặt ra đối với
các mơn học nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng.

“Văn học là nhân học”. Học văn là học để làm người bởi Ngữ văn là môn học
không chỉ cung cấp cho các em những tri thức về lĩnh vực văn học đơn thuần mà nó
cịn bồi dưỡng tâm hồn, hoàn thiện nhân cách cho học sinh, giúp các em vươn tới
giá trị của cái đẹp “chân - thiện - mĩ”, mỗi bài thơ, mỗi bài văn lại là một bài học
đạo đức có giá trị sâu sắc, bài học đạo lí làm người. Văn học giúp các em biết thêm
về nguồn cội và biết sử dụng lời hay ý đẹp trong giao tiếp hằng ngày. Văn học giúp
các em hình thành những năng lực phẩm chất cần thiết để trở thành cơng dân có ích
cho xã hội.

Là giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường Trung học cơ sở đã nhiều năm,
chúng tôi nhận thấy tiết văn bản chiếm dung lượng nhiều, nội dung đơn vị kiến thức
của bài dài. Nếu giáo viên chỉ sử dụng các phương pháp giảng dạy truyền thống thì
học sinh sẽ rất bị động trong việc tiếp thu kiến thức. Học sinh sẽ không nắm được
bản chất vấn đề và dẫn đến khơng có hứng thú với mơn học. Bên cạnh đó vẫn cịn
một bộ phận học sinh lực học yếu, thiếu tự giác trong học tập và một số học sinh vẫn
còn thái độ thờ ơ với môn học. Thực trạng này đặt ra vấn đề là làm thế nào để các
tiết dạy học văn bản sinh động, hấp dẫn, học sinh thực sự có hứng thú và tích cực
trong học tập.

Từ đó, chúng tơi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra giải pháp để học
sinh thực sự yêu thích, hứng thú, tích cực, chủ động học mơn Ngữ văn nói chung
và tiết học văn bản nói riêng ở lớp 9 tại Trung học cơ sở là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng. Đó là những lí do để chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải


4

pháp nâng cao hiệu quả tiết dạy văn bản trong chương trình Ngữ văn 9” với
mong muốn được góp phần nhỏ bé vào quá trình đổi mới dạy học ở trường Trung
học cơ sở hiện nay.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

Đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tiết dạy văn bản trong chương
trình Ngữ văn 9” nhằm:
- Góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả học văn cho HS, để từ đó hình thành cho
học sinh những kĩ năng học tập môn Ngữ văn một cách tự giác, chủ động, chuyên
sâu.
- Giúp HS hiểu vai trò của việc học văn mang lại nhiều giá trị tốt đẹp trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách, các em có những kiến thức, kĩ năng cần thiết để tự
tin bước vào đời. Từ đó có thể góp phần hình thành năng lực và phẩm chất cho người
học.
- Giúp bản thân giáo viên hiểu sâu hơn về những biện pháp để nâng cao hiệu quả tiết
dạy văn bản.
- Nhằm chia sẻ với đồng nghiệp một số kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả giảng dạy
văn bản trong môn Ngữ văn.
III. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU.
1. Phạm vi nghiên cứu.

Ở đề tài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ đi sâu vào nghiên cứu: Một số giải pháp
nâng cao hiệu quả tiết dạy văn bản trong chương trình Ngữ văn 9.
2. Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 9 tại một số trường THCS trên địa bàn
Huyện Con Cuông.

3. Thời gian nghiên cứu

Với sáng kiến này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu và áp dụng trong năm học
2019 - 2020 và tiếp tục áp dụng vào năm học 2020 - 2021.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Phương pháp này dùng để thu thập, nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến
vấn đề lý luận của đề tài trong q trình thực hiện. Đó là những văn bản có tính
pháp quy về chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên.

Các tài liệu về phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực cho HS trong trường THCS.
2. Phương pháp khảo sát thực tế (phương pháp điều tra)

Trên cơ sở lí thuyết, chúng tơi tiến hành khảo sát thực tế bằng cách :

5

Đàm thoại: Hỏi, nói chuyện trực tiếp với học sinh để tìm hiểu hứng thú học tập,
suy nghĩ, nhìn nhận đối với việc học tập môn Ngữ văn của các em.
3. Phương pháp thống kê

Là phương pháp được sử dụng nhằm xử lí, phân tích, đánh giá kết quả nghiên cứu.
4. Phương pháp quan sát

Là phương pháp được sử dụng thường xuyên khi nghiên cứu và thực hiện đề
tài nhằm mục đích nắm bắt được thực trạng của vấn đề.
5. Phương pháp thực nghiệm

Đây là một trong những phương pháp được áp dụng nhằm so sánh, đối chiếu kết

quả trước và sau khi tiến hành sử dụng giải pháp trên.

6

PHẦN 2 - NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Hiện nay, giáo dục ngày càng đổi mới để tiếp cận với nền giáo dục hiện đại
trên thế giới. Một nền giáo dục hướng tới đổi mới căn bản tồn diện người học. Vì
thế, chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 5 tháng 6 năm 2006 của bộ trưởng Bộ GD & ĐT đã
nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù
hợp đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện lớp học; bồi dưỡng
cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú, trách
nhiệm học tập cho học sinh”.

