Kinh tế đầu tư
BÀI TẬP LỚN : MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ
GIẢNG VIÊN : PGS.TS TỪ QUANG PHƯƠNG
ĐỀ TÀI : Đặc điểm của đầu tư phát triển. Sự quán triệt những đặc điểm
này trong hoạt động đầu tư .
NHÓM 1 LỚP KINH TẾ ĐẦU TƯ_1
THÀNH VIỀN : Nguyễn Văn Chiến CQ51…
Nguyễn Thanh Huyền CQ51…
Trần Quỳnh Anh CQ51…….
Nguyễn Ngọc Hòa CQ511447
Nguyễn Khắc Hùng CQ51…….
Nhâm Hạnh Nhân CQ51…….
1
Kinh tế đầu tư
MỤC LỤC
LỜI DẪN………………………………………………………………………… 2
MỤC LỤC………………………………………………………………………….4
NỘI DUNG…………………………………………………………………………6
Chương 1 : ĐẦU TƯ- ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN, CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ SỰ QUÁN TRIỆT CÁC ĐẶC ĐIỂM ĐÓ VÀO
CÔNG TÁC QUẢN LÝ …………………………………………………….6
1. Đầu tư phát triển………………………………………………………… 6
2. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển……………………… 18
Chương 2 : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM …….32
1. Thực trạng chung về công tác quản lý đầu tư phát triển ở Việt Nam……32
2. Thực trạng đầu tư phát triển ở Việt Nam theo các đặc điểm…………….37
Chương 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
VÀ TĂNG CƯỜNG SỰ QUÁN TRIỆT CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN VÀO CÔNG TÁC QUẢN LÝ…………………………… 57
1. Xu hướng phát triển đầu tư phát triển ở Việt Nam trong thời gian tới….57
2
Kinh tế đầu tư
2. Giải pháp tăng cường sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển
vào công tác quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư…………………………58
LỜI DẪN
Sau hai chiến lược phát triển Phát triển kinh tế – xã hội 10 năm ( 1991 –
2000) và 2001-2010, Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, với tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7 %/năm, đã đưa nước ta từ một nước thuộc
nhóm các nước kém phát triển, có thu nhập bình quân đầu người thấp, trở thành
một nước thuộc nhóm các nước kém phát triển, có thu nhập bình quân đầu người
trung bình trên thế giới. Tuy nhiên nhìn sâu xa hơn vào bức tranh kinh tế Việt Nam
trong những năm gần đây, có thể thấy ngay rằng, cơ cấu kinh tế và mô hình tăng
trưởng của nước ta đang bộc lộ rất nhiều bất cập, nếu không có sự thay đổi mạnh
mẽ, thì có có thể phát triển tiếp. Trong khi thế giới đang phát triển không ngừng và
rất nhanh chóng, dẫm chân tại chỗ có nghĩa là thụt lùi. Thậm chí với mức thu nhập
đạt được còn rất thấp như hiện nay, Việt Nam còn có thể thụt lùi lại đến mức gia
nhập lại nhóm các nước kém phát triển, có thụ nhập bình quân đầu người thấp của
thế giới.
Tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng đang là nội dung cốt
lõi của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 -2015 do Chính phủ đề ra
và đang được áp dụng trên nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội : tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng, tái cấu trúc cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống đầu tư ( trước hết
3
Kinh tế đầu tư
là đầu tư công ), tái cấu trúc hệ thống doanh nghiệp, trước hết là hệ thống doanh
nghiệp nhà nước…
Cho đến nay, các nhà khoa học, các nhà quản lý đều nhất trí rằng, tái cơ cấu
nền kinh tế, tìm mô hình tăng trưởng phù hợp là công việc rất phức tạp, rất bức
bách, phải được thực hiện bằng hàng loạt giải phải đồng bộ, với một lộ trình chặt
chẽ, khoa học. Tuy nhiên, phải bắt đầu tư đầu, thì vẫn đang là một câu hỏi với
nhiều đáp án khác nhau.
