TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
------
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN
Đề tài:
LÝ LUẬN HÀNG HOÁ VÀ VẬN DỤNG THỰC TIỄN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HỐ Ở VIỆT NAM
Nhóm : 2
Giảng viên : Tống Thế Sơn
Mã lớp học phần : 232_RLCP1211 _13
Hà Nội, Tháng 3 năm 2024
MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................... 1
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................. 3
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi của đề tài..........................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.................................................................................5
1.1. Lý luận hàng hoá..................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm.........................................................................................................5
1.1.2. Thuộc tính của hàng hóa...................................................................................5
1.2. Khái niệm kinh tế hàng hóa.................................................................................7
1.2.1. Khái niệm.........................................................................................................7
1.2.2. Điều kiện ra đời của kinh tế hàng hóa...............................................................8
1.2.3. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường hàng hóa..................................................9
1.2.4. Ưu thế của nền kinh tế thị trường hàng hóa.....................................................10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ HÀNG HĨA TẠI VIỆT NAM....11
2.1. Tổng quan lý luận về hàng hóa tại Việt Nam....................................................11
2.2. Nền kinh tế hàng hóa Việt Nam trước năm 1986.............................................13
2.2.1. Thời kỳ 1945 - 1954 (Giai đoạn khó khăn nhất của nền Kinh tế hàng hóa).......13
2.2.2. Thời kỳ 1955 - 1975 (Giai đoạn phát triển kinh tế trong bối cảnh chống chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam).................15
2.2.3. Thời kỳ 1976 - 1986 (Giai đoạn phục hồi kinh tế sau thống nhất đất nước - nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp)...................................................................15
2.3. Nền kinh tế hàng hóa Việt Nam sau năm 1986.................................................16
2.3.1. Giai đoạn 1986 - 2000 (Giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế).....16
2.3.2. Giai đoạn 2000-2010 (Giai đoạn hội nhập và phát triển).................................17
2.3.3. Giai đoạn 2010 đến nay (Giai đoạn hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững)18
CHƯƠNG 3: CÁC THÁCH THỨC MÀ NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA VIỆT
NAM ĐÃ VÀ ĐANG PHẢI ĐỐI DIỆN...................................................................20
3.1. Thách thức đến từ phía đường lối lãnh đạo của Nhà nước.............................20
3.2. Thách thức đến phía các doanh nghiệp.............................................................21
3.3. Thách thức đến từ phía người lao động............................................................22
1
3.4. Thách thức đến từ việc tham gia FTA...............................................................22
CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN CHO NỀN
KINH TẾ HÀNG HĨA VIỆT NAM........................................................................24
4.1. Chính sách của Nhà nước...................................................................................24
4.2. Đối với doanh nghiệp..........................................................................................25
4.3. Đối với người lao động........................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO:........................................................................................27
2
LỜI NĨI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Các nguyên tắc của lý thuyết hàng hóa từ lâu đã là cơng cụ định hình các chiến
lược phát triển kinh tế trên toàn cầu. Việt Nam, như một quốc gia đang phát triển,
khơng thể bỏ qua vai trị của lý luận hàng hóa trong q trình phát triển kinh tế của
mình. Lý luận hàng hóa cung cấp cho chúng ta một cách nhìn tổng thể về quá trình sản
xuất, phân phối và tiêu thụ hàng hóa. Nó giúp chúng ta hiểu rõ cơ chế hoạt động của
thị trường, sự tương tác giữa cung và cầu, và quy luật giá trị trong q trình trao đổi
hàng hóa.
Ngồi ra, lý luận hàng hóa cịn đóng vai trị quan trọng trong việc tạo ra các
chính sách kinh tế hiệu quả. Việc áp dụng lý luận hàng hóa vào thực tiễn phát triển
kinh tế hàng hóa ở Việt Nam giúp chúng ta xác định các nguyên tắc cơ bản để tạo ra
sự cân đối giữa sản xuất, phân phối và tiêu thụ. Điều này đảm bảo rằng sự phát triển
kinh tế của quốc gia được thực hiện một cách bền vững và có lợi cho tồn bộ xã hội.