Nghị quyết Trung ương II - BCH Trung ương Đảng khoá VIII yêu cầu phải đổi
mới phương pháp dạy học, khắc phục lối truyền thụ một chiều, phát huy tính tích
cực học tập, rèn luyện thói quen, nề nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Giáo dục
hướng đến chủ đề: “Đối mới công tác quản lí, nâng cao chất lượng giáo dục tồn
diện, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Luật Giáo dục Việt Nam
cũng khẳng định: “ Giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư
duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả
năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Cho đến nay, giáo dục
Việt Nam không ngừng đổi mới với phương châm lấy học sinh làm trung tâm.

Đứng trước các yêu cầu của đổi mới giáo dục, các mơn học nói chung và mơn
Ngữ văn nói riêng cũng rất cần những thay đổi về phương pháp dạy học. Học văn

không chỉ để cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương mà còn học cách
làm người. Vì vậy, người dạy văn, học văn giống như người lao động nghệ thuật,
khơng chỉ tìm hiểu, khám phá, cảm nhận, mà còn phải nhập thân, biến kiến thức
văn chương thành máu thịt, một phần đời sống khơng thể thiếu của mình. Muốn
vậy người giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực sự được sống, được tham gia,
được khám phá và cảm nhận kiến thức văn chương trong quá trình học.

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

Trong trường Trung học sơ sở hiện nay, việc dạy học văn vẫn luôn được thầy
cô quan tâm và nhiều học sinh đã đạt được kết quả học tập cao. Song bên cạnh đó
thực tế ngành giáo dục đã tiến hành đổi mới qua nhiều năm nhưng trong q trình
thực hiện nhiều giáo viên cịn lúng túng, tổ chức dạy học chưa mấy hiệu quả, hoặc
có thầy cơ chưa tâm huyết với nghề nên việc dạy còn hời hợt, chưa triệt để. Vẫn
không tránh khỏi hiện tượng một bộ phận giáo viên ngại đổi mới, vẫn giữ thói
quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học
sinh lắng nghe, ghi nhớ và nhắc lại những điều giáo viên đã truyền đạt. Từ đó vơ
tình biến học sinh thành "bình chứa", thiếu sự chủ động, ỷ lại, học theo lối "học
vẹt", không phát huy vai trị tích cực, chủ động của học sinh.

Bên cạnh đó, việc học của một số HS còn chưa nghiêm túc, nhiều em ngại học

7

văn, chưa say mê môn học. Các em học qua loa đối phó: trên lớp ghi chép sơ sài,
về nhà chép bài của bạn, chép tài liệu tham khảo; kiến thức bài cũ nắm khơng chắc,
ít khi chuẩn bị trước bài mới. Do không hiểu bài nên nhiều em ghi nhớ máy móc,
học vẹt.

Đọc hiểu văn bản là một trong ba phân môn của mơn Ngữ Văn. Ở chương

trình lớp 9, số lượng các văn bản nhiều và hầu hết đều có dung lượng lớn. Tuy
nhiên qua việc dự giờ một số đồng nghiệp tôi nhận thấy việc dạy học các văn bản
này tại đơn vị chưa phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực của HS. Điều đó thể
hiện ở những tồn tại sau:

Thứ nhất, lối dạy truyền thụ một chiều có giảm nhưng vẫn cịn. Nhìn chung vẫn là
chú trọng dạy kiến thức hơn là hình thành kĩ năng.

Thứ hai, việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực cịn mang
tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn
dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại chưa
thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được tính dân chủ, mọi
cá nhân chưa được tự do bày tỏ quan điểm.

Thứ ba, việc tích hợp nội mơn và liên mơn chưa được chú trọng. Hầu hết giáo viên
đều dạy bài nào biết bài nấy, ít chú ý đến những vấn đề khác có liên quan đến bài
học (như học sinh đã biết cái gì ?, đã làm được cái gì ?).

Học sinh trường chúng tôi chủ yếu là con em đồng bào các dân tộc thiểu số
như Thái, Đan Lai. Các em còn gặp phải một số khó khăn trong học tập. Đó là: Kĩ
năng trình bày, thuyết trình trước đám đơng của các em cịn hạn chế do bản tính
nhút nhát và vốn ngôn ngữ tiếng Việt chưa phong phú. Các em cịn gặp trở ngại
khá lớn đó là “rào chắn” về từ ngữ. Vì tiếng Việt là ngơn ngữ thứ hai sau tiếng mẹ
đẻ nên việc hiểu hết nghĩa từ ngữ vốn đã là một điều cần nhiều thời gian. Các em
còn chưa hiểu một cách thấu đáo nghĩa từ ngữ trong tác phẩm thì làm sao có thể
hiểu thấu đáo nội dung của nó? Một số em do ảnh hưởng cách phát âm tiếng mẹ đẻ
nên phát âm tiếng Việt cịn chưa chuẩn. Và vì nói sai nên dẫn đến các em viết cũng
sai chính tả, dùng từ chưa chính xác. Khi tìm hiểu văn bản, các em cịn thể hiện
những cách hiểu “ngây ngô” về từ ngữ. Chẳng hạn, với văn bản “Kiều ở lầu
Ngưng Bích”, có học sinh đã giải thích cụm từ "mây sớm đèn khuya" như sau:

"mây sớm đèn khuya" có nghĩa là Thúy Kiều rất đau khổ cho nên khơng biết gì
đến những việc bên ngoài, đến nỗi trời đã khuya hay trời đã sáng mà Kiều vẫn
không hề để ý". Giờ dạy của giáo viên trên lớp cũng đã bộc lộ điều này: hầu hết
giáo viên dạy theo lối áp đặt kiến thức và học sinh buộc phải ghi nhớ những đơn
vị kiến thức cần thiết để có điểm khi kiểm tra. Cách học áp đặt và máy móc này
làm các em mau chóng quên đi những kiến thức mà lẽ ra sẽ trở thành thứ của cải
quý giá làm giàu cho bản thân khi bước vào đời.

Từ thực tế trên, tôi luôn băn khoăn làm thế nào để học sinh có thể nắm được tri
thức văn học một cách chủ động, tự giác, biết vận dụng kiến thức đã học trong

8

những tình huống cụ thể để đáp ứng được yêu cầu của xã hội hiện nay. Đồng thời,
giảm tỉ lệ học sinh yếu và nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn.

III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
1. Sử dụng phương pháp trực quan (video, tranh ảnh).

Trong phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên ít sử dụng đồ dùng dạy
học và cơng nghệ thơng tin trong giảng dạy. Vì thế đến với các tiết học văn bản
theo phương pháp dạy học truyền thống thì học sinh chủ yếu làm việc với sách
giáo khoa. Giáo viên rất ít khi hoặc thậm trí cịn không sử dụng video clip, tranh
ảnh trong giờ học. Đây cũng là một lí do khiến tiết dạy văn bản chưa đạt được hiệu
quả cao. Chương trình Ngữ văn 9 có rất nhiếu tác phẩm văn học mà giáo viên có
thể sử dụng video clip, tranh ảnh trong q trình dạy học. Việc sử dụng clip, tranh
ảnh có thể thực hiện trong một số phần sau:
1.1. Sử dụng video và tranh ảnh khi tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm:

Trong chương trình Ngữ văn 9, HS được học nhiều tác giả, tác phẩm nổi

tiếng của Văn học Việt Nam và nước ngoài. Thông tin về tác giả, tác phẩm trong
sách giáo khoa chưa thật phong phú, vì thế giáo viên có thể sử dụng video, tranh
ảnh từ internet để mở rộng thêm thông tin về tác giả, tác phẩm một cách trực quan,
sinh động, hứng thú nhất. Ngồi ra, giáo viên có thể gợi ý đường link của video từ
tiết học trước để HS tìm hiểu khi soạn bài. Một số tiết học, GV có thể thay đổi hình
thức khai thác, u cầu HS tự tìm video từ đường link gợi ý, cắt video cho phù hợp
với thời gian học tập trên lớp và báo cáo sau khi đã tự tìm hiểu ở nhà.

* Ví dụ minh họa việc sử dụng video giới thiệu về hoàn cảnh ra đời tác phẩm:

Tiết 49: Văn bản:

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHƠNG KÍNH

(Phạm Tiến Duật)

Hoạt động hình thành kiến thức mới

Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt

Hoạt động 1: Đọc, tìm hiểu chung I. Đọc, tìm hiểu chung

* PP : gợi mở – vấn đáp, trực quan, dùng lời bình 1. Tác giả: (SGK)
nghệ thuật 2. Tác phẩm:

* Kĩ thuật : Đặt câu hỏi mở, động não

* Năng lực: giải quyết vấn đề, năng lực tự học, năng
lực hợp tác, giao tiếp.


*Phẩm chất: chăm chỉ, yêu quê hương đất nước, sống
có trách nhiệm.

? Giới thiệu những nét chính về tác giả?

9

? Bài thơ được viết vào năm nào và được in trong tập a. Hoàn cảnh ra đời và xuất
thơ nào? xứ
- GV chiếu clip về tuyến đường Trường Sơn trong - Viết năm 1969
những năm chống Mỹ. - In trong tập Vầng trăng
quầng lửa.
=86s
? Em hình dung như thế nào về hồn cảnh ra đời bài - Bài thơ được viết trong thời
thơ? kì cuộc kháng chiến chống
- GV giảng và mở rộng. Mỹ diễn ra vô cùng ác liệt.
? Bài thơ cần nên đọc với giọng điệu ntn ? b. Đọc và tìm hiểu chú thích:
- Giọng vui t¬ươi, khoẻ khoắn - Đọc
- GV hướng dẫn đọc, đọc mẫu
- Gọi HS đọc, nhận xét. - Chú thích (sgk)
? Giải thích chú thích: 1 c. Thể thơ: Thơ tự do (câu
? Bài thơ thuộc thể thơ gì? dài, nhiều câu như văn xuôi,
nhịp điệu linh hoạt)
? Xác định phương thức biểu đạt của văn bản? d. Phương thức biểu đạt:
- GV sử dụng kĩ thuật động não: Biểu cảm, miêu tả.
? Những hình tượng nổi bật trong bài thơ? e. Hình tượng:
+ Những chiếc xe khơng kính
+ Những người lính lái xe.