Chiếm tới hơn 40% trong tỉ trọng GPD, đầu tư là một thành phần quan trọng
bậc nhất trong GDP, có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, do vậy cần phải bắt đầu
từ tái cấu trúc đầy tư. Bởi lẽ, tái cấu trúc đầu tư thực chất là tái cấu trúc việc phân
bổ lại các nguồn lực toàn xã hội cho đầu tư phát triển đất nước. Các nguồn lực
dành cho đầu tư phát triển trong từng thời kì luôn là một đại lượng nhất định và có
giới hạn, thường thấp xa so với nhu cầu mong muốn. Vì vậy, sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực là yêu cầu thường xuyên của mọi cấp quản lý ở mọi giai đoạn phát
triển. thực tiễn cho hay, việc phân bổ nguồn lực cho đầu tư phát triển vừa qua của
chúng ta không phải lúc nào cũng đúng, cùng hợp lý. Hậu quả là đã tạo ra cơ cấu
kinh tế không phù hợp, kém hiệu quả, năng suất lao động xã hội, khả năng cạnh
tranh quốc gia chưa được nâng cao. Vì vậy chỉ có trên cơ sở tái cấu trúc đầu tư mới
tạo ra được cơ cấu đầu tư mới tạo ra được cơ cấu kinh tế hợp lý nhất có thể để có
thể đạt năng suất, hiệu quả kinh tế lớn nhất và năng lực cạnh tranh quốc gia cao
nhất như mong muốn.
Để có thể tái cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế Việt Nam cần có sự hiểu biết
về lĩnh vực đầu tư, đặc biệt là đầu tư phát triển. Vậy đầu tư phát triển là gì, đặc
điểm của đầu tư phát triển như thế nào và thực trạng đầu tư phát triển hiện nay
ở Việt Nam ra sao ? Để có thể trả lời được những câu hỏi này, nhóm chúng tôi –
4
Kinh tế đầu tư
nhóm_1 lớp đầu tư 51A chọn đề tài nghiên cứu “Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Sự quán triệt những đặc điểm này trong hoạt động đầu tư”. Bài biết tập trung
nghiên cứu những thành tựu và hạn chế khi áp dụng những đặc điểm của đầu tư
phát triển vào Việt Nam. Qua đó rút ra bài học kinh nghiệm nhằm tiếp tục quán
triệt, nâng cao hiệu quả thực hiện dự án đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy quá
trình tái cơ cấu đầu tư, phát triển đất nước.
Dù tập thể nhóm đã cố gắng hết sức nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm
cũng như kiến thức nên bài nghiên cứu của có nhóm không tránh khỏi những sai
sót, nhóm_1 rất mong nhận được sự góp ý từ phía thầy giáo và toàn thể các bạn.
Tập thể nhóm cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Từ Quang Phương đã
giúp nhóm hoàn thành bài nghiên cứu này.
5
Kinh tế đầu tư
NỘI DUNG
Chương 1: Đầu tư – Đầu tư phát triển, các đặc điểm của đầu tư phát triển và
sự quán triệt các đặc điểm đó vào công tác quản lý đầu tư
1.Đầu tư – Đầu tư phát triển
1.1. Đầu tư và phân loại đầu tư
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu
tư là đạt được kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư
phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực phải hy sinh có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và
trí tuệ.
Kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản
vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, trường học,…), tài sản trí tuệ (trình độ văn
6
Kinh tế đầu tư
hóa, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ thuật,…) và nguồn nhân lực có đủ điều
kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong
những kết quả này, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các tài sản vật chất, tài
sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi
nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết
quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng.
Ví dụ: Công ty xe buýt Hà Nội vừa đầu tư mua sắm thêm một số lượng lớn ô
tô buýt để mở rộng hoạt động phục vụ giao thông công cộng của công ty. Tài sản
cố định của công ty được tăng thêm đồng thời cơ sở vật chất kinh tế phục vụ giao
thông công cộng của thành phố Hà Nội cũng được tăng thêm.
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ
có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung
nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng
hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật cho nền sản xuất
quốc gia.
1.1.2. Phân loại đầu tư
Loại đầu tư đem lại kết quả không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội
được thụ hưởng trên đây, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ đầu tư
mà của cả nền kinh tế chính là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp
làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của
nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính tích luỹ của các hoạt động đầu tư này
cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá
trình lưu thông phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra,
đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
7
Kinh tế đầu tư
Như vậy, trong thực tế tồn tại 3 loại hoạt động đầu tư là đầu tư tài chính, đầu
tư thương mại và đầu tư phát triển.