Tuy nhiên, việc áp dụng lý luận hàng hóa vào thực tế ở Việt Nam đòi hỏi sự
linh hoạt và sáng tạo. Đất nước chúng ta có những đặc thù riêng, như mơ hình kinh tế
chủ nghĩa xã hội, sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực và sự ảnh hưởng của
các yếu tố văn hóa, lịch sử và chính trị. Vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng lý luận
hàng hóa ở Việt Nam cần phải đi sâu vào bản chất của vấn đề, đồng thời kết hợp với
những phương pháp và quan điểm phù hợp với điều kiện địa phương.
Với mục tiêu phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam, chúng ta cần nhìn vào
những thành tựu đã đạt được và đồng thời tìm kiếm những cơ hội và thách thức trong
tương lai. Việc nghiên cứu, lý luận và vận dụng thực tiễn về hàng hóa sẽ đóng vai trò
quan trọng trong việc xác định hướng phát triển kinh tế của chúng ta và đảm bảo sự
phát triển bền vững và toàn diện trong thời gian tới.
Trong đề tài này, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu về lý luận hàng hóa và cách áp
dụng nó vào thực tế phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam.
Nội dung bài thảo luận chia làm 4 chương chính:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM
CHƯƠNG 3: CÁC THÁCH THỨC MÀ NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA VIỆT
NAM ĐÃ VÀ ĐANG PHẢI ĐỐI DIỆN
3
CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN CHO
NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA VIỆT NAM
Nhóm 2 xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy Tống Thế Sơn đã hướng dẫn
tận tình và cung cấp những kiến thức cơ sở để chúng em có thể thực hiện tìm hiểu và
nghiên cứu đề tài thảo luận. Trong quá trình nghiên cứu, do cịn hạn hẹp về kiến thức
nên khơng tránh khỏi những sai sót, chúng em mong muốn nhận được những sự góp ý
từ thầy.
Chúng em xin trân thành cảm ơn!
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đưa ra các lý thuyết chung về lý luận hàng hóa để nắm rõ được yếu tố cốt lõi
của mà đề tài hướng đến.
- Áp dụng được các lý thuyết chung vào thực tế nền kinh tế Việt Nam những
năm qua.
- Đưa ra được những nguyên nhân dẫn đến những thách thức mà Việt Nam
đang phải đối diện.
- Từ những nguyên nhân, thách thức đó đề xuất các giải pháp phù hợp với từng
đối tượng.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Kinh tế hàng hóa Việt Nam.
- Phạm vi đề tài: Trong nền kinh tế hàng hóa Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý luận hàng hoá
1.1.1. Khái niệm
Hàng hóa là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng
hóa, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hóa khi nó là đối tượng mua
bán trên thị trường.Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu
nào đó của con người thơng qua trao đổi hay mua bán. Hàng hố có thể ở dạng vật thể
hoặc phi vật thể.
Theo định nghĩa của Karl Marx, hàng hóa là sản phẩm của lao động, thông qua
trao đổi, mua bán có thể thỏa mãn một số nhu cầu nhất định của con người. Hàng hóa
có thể đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất.
1.1.2. Thuộc tính của hàng hóa
Dù khác nhau về hình thái tồn tại, song mọi thứ hàng hóa đều có hai thuộc tính
là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của vật phẩm, có thể thỏa mãn một
nhu cầu nào đó của con người; nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh
thần; cũng có thể là nhu cầu cho tiêu dùng của cá nhân, có thể là nhu cầu tiêu dùng cho
sản xuất.
Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để mặc, của máy móc, thiết
bị, nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất, …
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên của yếu tố tham gia cấu
thành nên hàng hóa đó quy định. Nền sản xuất càng phát triển, khoa học, công nghệ
càng tiên tiến, càng giúp con người phát hiện ra nhiều và phong phú các giá trị sử dụng
của hàng hóa khác nhau.
Ví dụ: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu
trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người
mua. Cho nên, nếu là người sản xuất, tất yếu phải chú ý chăm lo giá trị sử dụng của
hàng hóa do mình sản xuất ra sao cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế
của người mua.
5
Giá trị
Theo C.Mác, giá trị của hàng hóa là lao động của con người sản xuất ra hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa ấy.
Để lý giải rõ khái niệm này, C.Mác đã đặt vấn đề, tại sao giữa các hàng hóa có
giá trị sử dụng khác nhau lại trao đổi được với nhau? Mối quan hệ tỷ lệ về lượng giữa
các giá trị sử dụng khác nhau được C.Mác gọi là giá trị trao đổi.