1.2. Sử dụng video, tranh ảnh để minh họa:

Khi cần minh họa cho một đơn vị kiến thức nào đó trong bài học, sau khi tổ

chức cho học sinh khai thác xong đơn vị kiến thức đó, giáo viên sử dụng video clip
và tranh ảnh để minh họa cho lời giảng.
Ví dụ minh họa:

Tiết 2 - Văn bản: PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH (Tiếp)

( Lê Anh Trà )

Hoạt động hình thành kiến thức mới

Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt

- HS chú ý phần 2 và hoạt động nhóm lớn: 2. Vẻ đẹp trong phong cách sinh
- Câu 1: Tìm những chi tiết giới thiệu về nơi hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

10

ở, trang phục, bữa ăn và tư trang của Bác? - Nơi ở, làm việc: chiếc nhà sàn gỗ
- Câu 2: Nghệ thuật được tác giả sử dụng qua cạnh chiếc ao, chỉ vẻn vẹn vài phịng
các chi tiết trên?
- Câu 3: Em hiểu gì về lối sống của Bác? -> Nơi ở, làm việc đơn sơ.

- GV giảng – bình. - Trang phục: quần áo bà ba nâu, áo
- GV cung cấp video: Hồ Chí Minh – Chân trấn thủ, đôi dép lốp -> Trang phục
dung một con người. giản dị.
/>- HS xem. - Ăn uống: cá kho, rau luộc, dưa
? Cảm nhận của em về Bác Hồ. ghém, cà muối, cháo hoa...-> dân dã,
- HS trình bày cảm nhận. không cầu kỳ.

- GV: liên hệ giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Tư trang: ít ỏi, một chiếc va ly con,
vài bộ quần áo.

+ Dẫn chứng tiêu biểu, bình luận xen
chứng minh.

-> Lối sống giản dị, thanh đạm, trong
sáng.

1.3. Sử dụng video, tranh ảnh trong hoạt động khởi động và hoạt động hình
thành kiến thức mới:
* Trong hoạt động khởi động:

- Việc sử dụng video, tranh ảnh trong hoạt động khởi động ngoài việc đặt
vấn đề về chủ đề của bài học mới, giáo viên cịn thơng qua kênh thơng tin trực
quan để tạo hứng thú cho HS, giúp các em có niềm ham thích với bài học mới.

- Do thời gian của hoạt động khởi động không nhiều, nếu sử dụng video,
giáo viên nên chọn lọc video có thời lượng phù hợp, nội dung cơ đọng, nói đúng
vào vấn đề, tránh sử dụng những video quá dài. Việc chọn lựa các video, tranh ảnh
nên sử dụng những tư liệu có nguồn gốc rõ ràng, chính thống.
* Trong hoạt động hình thành kiến thức:

- Hoạt động này có nhiều đơn vị kiến thức trong bài, vì thế giáo viên cần
chọn lựa đơn vị kiến thức phù hợp để sử dụng video, tranh ảnh.

- Tránh lạm dụng việc sử dụng video, tranh ảnh trong giờ dạy một cách quá
mức, vụn vặt vì điều này vừa mất thời gian, đồng thời còn làm cho giờ học văn bản
bị đứt mạch.


- Khi sử dụng video clip trong hoạt động này, giáo viên cần đặt câu hỏi, giao

11

nhiệm vụ cụ thể và sau khi xem xong video, tranh ảnh yêu cầu học sinh trả lời câu
hỏi.

Ví dụ minh họa:
Tiết 146 – Văn bản: NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
( LÊ MINH KHUÊ)

* Hoạt động khởi động
- Giáo viên cung cấp câu hỏi :
? Em thấy tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mĩ như thế nào?
? Nhận xét về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc?
- Giáo viên cung cấp đoạn phim tư liệu về tuyến đường Trường Sơn trong những
năm chống Mĩ và yêu cầu HS xem đoạn phim tư liệu, trả lời hai câu hỏi trên.
- Học sinh xem video và trả lời câu hỏi.

Trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy việc sử dụng các video clip hoặc tranh
ảnh ở hoạt động khởi động hoặc hoạt động hình thành kiến thức đã thực sự tạo
hứng thú và tâm thế rất tốt cho học sinh khi bước vào bài học mới cũng như nắm
bắt bài học hiệu quả hơn. Nếu sử dụng khi khai thác kiến thức hoặc minh họa cho
lời giảng của giáo viên thì học sinh rất tích cực hoạt động, say mê lắng nghe và
hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài học.