1.2.1.1. Đầu tư tài chính :
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng
chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ)
hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát
hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài chính của tổ chức,
cá nhân đầu tư (VD: đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài
chính nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ
nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho Công ty thì đây
lại là đầu tư phát triển, nếu được Nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy
chế hoạt động do Nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự
hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ
dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng
trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để
đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là
một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
1.1.2.2. Đầu tư thương mại:
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó bán với
giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư
này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại
thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi
bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và
người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng
8
Kinh tế đầu tư
thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc
đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản
xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung (cần lưu ý là
đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất, nhưng bị
pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó
khăn cho việc quản lý lưu thông phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng
chi của người tiêu dùng).
1.1.2.3 Đầu tư phát triển:
Xét về bản chất chính là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người
có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài sản
mới cho mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng tiềm lực sản xuất kinh
doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao
đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng,
sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên
nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn
liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại, bổ sung tài sản và tăng thêm tiềm lực của mọi
lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước
Đầu tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại là ba loại đầu tư luôn
tồn tại và có quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề tăng tích luỹ,
phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Ngược lại, đầu tư tài
chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển.
1.1.3. Đặc điểm đầu tư
Là quá trình sử dụng vốn, nguồn lực (có hạn) nhằm duy trì tiểm lực sẵn có
hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn. Nguồn lực chi phí cho một công cuộc đầu tư thường
9
Kinh tế đầu tư
rất lớn, thời gian cần hoạt động của các kết quả đầu tư để có thể thu hồi vốn đã bỏ
ra hoặc để các lợi ích thu được tương xứng và lớn hơn những hy sinh về nguồn lực
nền kinh tế bỏ ra cũng rất lâu (đặc biệt đối với các công trình đầu tư công cộng).
1.2. Đầu tư phát triển
1.2.1 Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc sử dụng vốn trong hiện
tại vào các hoạt động nào đó, là việc đánh đổi lợi ích trước mắt lấy lợi ích lâu dài
nhằm tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới, tạo thêm việc làm và vì mục
tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn
lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư
bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài nguyên. Như vậy, khi
xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển
cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
1.2.1.1. Đối tượng của đầu tư phát triển
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn
thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao
động xã hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư
theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư chia làm
hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận. Trên
góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành: loại được khuyến
khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại cấm đầu tư. Từ góc độ
tài sản, đối tượng đầu tư chia thành: những tài sản vật chất (tài sản thực) và tài sản
vô hình. Tài sản vật chất, ở đây, là những tài sản cố định được sử dụng cho sản
10
Kinh tế đầu tư
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động. Tài sản vô
hình như phát minh sáng chế, uy tín, thương hiệu…
1.2.1.2. Phân loại đầu tư phát triển
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoạt động đầu tư, các nhà kinh tế phân
loại hoạt động đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp
ứng những nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu thức phân
loại thường được sử dụng là:
• Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Đầu tư cho các đối tượng vật chất ( đầu
tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc thiết bị,…) và
đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân
lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế,…). Trong đó đầu tư cho đối
tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh
tế, đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo
cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế
- xã hội cao.
• Theo phân cấp quản lý: Đầu tư phát triển được chia thành đầu tư theo các dự
án quan trọng quốc gia, tùy theo tính chất và quy mô của dự án mà phân
thành các dự án nhóm A, B, C. Trong đó, dự án quan trong quốc gia do
Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định,
nhóm B, C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc
chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quyết định.
• Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư: có thể phân chia các hoạt
động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển
khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Các hoạt động đầu tư này
có mối quan hệ tương hỗ với nhau.
11
Kinh tế đầu tư
• Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Các hoạt động đầu tư được
phân chia thành đầu tư cơ bản và đầu tư vận hành. Đầu tư cơ bản nhằm tái
sản xuất các tài sản cố định. Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu
động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, làm tăng
thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của cơ sở
vật chất – kỹ thuật khồng thuộc các doanh nghiệp. Đầu tư cơ bản quyết định
đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ
bản phát huy hiệu quả. Đầu tư cơ bản là loại đầu tư dài hạn, quá trình thực
hiện đầu tư để tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi
vốn đầu tư cần sử dụng lớn, thu hồi vốn lâu (trong trường hợp có thể thu
hồi). Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, quá trình
thực hiện đầu tư không phức tạp, có thể thu hồi vốn nhanh sau khi đưa ra các
kết quả đầu tư nói chung vào hoạt động.
• Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất
xã hội: có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành
đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là hoạt động đầu
tư mà thời gian thực hiện ngắn, vốn vận động nhanh, tính bất định không
cao, dễ dự đoán; còn đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn, vốn đầu tư lớn,
thời gian thu hồi lâu, rất khó dự đoán.
• Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư: có thể
phân chia hoạt động đầu tư phát triển thành đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài
hạn. Đầu tư dài hạn là việc đầu tư xây dựng các công trình đòi hỏi thời gian
đầu tư lâu dài, khối lượng vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, nó thường chứa
đựng những yếu tố khó lường, rủi ro lớn. Đầu tư ngắn hạn là loại đầu tư tiến
hành trong thời gian ngắn, thường do những chủ đầu tư ít vốn thực hiện, đầu
tư vào những hoạt động nhanh chóng thu hồi vốn, tuy nhiên rủi ro của hoạt
12
Kinh tế đầu tư
động này cũng tương đối lớn. Trên thực tế, hai loại hình đầu tư này luôn hỗ
trợ nhau nhằm đảm bảo tính bền vững của hoạt động đầu tư.
• Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: hoạt động đầu tư được chia thành đầu
tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp là khi người bỏ vốn không
trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết
quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đầu
tư phát triển. Đây là phương thức huy động vốn cho đầu tư phát triển. Đầu tư
trực tiếp là khi người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình
thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Loại đầu tư này tạo nên những năng
lực sản xuất phục vụ mới.
• Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia: hoạt động đầu tư được chia thành
đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài.
• Theo vùng lãnh thổ: chia thành đầu tư phát triển của các vùng lãnh thổ, các
vùng kinh tế trọng điểm, đầu tư phát triển khu vực thành thị và nông thôn,
1.2.1.3. Nội dung của đầu tư phát triển
Nội dung của đầu tư phát triển gồm nhiều nội dung tùy theo cách tiếp cận.
Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển gồm
13
Kinh tế đầu tư
• Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động nhằm tái tạo tài sản cố định của doanh
nghiệp. Các hoạt động chính là xây lắp và mua sắm các máy móc thiết bị.
Hoạt động này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tong vốn đầu tư
phát triển của đơn vị.
• Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ: Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ
nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ
trong doanh nghiệp. Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể
thiếu của các doanh nghiệp sản xuất, tỷ trọng đầu tư vào hàng tồn trữ trong
tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp thương mại thường cao hơn các
loại hình doanh nghiệp khác. Vì vậy, việc xác định quy mô hang tồn trữ tối
ưu cho các doanh nghiệp là rất cần thiết.
• Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Như chúng ta đã biết, nguồn
nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp, chỉ
có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh.
Do vậy, đầu tư phát triển chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề rất cần thiết.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho hoạt động giáo dục
14
Kinh tế đầu tư
đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm
việc cho người lao động,…
• Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ: Phát
triển sản phẩm mới và các lĩnh vực mới đòi hỏi phải đầu tư cho hoạt động
nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ. Đầu tư nghiên cứu hoặc mua
công nghệ đòi hỏi một lượng vốn lớn và độ rủi ro cao, nhưng trong tương
lai, tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ tăng để tương xứng với nhu cầu và
khả năng của doanh nghiệp.
• Đầu tư cho hoạt động marketing: bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo,
xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu,…Đầu tư cho hoạt động
marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh
nghiệp.
Theo một cách tiếp cận khác, xuất phát từ quá trình hình thành và thực hiện
đầu tư, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư cho các hoạt động chuẩn bị đầu
tư, đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư và đầu tư trong giai đoạn vận hành.