C.Mác cho rằng, sở dĩ các hàng hóa trao đổi được với nhau là vì chúng có một
điểm chung. Điểm chung đó ở chỗ, chúng đều là kết quả của sự hao phí sức lao động.
Tức là hàng hóa có giá trị. Khi là hàng hóa, dù khác nhau về giá trị sử dụng, chúng đều
là kết quả của sự hao phí sức lao động của người sản xuất ra hàng hóa ấy, nên hàng
hóa có giá trị.
Mặt khác, khi đã đề cập tới hàng hóa, có nghĩa là phải đặt sản phẩm của lao
động ấy trong mối liên hệ với người mua, người bán, trong quan hệ xã hội. Do đó, lao
động của hao phí để sản xuất ra hàng hóa mang tính xã hội, tức hàm ý quan hệ giữa
người bán và người mua, hàm ý trong quan hệ xã hội. Trên cơ sở đó, C.Mác quan
niệm đầy đủ hơn: Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất ra hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa ấy.
Như vậy, bản chất của giá trị là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh
trong hàng hóa. Giá trị hàng hóa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất;
trao đổi hàng hóa và là phạm trù mang tính lịch sử. Khi nào có sản xuất và trao đổi
hàng hóa, khi đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra
bên ngồi của giá trị; giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi.
Ví dụ: 1 m vải = 4 kg gạo.
Gạo và vải, tại sao lại trao đổi được với nhau, hơn nữa lại trao đổi được theo
một tỉ lệ nhất định như vậy, rõ ràng nó phải có một cơ sở chung, đó khơng phải là giá
trị sử dụng của chúng vì vải và gạo có giá trị sử dụng hồn tồn khác nhau, cái chung
đó là cả vải và gạo đều là sản phẩm của lao động, do lao động (thời gian lao động và
cơng sức lao động) được chứa đựng trong hàng hố, đó chính là cơ sở giá trị của
hàng hố.
Mối quan hệ giữa giá trị và giá trị sử dụng
6
Giá trị là nội dung, là cơ sở của trao đổi, còn giá trị sử dụng chỉ là hình thức
biểu hiện của giá trị. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính
xã hội của hàng hóa. Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và
giá trị, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: Người
làm ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra, nếu họ có
chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị. Ngược lại, người mua hàng
hóa lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử
dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người bán.
Hai thuộc tính này vừa thống nhất mà vừa đối lập. Chúng cùng tồn tại trong
một hàng hóa. Nếu coi là giá trị sử dụng thì hàng hóa khác nhau về chất, nếu coi là giá
trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất bởi đều là sự kết tinh của lao động. Quá trình
thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời về không gian và thời gian.
1.2. Khái niệm kinh tế hàng hóa
1.2.1. Khái niệm
Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân cơng lao động và trao đổi hàng hóa,
dịch vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh tế tự cung tự cấp trong đó
người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng.
Để cho đơn giản, giả định nền kinh tế có hai cá nhân là A và B. Có sự phân
cơng lao động (có thể dựa trên năng lực sản xuất) giữa hai người; A chuyên sản xuất
gạo và B chuyên sản xuất thịt. Hai người sẽ đem trao đổi sản phẩm của mình với nhau,
nhờ đó mỗi người đều có cả gạo lẫn thịt. Khi sản phẩm được trao đổi, chúng trở thành
hàng hóa. Nền kinh tế hình thành từ quan hệ trao đổi hàng hóa này chính là kinh tế
hàng hóa.
Ở giai đoạn sơ khai, trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là hàng đổi
hàng. Người sản xuất gạo và cần thịt có thể gặp người sản xuất thịt và cần gạo để đổi
trực tiếp gạo lấy thịt. Đây đã là kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, nếu khơng gặp được
người có thứ mình cần và cần thứ mình có, thì trao đổi không được thực hiện.
Khi tiền ra đời, khi có nhiều hơn hai cá nhân, người ta có thể sử dụng tiền làm
phương tiện trao đổi. Người A bán gạo cho người B và nhận tiền để mua rượu từ
người C. Người C bán rượu cho người A và nhận tiền để mua thịt từ người B. Người B
7
lại bán thịt cho người C và nhận tiền để mua gạo của người A. Lúc này, nền kinh tế
hàng hóa đồng thời là kinh tế tiền tệ.