2. Sử dụng phương pháp trò chơi:
Trong PPDH tích cực, giáo viên có thể sử dụng phương pháp trò chơi để hoạt


động học tập đạt hiệu quả cao.
Có rất nhiều trị chơi giáo viên có thể sử dụng trong tiết dạy văn bản như: Ai

nhanh hơn, Hoa điểm mười, Hộp quà bí mật, Lật mảnh ghép…
2.1. Trong hoạt động khởi động.

Ví dụ minh họa trị chơi “Ai nhanh hơn”:
Tiết 119: Văn bản - VIẾNG LĂNG BÁC
( Viễn Phương)

* Hoạt động khởi động:
- Giáo viên phổ biến luật chơi:
+ Chia lớp thành ba đội và yêu cầu các đội thực hiện nhiệm vụ trong khoảng thời
gian 3 phút.
+ Đội nào tìm được các đáp án nhanh hơn và chính xác thì đội đó giành chiến thắng.
- GV giao nhiệm vụ:
? Kể tên các bài thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh hoặc các câu thơ, bài thơ, bài hát
viết về Bác.

12

- Giáo viên tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi, nhận xét về kết quả của các đội.
- Giáo viên dẫn vào bài.

2.2. Trong hoạt động hình thành kiến thức:
* Phần tìm hiểu về tác giả và tác phẩm.
Ví dụ minh họa trị chơi “Lật mảnh ghép”:

Tiết 46: Văn bản - ĐỒNG CHÍ


(Chính Hữu)

Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt

HĐ 1: Đọc và tìm hiểu chung I. Đọc, tìm hiểu chung
* Phương pháp: trị chơi, gợi mở - vấn đáp.
* Kĩ thuật: đọc tích cực. 1. Đọc, tìm hiểu chú thích
* Năng lực: tự học, tiếp nhận, ngôn ngữ. - Đọc
* Phẩm chất: chăm chỉ, trách nhiệm.
- GV sử dụng kĩ thuật đọc tích cực - Chú thích (sgk)
? Bài thơ cần được với giọng điệu ntn? 2. Tác giả, tác phẩm:
- GV hướng dẫn đọc, đọc mẫu
- HS đọc, nhận xét
- HS giải thích chú thích : 1,3

- GV sử dụng PP trị chơi lật mảnh
ghép tìm tranh.
- GV phổ biến luật chơi:
+ Có 6 miếng ghép, ẩn sau đó là một bức
tranh có liên quan tới bài học.
+ Nhiệm vụ của các em là sẽ lật 6 miếng
ghép và tìm ra hình ảnh của bức tranh
được giấu.
+ Mỗi một miếng ghép sẽ mở ra một góc
của bức tranh và sẽ có gợi ý cho từng
miếng ghép một.
+ Mỗi học sinh được quyền lựa chọn
mảnh ghép bất kì và trả lời câu hỏi.
+ Nếu HS trả lời đúng câu hỏi thì một
góc tranh sẽ được mở ra.


13

+ Nếu HS trả lời khơng đúng thì GV a. Tác giả:
mời bạn khác trả lời.
- HS tham gia trò chơi - Chính Hữu tên khai sinh là Trần
- GV nhận xét và chốt Đình Đắc, quê ở tỉnh Hà Tĩnh.

Các câu hỏi: - Phong cách thơ: cảm xúc dồn nén,
ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm
Câu 1: Chính Hữu tên thật là gì, quê ở súc.
đâu?
b. Tác phẩm:
Câu 2: Phong cách thơ của Chính Hữu?
* Hoàn cảnh ra đời và xuất xứ
Câu 3: Bài thơ được viết vào năm nào,
in trong tập thơ nào? - Bài thơ được viết vào năm 1948, in
trong tập “ Đầu súng trăng treo”.
Câu 4: Bài thơ được viết theo thể thơ
nào? * Thể thơ tự do

Câu 5: Xác định phương thức biểu đạt *PTBĐ: Biểu cảm, miêu tả, tự sự.
của bài thơ? * Bố cục :
+ 7 câu đầu: Cơ sở của tình đồng chí.
Câu 6: Bố cục bài thơ có thể được chia + 10 câu tiếp: Những biểu hiện và sức
làm mấy phần? Nêu giới hạn và nội mạnh của tình đồng chí.
dung từng phần?

+ 3 câu cuối: Bức tranh đẹp về người
lính.


2.3. Trong hoạt động luyện tập:

Phần luyện tập của các tiết văn bản thường có thời lượng khoảng 5 – 7 phút,
vì thế khi áp dụng phương pháp trò chơi, giáo viên cũng nên ưu tiên một số trị
chơi nhanh, đơn giản, sơi động nhằm củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức tồn bài
một cách tối đa nhất. Một số trị chơi khá phù hợp với hoạt động này như: Hoa
điểm mười, Chiếc nón kì diệu, Ai nhanh hơn, …

Ví dụ minh họa trò chơi “Hoa điểm mười”:

Tiết 124: Văn bản - SANG THU

( Hữu Thỉnh )

Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt

- Giáo viên chia lớp thành 3 đội chơi. III. Tổng kết

- Giáo viên phổ biến luật chơi: 1. Nghệ thuật

+ Trên hình chiếu có 6 bơng hoa với các - Thể thơ: 5 chữ
màu sắc khác nhau. Mỗi bông hoa là - Phương thức biểu đạt: Biểu cảm,
một câu hỏi về nội dung hoặc nghệ thuật miêu tả.
của bài.