1.2.1.4. Mục đích của đầu tư phát triển
Mục tiêu của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc
gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao
đời sống cho các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu
chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân
lực…
Đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định. Xác định rõ
chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư nói chung và vốn
đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao quản lý, sử dụng
vốn đầu tư (luật đầu tư 2005). Theo nghĩa đầy đủ, chủ đầu tư là người sở hữu vốn,
15
Kinh tế đầu tư
ra quyết định đầu tư, quản lý quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư và là
người hưởng lợi từ thành quả đầu tư đó. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra
giám sát đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh
hưởng của đầu tư đến môi trường môi sinh và do đó, có ảnh hưởng quan trọng đến
việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Thực tế quản lý còn có những nhận thức
không đầy đủ về chủ đầu tư.
Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài và tồn
tại vấn đề “độ trễ thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian
đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư ở hiện tại nhưng kết quả
đầu tư thường thu được trong tương lai. Đặc điểm này của đầu tư cần được quán
triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển.
1.2.1.5. Kết quả của đầu tư phát triển
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà xưởng,
thiết bị… ), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật…) và
tài sản vô hình (những phát minh sáng chế, bản quyền…). Các kết quả đạt được
của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu
tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế xã hội thu được với chi
phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem
xét cả trên phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các
loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý,
kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước các cấp. Thực tế, có những khoản
đầu tư tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động cho hoạt động
sản xuất kinh doanh như đầu tư cho y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo… nhưng lại
rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó,
cũng được xem là đầu tư phát triển.
16
Kinh tế đầu tư
1.2.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm sau:
1.2.2.1. Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư thường
rất lớn
Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng
điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cần tuân
thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực
theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu
cực do vấn để “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lao động, giải quyết lao động dôi
dư,…
1.2.2.2. Thời kỳ đầu tư kéo dài
Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn
thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư
kéo dài hàng chục năm.
1.2.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt
động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trên thế giới, có
nhiều thành quả đầu tư phát huy kết quả lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn như Kim
tự tháp ở Ai Cập, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Ăng co vát ở Cam pu
chia, Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai
mặt, cả tích cực và tiêu cực, của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội,…
17
Kinh tế đầu tư
1.2.2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây
dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá
trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh
hưởng lớn của các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng.
1.2.2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao
Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các
kết quả đầu tư kéo dài… nên mức độ rủi ro cuả hoạt động đầu tư phát triển thường
cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó, có nguyên nhân chủ quan từ
phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có
nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công
suất sản xuất không đạt công suất thiết kế
2. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển vào công tác quản lý
2.1 Quy mô tiền vốn,vật tư,lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn
2.1.1:Với quy mô tiền vốn lớn
Vốn đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của nguồn vốn nói chung. Vốn đầu tư
phát triển là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ những chi phí đã chi để tạo ra năng lực
sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát
trỉển khác. Trên phạm vi nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển bao gồm: vốn đầu tư
xây dựng cơ bản, vốn lưu động bổ sung và vốn đầu tư phát triển khác.Trong đó,
vốn đầu tư xây dựng cơ bản là quan trọng nhất. Đó là những chi phí bằng tiền để
xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hay là khôi phục năng lực sản xuất của tài
sản cố định trong nền kinh tế. Quy mô các dự án đầu tư có lớn hay không thể hiện
ở nguồn vốn đầu tư.
18
Kinh tế đầu tư
2.1.1.1.Trước khi tiến hành thực hiện dự án:
2.1.1.1.1 Phải chú trọng công tác lựa chọn nhà đầu tư sao cho đủ năng lực tài
chính.
Do dự án đầu tư,đặc biệt là dự án đầu tư phát triển thường có quy mô vốn cực
kì lớn,và nguồn vốn này nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu
tư,nếu chủ đầu tư thiếu vốn,việc này ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến tiến trình mà
còn đến chất lương của dự án đầu tư nên việc chọn nhà đầu tư có đủ năng lực tài
chính cho dự án là đặc biệt quan trọng,nó như một khẳng định đầu tiên cho dự án
được thành công.