Có nhiều cơ chế trao đổi. Khi cơ chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường, kinh tế
hàng hóa đồng thời là kinh tế thị trường. Khi cơ chế trao đổi dựa trên những sắp xếp
quy hoạch từ một trung tâm nào đó, kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế kế hoạch.
1.2.2. Điều kiện ra đời của kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa ra đời và tồn tại dưới nhiều hình thức kinh tế – xã hội gắn liền
với hai điều kiện, cụ thể:
a) Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành,
nghề khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo sự chuyên mơn hóa lao động, do đó
dẫn đến chun mơn hóa sản xuất.
Cơ sở của phân cơng lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự nhiên,
kĩ thuật, năng khiếu, sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa trên
những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng vùng.
Phân công lao động có vai trị đó là làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu vì khi có phân cơng lao động xã hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một
hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm
dẫn đến họ phải trao đổi sản phẩm với nhau. Ngồi ra, phân cơng lao động xã hội còn
làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do đó ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư
lên trao đổi.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ
để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn
tại phải có điều kiện thứ hai.
b) Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa người sản xuất
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế tức là những người sản xuất trở thành
những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền
sở hữu của các chủ thể kinh tế hoặc do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Có ba cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất quy định còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách
8
biệt này cịn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản
xuất hàng hố ra đời trong chế độ chiếm hữu nơ lệ. Sự tách biệt này do các quan hệ sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động.
Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người
sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao
động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy
người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác phải thơng qua việc mua - bán
hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.
Cơ sở thứ ba đó là do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp
tư liệu sản xuất quy định. Sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về quyền sở
hữu mà còn khác biệt ở quyền sử dụng những khối lượng tư liệu sản xuất khác nhau
của cùng một chủ thể sở hữu. Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản xuất
tồn tại trong điều kiện có sự phân cơng lao động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa
những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ có thể có
được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là trao đổi hàng hóa,
sản phẩm của lao động trở thành hàng hóa.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho sản
phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người sản xuất đó, do đó họ mới có
quyền mang nó đi bán. Thêm vào đó, sự tách biệt ấy cịn làm cho quan hệ trao đổi của
chủ thể đó tất yếu mang hình thái trao đổi hàng hóa, vì sự tách biệt tương đối về mặt
kinh tế làm cho những chủ thể sản xuất ấy có lợi ích kinh tế độc lập với nhau. Chính vì
vậy, sản phẩm làm ra phải mang hình thức trao đổi theo nguyên tắc ngang giá mới
cơng bằng, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của các chủ thể đó.
1.2.3. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường hàng hóa, chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định
có sử dụng tư liệu sản xuất và những sản phẩm mà họ sản xuất ra. Như vậy, người sản
xuất muốn sử dụng sản phẩm khác của người sản xuất khác thì họ buộc phải trao đổi
sản phẩm lao động với nhau. Lúc này, sản phẩm lao động sẽ trở thành hàng hóa.
9
Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hóa, người sản xuất trở thành người sản
xuất hàng hóa, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất xã hội vừa
mang tính tư nhân, cá biệt.
1.2.4. Ưu thế của nền kinh tế thị trường hàng hóa
So với kinh tế tự nhiên, một loại hình kinh tế cịn in đậm dấu vết ở nước ta,
kinh tế hàng hố có những ưu thế sau:
- Thúc đẩy q trình xã hội hố sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân cơng
lao động, chun mơn hố sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ kinh tế và
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền đề cho sự hợp
tác lao động ngày càng chặt chẽ.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, người sản xuất phải năng động,
luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng và
hình thức mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu xã hội... Kết quả là thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, gắn sản xuất với thị trường.
- Thúc đẩy q trình tích tụ và tập chung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh tế
trong nước và hội nhập thế giới. Có tác dụng lớn trong việc tuyển chọn các doanh
nghiệp và các cá nhân quản lý kinh doanh giỏi.
- Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản xuất khép
kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo những điều kiện cần
thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao thực hiện
dưới hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Cơ chế thị trường tự điều tiết kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển. Tạo
môi trường kinh doanh và gia tăng động lực phát triển kinh tế xã hội mà thành tựu đạt
được là đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng và suy thoái kéo dài.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hố, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật của
nó. Trên thị trường chứa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân
đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu,
mơi trường bị huỷ hoại, tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh, phá sản, thất nghiệp,
phân hố xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội không
được bảo đảm, tệ nạn xã hội tăng,... Vì vậy, để phát huy ưu thế, khắc phục những
khuyết tật của no, cần phải tăng cường sự quản lý của Nhà nước.
10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM
2.1. Tổng quan lý luận về hàng hóa tại Việt Nam
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và
sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: “Nhận
thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây
dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các
loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”.
“Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện
theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”. Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu
cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của
nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Nhờ vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử đó là:
- Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát
triển. Một số thị trường phát triển mạnh, vận hành tương đối thông suốt, như thị trường
hàng hóa, dịch vụ, thị trường chứng khốn. Quy mơ, phạm vi tự do hóa các loại thị
trường ngày càng được mở rộng,... Các thành tố cơ bản của thị trường tài chính, như
thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm cùng
nhiều loại cơng cụ tài chính, giấy tờ có giá đã được hình thành tương đối hồn chỉnh
và đang được đưa vào vận hành, góp phần tạo điều kiện thu hút, tạo ra nguồn vốn cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển các yếu tố thị trường, các
loại thị trường ngày càng được nâng cao, thủ tục hành chính từng bước được hoàn
thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển các loại thị trường. Nhiều rào cản tham gia thị trường
được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo
và phát triển doanh nghiệp khá sôi động.
+ Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn;
kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh
11
tế tập thể từng bước được đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về
hình thức, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương thế hệ
mới; kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngồi tăng mạnh, đóng góp
tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.
- Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đem lại
những thay đổi rất to lớn cho Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
+ Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Việt Nam đã ra khỏi nhóm
các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Quy mô GDP theo giá hiện hành năm 2022
ước đạt 409 tỷ USD. GDP bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 4.110 USD/ người.
Đặc biệt, sau khi cơ bản khống chế được đại dịch COVID-19, nền kinh tế Việt Nam đã
mở cửa trở lại và có những bước hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2022, tăng
trưởng GDP đạt 8,02%, lạm phát cơ bản bình quân tăng 2,59% so với năm 2021. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với
năm trước.
+ An sinh xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong giáo dục, y tế, hỗ
trợ các đối tượng có hồn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã
được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được
cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ
sinh giảm gần ba lần.
+ Nhờ kinh tế phát triển, Việt Nam có điều kiện để chăm sóc tốt hơn người có
cơng, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy
sinh vì Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát
triển phong phú, đa dạng. Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là
một trong những nước có tốc độ phát triển internet cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã
công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa Mục
tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
+ Có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và
tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo
đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được
12
giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phịng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và
hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường;
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố.
Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:
- Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất
quán và những bất cập trong q trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy,
chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước,
thị trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
- Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả
năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
- Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển cịn dàn trải, lãng phí, chưa
cơng bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã
hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ
phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít
được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được
đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện
những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền
thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
2.2. Nền kinh tế hàng hóa Việt Nam trước năm 1986
2.2.1. Thời kỳ 1945 - 1954 (Giai đoạn khó khăn nhất của nền Kinh tế hàng hóa)
Chính quyền cách mạng Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời đã phải đối phó với
“giặc đói”, “giặc dốt”, và “giặc ngoại xâm”. Với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị
tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nạn đói, lũ lụt lớn, hạn hán kéo dài; một nửa số ruộng
đất không canh tác được. Các ngành sản xuất đều bị sa sút, ngưng trệ, hàng hóa trở lên
khan hiếm, thị trường rơi vào tình trạng đình đốn, tiêu điều. Kho bạc hồn toàn trống
rỗng. Lạm phát phi mã, giá gạo từ chỗ 4 - 5 đồng/tạ, đến giữa năm 1945 đã lên tới 700
- 800 đồng/tạ. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35
13
USD. Hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết viết. Cuộc sống của nhân
dân rơi xuống mức vơ cùng khó khăn.
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 09/09/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu sáu nhiệm vụ cấp bách. Trong đó, Bác nhấn mạnh việc đẩy mạnh sản
xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp, xây dựng, phát triển kinh tế kháng chiến, từng
bước giải quyết vấn đề ruộng đất. Cụ thể là tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và
Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng, chia lại ruộng đất một cách hợp lý hơn, công
bằng hơn. Đồng thời giảm tô, giảm tức, chủ trương tăng gia sản xuất, bảo vệ quyền lợi
quốc gia, điều hoà quyền lợi giữa tư sản và lao động.