14

+ Các đội lựa chọn bông hoa để trả lời. - Hình ảnh thơ gợi cảm.
- Biện pháp tu từ được sử dụng như:

+ Đội nào trả lời chính xác thì được 10 nhân hóa, ẩn dụ.
điểm. Đội nào trả lời khơng chính xác - Ngơn ngữ thơ trong sáng.
thì các đội khác được giành quyền trả
lời. 2. Nội dung
- Sự chuyển biến nhẹ nhàng mà tinh tế
+ Đội nào trả lời được nhiều điểm hơn của thiên nhiên từ cuối hạ sang đầu thu.
thì đội đó giành chiến thắng.

- HS tham gia trị chơi.

- GV tổng kết trò chơi và nhận xét.

Hình ảnh minh họa trị chơi “Hoa điểm mười” trên powepoint:

3. Sử dụng phương pháp dùng lời bình nghệ thuật kết hợp thơ hoặc câu
chuyện liên quan đến tác phẩm.
3.1. Sử dụng phương pháp dùng lời bình nghệ thuật:

Phương pháp dùng lời bình nghệ thuật (cịn gọi là phương pháp diễn giảng,
bình giảng) là cách dạy học truyền thống theo mơ hình truyền thông tin một chiều,
được sử dụng trong các giờ dạy học tác phẩm văn chương hay cung cấp kiến thức
mới; còn học sinh chủ yếu thụ động nghe, ghi chép, tái hiện và ghi nhớ nội dung
bài học. Trong đổi mới phương pháp dạy học môn văn, giáo viên vẫn rất cần sử
dụng phương pháp này. Tuy nhiên ta có thể sử dụng phương pháp này theo hướng
tích cực hóa hoạt động của học sinh như sau:

15

3.1.1. Các bước thực hiện:
+ Bước 1 – đặt vấn đề:


Mục đích của việc này là nhằm thu hút sự chú ý của học sinh và tạo tâm thế
học tập, thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, đồng thời giới
thiệu mục tiêu của bài học. Cách đặt vấn đề có thể dựa vào kiến thức, vốn sống,
kinh nghiệm đã có của học sinh.

+ Bước 2 – giải quyết vấn đề:

Giải quyết theo từng nội dung trong bài.

Học sinh tích cực hoạt động để giải quyết vấn đề mà giáo viên đặt ra. Học sinh
giải quyết vấn đề dựa trên kiến thức, kinh nghiệm, vốn sống, cảm nhận của mình.
Mặt khác học sinh có thể đánh giá, nhận xét, bổ sung thêm cho câu trả lời của bạn.

+ Bước 3 – kết luận:

Sau phần trả lời, cảm nhận của học sinh, giáo viên tiến hành diễn giảng, bình
giảng để khắc sâu kiến thức. Như vậy trước khi tiến hành giảng giải - bình giảng,
giáo viên đã đưa ra vấn đề để học sinh trả lời, cảm nhận, nhận xét, bổ sung…Sau
đó giáo viên mới tiến hành giảng giải - bình giảng trên cơ sở mở rộng kiến thức và
khắc sâu kiến thức cho học. Học sinh sẽ rất hứng thú tiếp nhận bởi vì trong nội
dung giảng giải - bình giảng của giáo viên vừa có kiến thức mà mình đã phát hiện
ra vừa có thêm phần kiến thức mở rộng. Điều này rất khác so với phương pháp dạy
truyền thống theo kiểu truyền thông tin một chiều, nhồi nhét kiến thức vào đầu
học sinh: Thầy nói – trị nghe, thầy đọc – trị chép.

3.1.2. Một số lưu ý:

- Ngơn từ mà giáo viên sử dụng cần giàu hình ảnh, trong sáng.


- Lời bình của giáo viên cần giàu cảm xúc. Lời bình phải đủ to, rõ, tốc độ vừa phải,
khơng vi phạm các qui luật lôgic; biết dừng đúng lúc với thời gian hợp lí.

- Nội dung lời bình phải sâu sắc, lôgic.

- Tư thế, tác phong và cách diễn đạt của giáo viên phải hấp dẫn, lôi cuốn học sinh.

3.1.3. Những nội dung trong bài học có thể áp dụng:
* Giới thiệu bài:

Phần nội dung giới thiệu của giáo viên hay, ấn tượng, giàu cảm xúc sẽ luôi
cuốn được sự chú ý của học sinh. Khơng những thế nó cịn tạo cho các em hứng
thú, tâm thế để học nội dung bài mới.