2.1.1.1.2.Chú trọng các phương pháp huy động vốn đầu tư hợp lý cho phù hợp với
từng dự án và tiến độ của nó
Dự án đầu tư phát triển khác nhau cần một lượng vốn khác nhau để cho hoàn
thành,số vốn để thực hiện dự án này có thể rất lớn mà nhiều chủ đầu tư không thể
có được,với những dự án thế này,điều đặc biệt quan trọng là phải đảm bảo nguồn
vốn để dự án được thực hiện,muốn làm điều này,trước hết chúng ta cần quan tâm
đến các biện pháp huy động vốn,có thể là :Liên doanh liên kết với các doanh
nghiệp khác để thành lập doanh nghiệp liên doanh với tiềm lực tài chính mạnh hơn,
phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng thêm vốn,thành lập các quỹ tín thác BĐS,
quỹ tái thế chấp, quỹ tiết kiệm nhà ở trong lĩnh vực kinh doanh BĐS để có thể huy
động được lượng vốn cho đầu tư phát triển.
Quá trình tạo lập,huy động vốn không chỉ ở giai đoạn đầu của dự án,mà phải
tùy vào từng giai đoạn,tiến độ thực hiện dự án để có các biện pháp huy động nguồn
vốn sao cho luôn đáp ứng đủ nhu cầu vốn cần thiết để dự án được triển khai và
hoàn thành đúng tiến độ.
19
Kinh tế đầu tư
2.1.1.1.3 Phải xây dựng trước các chính sách quy hoạch,quản lý ,sử dụng vốn cho
phù hợp với tiến độ của dự án
Việc xây dựng trước các bản kế hoạch huy động,quán lý và sử dụng vốn cực
kì quan trọng,nó là kim chỉ nam giúp cho việc đảm bảo nguồn vốn cho dự án được
thông suốt,việc này nên được làm trước khi triển khai dự án để có thể đánh giá
được lượng vốn và tiến độ của dự án được triển khai.
2.1.1.2. Trong khi thực hiện dự án
2.1.1.2.1.Tăng cường công tác kiểm tra giám sát nguồn vốn,tránh gây thất thoát
lãng phí.
Dự án đầu tư phát triển thường có nguồn vốn cực kì lớn,do vậy 1% thất thoát
của dự án cũng là cả một số tiền vô cùng lớn với nền kinh tế.Việc giám sát,kiểm tra
thường xuyên việc sử dụng vốn trong suốt quá trình thực hiện dự án không chỉ
giúp cho việc đảm bảo nguồn vốn để thực hiện mà nó tránh được những phí tổn
không cần thiết cho chủ đầu tư,giúp chủ đầu tư tiết kiệm được số tiền lớn để có thể
dùng vào việc mở rộng dự án,việc này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí xây
dựng của dự án và lợi nhuận do dự án mang lại trong tương lai.
2.1.1.2.2.Phân bổ nguồn vốn hợp lý với từng giai đoạn tiến độ của dự án
Dự án đầu tư phát triển thường được chia thành nhiều giai đoạn,trong mỗi giai
đoạn đều cần những lượng vốn lớn để thực hiện nó,chính vì thế,việc phân bổ
nguồn vốn hợp lý với từng giai đoạn của dự án sẽ giúp tiền vốn được sử dụng hiệu
quả và tránh được sự lãng phí,sự mất cân đối khi đầu tư,ảnh hưởng đến tiến độ
thực hiện dự án.
20
Kinh tế đầu tư
2.1.1.2.3.Tìm các nguồn vốn bổ sung kịp thời tránh để tình trạng thiếu vốn khi dự
án đang thực hiện
Khi một dự án đang thực hiện,đôi khi ta không thể lường hết được các khả
năng xẩy ra và các chi phí phát sinh,do đó,rất dễ dẫn đến sự thiếu vốn ,việc này có
thể khiến dự án bị chậm tiến độ hoặc có thể là ngừng thực hiện,gây thiệt hại cực kì
lớn đối với chủ đầu tư.Do đó,chủ đầu tư nên nghĩ đến tình huống xấu nhất xẩy ra
và vạch ra trước những kênh huy động vốn cho mình trong trường hợp cần thiết.
2.1.2.Với lao động lớn
Các dự án đầu tư cũng cần một số lượng rất lớn các chuyên gia, kĩ sư, lao
động trực tiếp trên công trình. Đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia nhu
cầu về lao động lớn hơn nhiều.Do vậy,yếu tố lao động luôn là một trong
những yếu tố quan trọng nhất để một dự án được thực hiện
2.1.2.1:Trước và trong khi dự án tiến hành
Dự án nào cũng cần có lao động để thực hiện do đó cần phải chú trọng công
tác tuyển dụng, sử dụng, đào tạo đãi ngộ theo một kế hoạch định trước nhằm đáp
ứng nguồn nhân lực cho dự án,phù hợp với tiến độ thực hiện của dự án .Các lao
động ngoài đủ về số lượng cũng cần có đủ lượng chất xám cho những vị trí cần
thiết,tránh ảnh hưởng đến chất lượng dự án cũng như tiến độ của công trình.