Nhà nước khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất nơng nghiệp và các sản
phẩm thiết yếu dân sinh như vải mặc, đường, mực, phấn viết, ngòi bút, thuốc lá, các đồ
dùng gia đình, hóa chất, giấy, dệt, diêm, xà phịng, thuốc đánh răng, dầu, nung vơi,
đóng gạch ngói, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm và tự do giao thương hàng hóa.
Chính phủ có chính sách cho vay phát triển ngành dệt, làm áo mưa, làm mực viết; ban
hành chính sách thuế công thương nghiệp mới thay thế cho nhiều loại thuế được áp
dụng trong thời gian trước (như thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi tức tổng hợp, các loại
thuế thu khác); miễn thuế cho những nghề lặt vặt của dân nghèo, nghề phụ gia đình,
những xí nghiệp sản xuất hàng hóa cho qn đội, những xí nghiệp hoạt động trong
những điều kiện đặc biệt khó khăn; khuyến khích khơi phục hoạt động các làng nghề,
các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và thủ công nghiệp phục vụ cho quốc phòng
và dân sinh.
Tiếp sau chiến thắng biên giới (tháng 10/1950), Việt Nam đã thiết lập và mở
rộng, phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa (Trung
Quốc và Liên Xơ), góp phần thúc đẩy sản xuất, khai thác lâm, thổ sản, cải thiện đời
sống nhân dân. Năm 1952, số thu ngân sách Nhà nước (NSNN) đảm bảo được 78% số
chi. Năm 1953, lần đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám, số thu NSNN vượt chi được
16%. Ở các vùng giải phóng, sản xuất nơng nghiệp phát triển, sản lượng lương thực
năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946. Từ năm 1946 -1950 đã sản
xuất 20 nghìn tấn than cốc, 800kg ăng-ti-moan; từ năm 1950 đến cuối năm 1952 sản
xuất được 29,5 tấn thiếc, 43 tấn chì; những năm 1950 - 1954 sản xuất được 169,3 triệu
mét vải, 31,7 nghìn tấn giấy… Chỉ số giá bán lẻ bình quân năm trong giai đoạn 1945 -
1954 tăng khoảng 66%.
14
2.2.2. Thời kỳ 1955 - 1975 (Giai đoạn phát triển kinh tế trong bối cảnh chống chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam).
Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa,
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các
ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Trong giai đoạn này, ở miền Bắc nền kinh tế hàng hóa đã đạt được những thành
tựu to lớn như:
+ Về nơng nghiệp có sự phát triển tích cực, hết năm 1957 đã vượt mức của năm
1939, năm cao nhất trong thời kỳ Pháp thuộc: Diện tích trồng lúa của miền Bắc là
2.191.800 ha (so với 1.811.000 ha của năm 1939), năng suất 18,01 tạ/ha (so với 13,04
tạ/ha của năm 1939), sản lượng 3.948 tấn (so với 2.407 tấn của năm 1939), thóc bình
qn đầu người là 286,7 kg (so với 211,2kg của năm 1939); đàn trâu tăng 51,1%, đàn
bò tăng 60,1%; đàn lợn tăng 30,8% so với năm 1939. Năm 1975 có 17 nghìn hợp tác
xã nơng nghiệp, tăng 12,2 nghìn hợp tác xã so với năm 1958; sản lượng lương thực
quy thóc đạt 5,49 triệu tấn, tăng 1,73 triệu tấn so với năm 1955; năng suất lúa đạt 21,1
tạ/ha, tăng 5,2 tạ/ha; đàn lợn có 6,6 triệu con, tăng 4,2 triệu con.