Ví dụ minh họa:
Khi dạy bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh, giáo viên có thể sử dụng PP dùng
lời có nghệ thuật ở phần giới thiệu bài mới như sau:

Mùa thu là cảm hứng bất tận, là đề tài quen thuộc trong thi ca. Nhắc đến
thơ thu, người đọc có lẽ sẽ không thể quên chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến,
“Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư hay “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu. Và với

16

những tín hiệu rất đẹp, nhà thơ Hữu Thỉnh đã mang đến một sắc màu riêng cho
thơ thu qua tác phẩm “Sang thu”.
* Giới thiệu tranh ảnh:

Khi dạy văn bản có nhiều hình ảnh liên quan đến nội dung bài học, giáo viên
cần sử dụng phương pháp dùng lời có nghệ thuật để giới thiệu những nội dung đó.


Ví dụ minh họa:
Văn bản “Đồng chí” trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 – tập 1 có bức ảnh về
những người lính cùng nhau làm nhiệm vụ.

Bức tranh minh họa hình ảnh người lính cùng làm chung nhiệm vụ
Giáo viên có thể sử dụng phương pháp dùng lời bình nghệ thuật như sau: Bức
tranh khắc họa hình ảnh những người lính cùng nhau “chờ giặc tới” giữa rừng
hoang sương muối. Đêm càng về khuya, trăng càng xuống thấp tưởng như trăng
đang treo lơ lửng trên đầu ngọn súng. Đây là một bức tranh đẹp về tình đồng chí,
biểu tượng đẹp của thơ ca cách mạng. Có thể nói, tình đồng chí được hình thành
trên cơ sở tình bạn, tình người.
* Ở những đơn vị kiến thức khó, những điểm sáng nghệ thuật:

Việc giáo viên sử dụng phương pháp dùng lời có nghệ ở những phần kiến thức
khó cần giảng giải, những điểm sáng nghệ thuật sẽ giúp học sinh hiểu rõ giá trị tác
phẩm, hiểu được cái hay của nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm văn học.

17

Ví dụ minh họa:
Tiết 53 - ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
(Huy Cận)

Hoạt động hình thành kiến thức

Hoạt động của GV và HS Nội dung cần đạt

- GV yêu cầu HS hoạt động theo III. Tìm hiểu chi tiết
nhóm lớn. 1. Cảnh đoàn thuyền ra khơi.

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
? Khung cảnh thiên nhiên khi đoàn Sóng đã cài then đêm sập cửa
thuyền ra khơi đánh cá được miêu tả + So sánh: Mặt trời như quả cầu lửa đang
qua hình ảnh thơ nào ? dần lặn xuống biển .
+ Hình ảnh thơ: khỏe khắn, kì vĩ, độc đáo.
? Biện pháp nghệ thuật được tác giả sử + Liên tưởng, nhân hóa, động từ mạnh.
dụng? -> Thiên nhiên vũ trụ bước vào trạng thái
nghỉ ngơi.
? Với những biện pháp nghệ thuật đó, -> Bức tranh biển vào đêm kì vĩ, tráng lệ.
em hình dung thế nào về cảnh thiên
nhiên khi đồn thuyền ra khơi đánh cá?

- HS thảo luận, trình bày, bổ sung.

- GV giảng : Với sự liên tưởng so sánh
thú vị, Huy Cận đó miêu tả rất tinh tế
về sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày
và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật
kì vĩ, tráng lệ. Vũ trụ như ngơi nhà lớn
với màn đêm buông xuống là tấm cửa
khổng lồ với những lượn sóng hiền hồ
gối đầu nhau chạy ngang trên biển như
những chiếc then cài cửa. Phác hoạ
được 1 bức tranh phong cảnh kì diệu
như thế phải là một nghệ sĩ có trái tim
nhạy cảm và tình u biển tha thiết.

* Ở phần tiểu kết mỗi đơn vị kiến thức hay tổng kết toàn bài, phần chuyển ý:
Phương pháp dùng lời có nghệ thuật cũng rất cần được sử dụng ở những


phần tiểu kết mỗi đơn vị kiến thức hoặc phần tổng kết tồn bài, phần chuyển ý.
Ví dụ khi dạy bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh, giáo viên có thể sử dụng PP

dùng lời có nghệ thuật ở phần tổng kết:
Với những hình ảnh thơ gợi cảm, Hữu Thỉnh đã vẽ lên một bức tranh chớm thu

của vùng Bắc Bộ yên ả, thanh bình và mang màu sắc rất riêng. Khơng những thế

18

bài thơ còn chất chứa những suy ngẫm về con người và cuộc đời. Có thể nói, tác
phẩm “ Sang thu” đã làm mới cho thơ thu – những bài thơ viết về mùa thu.
3.2. Sử dụng thơ hoặc các câu chuyện liên quan đến tác phẩm:

Hệ thống tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn 9 rất phong phú, thể
hiện được vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam ở nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau. Khi khai thác nội dung, nghệ thuật, hoàn cảnh xuất xứ của các tác phẩm văn
học thì giáo viên có thể sử dụng các câu thơ, câu văn hoặc các câu chuyện liên
quan đến tác phẩm.

Yêu cầu khi sử dụng các câu thơ, câu văn, câu chuyện khi dạy văn bản là:

- Các câu thơ, câu văn hoặc các câu chuyện kể cần phù hợp với nội dung bài học.
Các câu văn, câu thơ, câu chuyện kể cần được chọn lọc. Nếu là các câu chuyện liên
quan đến tác phẩm thì cần kể một cách ngắn gọn.