Tiền công trả cho lao động cũng là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chi
phí xây dựng của dự án,nhất là với những dự án đầu tư phát triển,lượng lao động
tham gia là rất lớn,do đó,cần có kế hoạch,sử dụng hợp lý số lao động đó,tránh thất
thoát nguồn lực quan trọng này.
2.1.2.2: Sau khi dự án xong
21
Kinh tế đầu tư
Nên chia dự án thành các giai đoạn để sử dụng lao động có hiệu quả, xác định
lượng lao động mỗi giai đoạn phải phù hợp để tránh không gây “sốc” khi dự án
hoàn thành thì lượng lao động nhàn rỗi sau khi thực hiện dự án là quá lớn
Phải chú ý giải quyết vấn đề lao động thời vụ theo dự án, giải quyết công ăn
việc làm cho họ, đảm bảo cuộc sống của họ ổn định khi dự án kết thúc và đi vào
hoạt động
Cũng cần chú ý đến lượng lao động ,nguồn nhân lực vận hành khi dự án được
hoàn thành và đưa vào sản xuất,tính toán thật kĩ số lượng cũng chuyên môn của
lượng lao động đó và có biện pháp đào tạo hoặc tuyển dụng hợp lý,tránh việc dự án
đã xong mà không có lao động để vận hành,gây thất thoát,lãng phí và khi thác
không hiệu quả.
2.1.2.3 : Năng cao trình độ người lao động tăng việc cơ giới hóa trong sản xuất
Việc tăng trình độ người lao động và tăng cơ giới hóa trong quá trình thực hiện
dự án sẽ làm giảm bớt lượng lao động tham gia thực hiện dự án ,giảm chi phí cho
việc thuê lao động và giảm bớt gánh nặng cho việc giải quyết vấn đề “ hậu dự án”
2.1.3. Với vật tư lớn
2.1.3.1. Cần phải nghiên cứu kĩ nhu cầu của dự án và tìm nguồn cung cấp vật tư
đảm bảo cho tiến độ dự án được thực hiện.
Việc nghiên cứu kĩ nhu cầu dự án để xác định lượng vật tư cần thiết cho việc
tiến hành dự án là cực kì quan trọng,nó giúp cho việc đảm bảo vật tư cho xây dựng
của doanh nghiệp
22
Kinh tế đầu tư
Doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu nguồn cung cấp vật tư,nguyên liệu của mình
để đảm bảo cho quá trình xây dựng thông suốt và giảm chi phí vật tư xuống mức
thấp nhất.
2.1.3.2. Sử dụng vật tư cần tiết kiệm,tránh lãng phí
Vật tư ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của chủ đầu tư,nên việc sử dụng tiết
kiệm tránh lãng phí vật tư không chỉ giúp dự án được hoàn thành đúng tiến độ mà
còn tiết kiệm được một khoản tiền lớn.
2.1.3.3. Có biện pháp bảo quản tốt với số vật tư chưa được đưa vào xây dựng
Với lượng vật tư lớn ,nhiều khi vật tư không sử dụng hết,nên việc bảo quản
chúng là vô cùng quan trọng,nó giúp tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả của đầu tư.
2.2. Thời kỳ đầu tư thường kéo dài
Thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành
và đưa vào hoạt động, tương ứng với giai đoạn chuẩn bị đầu tư và giai đoạn thực
hiện đầu tư của một dự án đầu tư
2.2.1. Cần lập dự án đầu tư một cách chi tiết, lường trước các yếu tố có thể để khi
thực hiện dự án không bất ngờ
Do thời kì đầu tư kéo dài,nên việc lập dự án đầu tư một cách chi tiết là vô cùng
cần thiết,phải cố gắng lường hết những khả năng có thể xẩy ra khi thực hiện dự án
và cố gắng tìm hướng giải quyết chúng để khỏi phải bối rối khi dự án được tiến
hành.