+ Về sản xuất công nghiệp, sản lượng công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng
lớn và ngày càng tăng (năm 1955: 41,7%; năm 1956: 60,3%; năm 1957: 66,6%). Mặt
khác, thủ cơng nghiệp cũng được khuyến khích hỗ trợ nên phục hồi và phát triển khá,
đến năm 1955 chỉ có 111.300 cơ sở với 298.400 lao động thì cuối năm 1957 đã có
156.329 cơ sở với 440.000 lao động. Do vậy, sản lượng công nghiệp và thủ công
nghiệp tăng lên rõ rệt, cuối năm 1957 bằng 299,8% so với năm 1939, trong đó, nhóm
A bằng 134,4% và nhóm B bằng 483,1% mức năm 1939. Số xí nghiệp cơng nghiệp
được khơi phục năm 1955 là 21 cơ sở, năm 1956 là 110 cơ sở và năm 1957 là 150 cơ
sở, trong đó có 93 xí nghiệp do Trung ương quản lý mà 50 xí nghiệp là cơ sở mới xây
dựng, bao gồm cả Nhà máy Cơ khí Hà Nội, con đầu lịng của cơng nghiệp chế tạo máy
tại Việt Nam. Năm 1975, giá trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 4.175,4 tỷ đồng, gấp
13,8 lần năm 1955; bình quân năm trong giai đoạn 1956 -1975 tăng 14%/năm.
2.2.3. Thời kỳ 1976 - 1986 (Giai đoạn phục hồi kinh tế sau thống nhất đất nước -
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp)
15
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế theo mô hình kinh tế Liên Xơ, chủ
yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh, áp đặt từ trên
xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Sau hai kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và lần thứ ba (1981 - 1985), Việt Nam
phục hồi được phần lớn những cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc
và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Tổng sản phẩm
trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977 - 1985 tăng 4,65%, trong đó:
nơng, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng
2,18%/năm. Khu vực kinh tế quốc doanh tăng 4,29%; khu vực kinh tế tập thể tăng
10,26% và khu vực kinh tế tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nông, lâm nghiệp chiếm
38,92% GDP và chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp chiếm
39,74% GDP.
Đặc biệt, tình trạng khan hiếm hàng hóa và lạm phát ngầm ngày càng gia tăng,
với chỉ số giá bán lẻ tăng bình quân 39,53%/năm trong cả giai đoạn 1976 - 1985. Tổng
mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân thời kỳ này tăng 61,6%/năm. Ở miền Bắc, mặc
dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình cơng nhân viên chức tăng từ
27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình quân đầu người một
tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên đến 505,7
đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
2.3. Nền kinh tế hàng hóa Việt Nam sau năm 1986
2.3.1. Giai đoạn 1986 - 2000 (Giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế)
Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi
mới, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong phát triển kinh tế. Nền kinh tế chuyển đổi từ
tập trung, bao cấp sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhiều cải cách mạnh mẽ được thực hiện, như mở rộng thành phần kinh tế,
khuyến khích kinh tế tư nhân, phân cấp, phân quyền trong quản lý kinh tế và tăng
cường vai trò của thị trường. Hệ thống pháp luật kinh tế cũng dần được hoàn thiện
16
được thể hiện ở việc ban hành nhiều điều luật, văn bản quy phạm pháp luật tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi.
Nhờ những đổi mới này, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. GDP bình quân đầu người tăng từ 200 USD (1986) lên 480 USD (2000), tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực với tỷ
trọng khu vực nông nghiệp giảm, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng. Nền
kinh tế ngày càng đa dạng hóa, nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển. Giao lưu kinh
tế quốc tế cũng được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh và thu hút vốn đầu tư
nước ngoài (FDI) tăng cao.
Bên cạnh những thành tựu, giai đoạn này cũng đối mặt với một số thách thức
như khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1997) gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh
tế, hay vấn đề khoảng cách giàu nghèo gia tăng, bất bình đẳng trong phát triển kinh tế.
Có thể nói, giai đoạn 1986-2000 là thời kỳ chuyển đổi quan trọng và đầy thành
tựu của nền kinh tế hàng hóa Việt Nam. Chuyển đổi sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại nhiều kết quả tích cực, tạo nền tảng cho những
bước phát triển tiếp theo của đất nước.
2.3.2. Giai đoạn 2000-2010 (Giai đoạn hội nhập và phát triển)
Bước vào thế kỷ 21, nền kinh tế hàng hóa Việt Nam bước vào giai đoạn hội
nhập và phát triển mạnh mẽ. Đây là thời kỳ đất nước gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) năm 2007 và ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) quan
trọng, mở ra cánh cửa cho hàng hóa Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế.