- Khi sử dụng, giáo viên cần kết hợp với phương pháp dùng lời có nghệ thuật để
tiết dạy văn bản đạt được hiệu quả cao nhất.

- Giáo viên có thể sử dụng trong hoạt động khởi động, giới thiệu bài hoặc trong

hoạt động hình thành kiến thức mới.

- Các câu văn, câu thơ hoặc các câu chuyện thường được sử dụng khi giáo viên
giảng bình nhằm khắc họa sâu sắc nội dung kiến thức hoặc để mở rộng, liên hệ.

Vai trò của việc sử dụng các câu thơ – văn, câu chuyện khi dạy văn bản là: Nội
dung giảng bình của giáo viên trở nên hấp dẫn. Nội dung bài học trở nên phong
phú, sinh động và sâu sắc hơn. Học sinh cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác
phẩm và có thêm những kiến thức, những hiểu biết ngoài sách giáo khoa.

* Một số ví dụ minh họa:

- Văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh”: khi giảng về vẻ đẹp trong phong cách văn
hóa của Bác thì giáo viên có thể sử dụng một số câu thơ trong bài thơ “Người đi
tìm hình của nước” của nhà thơ Chế Lan Viên để học sinh hiểu về cuộc đời đầy
truân chuyên của Người trong suốt 30 năm đi tìm đường cứu nước. Khi giảng về
vẻ đẹp trong lối sống của Bác, giáo viên có thể sử dụng một số câu thơ của nhà thơ
Tố Hữu để học sinh hiểu được lối sống giản dị của Bác từ nơi ở, trang phục, bữa ăn
và tư trang. Từ đó, học sinh càng thêm kính yêu, cảm phục và tự hào về Bác.

- Văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”: Trong tác phẩm này, nhà văn có
sử dụng một số điển tích điển cố văn học như núi Vọng phu, ngọc Mị Nương, cỏ
Ngu mĩ. Vì thế khi giảng bài giáo viên có thể cung cấp cho học sinh các câu
chuyện liên quan đến các điển tích điển cố này. Từ đó học sinh sẽ hiểu sâu sắc hơn
về vẻ đẹp nhân cách của Vũ Nương.

- Khi giảng bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, giáo viên có thể liên tưởng tới
những câu thơ trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu để các em thấy được ân tình giữa
quá khứ và hiện tại, giữa cuộc chiến với thời bình. Từ đó, giúp các em biết yêu
thương và tự hào về q khứ, sống có nghĩa tình sau trước:


19

Mình về thành thị xa xơi

Nhà cao, còn nhớ núi đồi nữa chăng?

Phố đơng cịn nhớ bản làng

Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Vai trò của việc sử dụng các câu thơ, câu chuyện khi dạy Văn bản là: Nội
dung giảng bình của giáo viên trở nên hấp dẫn. Nội dung bài học trở nên phong
phú, sinh động và sâu sắc hơn. Học sinh cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác
phẩm và học sinh có thêm những kiến thức, những hiểu biết ngồi sách giáo khoa.
4. Vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực trong hoạt động dạy học.

Hiện nay có rất nhiều kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng trong chuỗi hoạt
động học tập. Nhưng với bộ môn Ngữ văn chúng tôi thường áp dụng một số kĩ
thuật sau như: KWL, khăn trải bàn, sơ đồ tư duy...

4.1. Kĩ thuật KWL

Giáo viên chiếu bảng KWL và yêu cầu HS ghi những nội dung đã biết liên
quan đến nội dung bài học, những điều muốn biết thêm trong bài học hôm nay.Và
sau khi học xong bài, học sinh sẽ hoàn thiện bảng KWL với câu hỏi những điều đã
học được.

Kĩ thuật này thường được sử dụng trong hoạt động khởi động. Sử dụng kĩ
thuật này ở phần khởi động sẽ giúp học sinh huy động những kiến thức đã biết liên

quan đến bài học mà hôm nay các em sẽ tìm hiểu, tạo được hứng thú và kích thích
tư duy sáng tạo của các em. Khơng những thế, giáo viên cịn có thể biết được
những mong muốn của các em khi đến với tác phẩm. Từ những mong muốn khám
phá của các em mà giáo viên có thể sẽ có những điều chỉnh, bổ sung kiến thức liên
quan đến nội dung bài để đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh. Và những điều mà
các em ghi ở cột “Điều em học được” sẽ giúp giáo viên đánh giá được hiệu quả
của tiết dạy và từ đó có những điều chỉnh về nội dung bài dạy, phương pháp dạy
học.

Ví dụ minh họa:

Tiết 49 – Văn bản: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHƠNG KÍNH

(Phạm Tiến Duật)

* Hoạt động khởi động

? Nêu những hiểu biết của em về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân
tộc?

? Đến với bài thơ này, em muốn có thêm những hiểu biết gì?
( Kĩ thuật KWL )

K ( Điều đã biết) W (Điều muốn biết) L ( Điều học được)

20


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×