Khi lập dự án cần chú ý đặc biệt đến yếu tố trượt giá,nó có thể đẩy chi phí của
dự án lên rất cao,gây ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ thực hiện dự án nếu không
được nghiên cứu kĩ
23
Kinh tế đầu tư
2.2.2. Cần phải phân kì đầu tư
Do thời kì đầu tư kéo dài,nên việc phân kì đầu tư là rất cần thiết,nó giúp chủ
đầu từ tập trung nguồn lực để thực hiện các giai đoạn,các kì của dự án
Cụ thể hơn,chủ đầu tư nên chia dự án thành nhiều hạng mục công trình nhỏ để
có thể hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình và để phân phối nguồn vốn
một cách hợp lý. Xong hạng mục nào đưa hạng mục đó vào sử dụng để tăng hiệu
quả giảm lượng vốn bị khê đọng,máy móc thiết bị bị hao mòn.
2.2.3. Đầu tư có trọng tâm trọng điểm
Trước khi đầu tư cần xác định thế mạnh, lợi thế của từng đơn vị, từng khu
vực…, xác định rõ hạng mục công trình nào là trọng tâm, trọng điểm… ưu tiên đầu
tư cho những khu vực có lợi thế hơn, trọng điểm hơn để khi dự án hoàn thành có
thể phát huy tối đa hiệu quả của dự án…
2.2.4.Quản lí chặt chẽ tiến đô thực hiện đầu tư,tìm các biện pháp chống thiếu
vốn,tránh ứ đọng vốn
Thiếu vốn khiến cho dự án không thể tiếp tục được thực hiện. Thời gian thiếu
vốn càng lâu thì lượng vốn đã bỏ ra bị ứ đọng, không sinh lời càng lâu gây thiệt hại
cho nhà đầu tư cũng như nhà nước. Do đó cần có các biện phát chống thiếu vốn, bổ
sung vốn kịp thời khi đối tác rút khỏi dự án hay khi nền kinh tế lâm vào khó
khăn…
Luôn theo dõi ,thúc giục để dự án được hoàn thành đúng và vượt tiến độ đề ra
và phải đảm bảo được chất lượng của dự án
2.2.5. Sử dụng hiệu quả vốn,tránh thất thoát,lãng phí vốn
24
Kinh tế đầu tư
Do thời gian đầu tư kéo dài,nên lượng vốn cũng được phân bố theo từng giai
đoạn của dự án,việc này đòi hỏi phải xây dựng các biện pháp quản lý nguồn vốn
này thật hợp lý,tránh thất thoát ,lãng phí
2.5.6. Cần nghiên cứu kĩ về cầu sản phẩm đầu tư trong tương lai
Do giai đoạn thực hiện đầu tư phát triển kéo dài nên tình hình kinh tế xã hội
sau khi dự án hoàn thành cũng đã thay đổi,chính vì thế,việc dự báo trước về cầu
sản phẩm đầu tư trong tương lai cực kì quan trọng,nó ảnh hưởng trược tiếp đến kết
quả kinh doanh hay lợi nhuận thu được từ dự án sau này
2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư thường kéo dài
Vận hành kết quả đầu tư là giai đoạn quan trọng trong một dự án đầu tư. Dự
án có được vận hành đúng như kế hoạch hay không, có thành công như mong đợi
không thì phụ thuộc nhiều vào khâu quản lý trong giai đoạn này. Vận hành kết quả
đầu tư thường rất dài, và công tác quản lý cũng rất phức tạp,Để vận hành và phát
huy tối đa hiệu quả của dự án,chúng ta cần tốt làm những việc sau đây
2.3.1. Cần phải nhanh chóng đưa công trình vào xây dựng và quản li tốt quá trình
vận hành
Không một công trình kinh tế nào có thể tồn tại mãi mãi,vì thế,việc nhanh
chóng đưa công trình xây dựng vào vận hành là vô cùng cần thiết,việc này sẽ giúp
chủ đầu tư thu hồi vốn nhanh hơn và thu lợi nhuận sớm nhất có thể
Cũng cần chú ý đến việc quản lý quá trình vận hành,nó sẽ giúp dự án đầu tư
có được hiệu quả hơn khi thực hiện
2.3.2. Cần phải sử dụng tối đa công suất của công trình,tránh thất thoát,lãng phí
25