Với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,08%/năm, Việt Nam đã ghi dấu ấn
trên bản đồ kinh tế thế giới. GDP bình quân đầu người tăng từ 480 USD (2000) lên
1.318 USD (2010), cho thấy đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực với tỷ trọng khu vực nông nghiệp tiếp tục giảm, nhường chỗ cho
sự phát triển mạnh mẽ của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Hơn thế, nền kinh tế của
đất nước ta ngày càng đa dạng hóa với sự năng động và hội nhập sâu rộng.
Hội nhập quốc tế cũng thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) mạnh mẽ.
Tổng vốn FDI đăng ký giai đoạn này đạt 114,2 tỷ USD, đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế và xuất khẩu. Hệ thống pháp luật kinh tế ngày càng hồn thiện, tạo mơi
trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
17
Bên cạnh những thành tựu kinh tế, Việt Nam cũng đạt được nhiều tiến bộ trong
lĩnh vực giáo dục, y tế và văn hóa xã hội. Điều này được thể hiện qua tỷ lệ hộ nghèo
giảm một cách đáng kể từ 19,5% (2000) xuống 20,7% (2010).Hơn thế, mạng lưới
trường học được mở rộng, chất lượng giáo dục được nâng cao. Hệ thống y tế được cải
thiện, góp phần nâng cao sức khỏe cho người dân. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc được phát huy. An ninh quốc phòng được giữ vững, tạo môi trường ổn
định cho phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng đối mặt với một số thách thức như khủng hoảng
tài chính tồn cầu năm 2008 đã mang đến những ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế
Việt Nam và gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó,
nền kinh tế Việt Nam cịn phải đối diện với vấn đề khoảng cách giàu nghèo, bất bình
đẳng trong phát triển kinh tế và nạn tham nhũng, lãng phí.
Tóm lại, giai đoạn 2000-2010 là thời kỳ có ý nghĩa quan trọng trong q trình
phát triển của nền kinh tế hàng hóa Việt Nam. Những thành tựu đạt được đã tạo nền
tảng vững chắc cho đất nước tiếp tục hội nhập và phát triển trong những năm tiếp theo.
2.3.3. Giai đoạn 2010 đến nay (Giai đoạn hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững)
Ở giai đoạn hiện nay, nền kinh tế hàng hóa Việt Nam đã và đang tiếp tục đúc
kết những kinh nghiệm ở các giai đoạn trước bước vào đà phát triển mạnh mẽ và hội
nhập sâu rộng.
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với việc Việt Nam tham gia vào các Hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA đã góp phần nâng cao vị thế
quốc tế của đất nước. Cùng với đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, GDP bình quân
đầu người tăng từ 1.318 USD (2010) lên 3.500 USD (2023), tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 6,2%/năm cho thấy đời sống người dân được cải thiện rõ rệt.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực với tỷ trọng khu vực nông nghiệp
giảm, tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng. Nền kinh tế ngày càng đa dạng
hóa, năng động và hội nhập sâu rộng. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hiệu quả,
với vốn FDI thực hiện giai đoạn 2011-2020 đạt 17,5 tỷ USD/năm tập trung vào các
ngành công nghiệp công nghệ cao, chế biến chế xuất.
Bên cạnh phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh
vực giáo dục, y tế, văn hóa xã hội. Mạng lưới trường học được mở rộng, chất lượng
giáo dục được nâng cao. Hệ thống y tế được cải thiện, áp dụng nhiều công nghệ tiên
18
tiến hiện đại góp phần nâng cao sức khỏe cho người dân. Nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc được phát huy. An ninh quốc phòng được giữ vững, tạo môi trường
ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, nền kinh tế Việt Nam cũng đối mặt với
nhiều thách thức như biến đổi khí hậu ngày càng trở nên phức tạp và khó đối phó, địi
hỏi Đảng và nhà nước phải có những chính sách bảo vệ mơi trường. Khơng những ở
giai đoạn này nền kinh tế còn phải đối diện với đại dịch COVID-19 đã làm ảnh hưởng
nghiêm trọng, làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh..
Qua đó, có thể thấy giai đoạn 2010 đến nay là thời kỳ có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa Việt Nam. Những thành tựu đạt
được đã tạo nền tảng vững chắc để đất nước tiếp tục hội nhập và phát triển bền vững
trong những năm tiếp theo.
19