Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận Triết học Nhóm 1: Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thông thái (word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.72 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT

TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: KHOA HỌC CHO CHÚNG TA TRI THỨC,
NHƯNG CHỈ TRIẾT HỌC MỚI CÓ THỂ CHO CHÚNG TA

SỰ THÔNG THÁI

Giảng viên hướng dẫn : TS. BÙI XUÂN DŨNG

Học viên thực hiện : LÊ MINH CHÁNH

Lớp : XDC19B

Mshv : 1980803

TP. HCM 14 - 02 - 2020

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

MỤC LỤC

1. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ..........................................................................................4
1.1. Tóm tắt tiểu sử.............................................................................................4
1.2. Các tác phẩm tiêu biểu................................................................................4

2. CÁCH HIỂU VỀ NỘI DUNG CÂU NÓI...............................................................5
2.1. Khoa học là gì ?...........................................................................................5
2.2. Tri thức là gì ?...............................................................................................6


2.3. Triết học là gì ?............................................................................................6
2.4. Sự thơng thái là gì ?.....................................................................................6
2.5. Kết luận (cách hiểu về nội dung câu nói từ ý nghĩa các cụm từ trên)...6

3. NỘI DUNG ĐƯỢC HIỂU TRONG TRIẾT HỌC CỦA CÂU NÓI.......................7
3.1. Mối quan hệ và điểm khác biệt giữa triết học và khoa học....................7
3.1.1. Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết học..............8
3.1.2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự
phát triển khoa học.......................................................................................10
3.1.2.1. Thế giới quan và phương pháp luận................................................10
3.1.2.2. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với
sự phát triển khoa học..................................................................................11
3.1.3. Điểm khác biệt giữa khoa học và triết học.........................................13
3.1.4. Kết luận (các hiểu nội dung câu nói trong trong triết học)................14

4. VẬN DỤNG - Ý NGHĨA TRONG CUỘC SỐNG VÀ KINH NGHIỆM.............14
4.1. Thứ nhất, triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng

trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới..........................................................14
4.1.1. Ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm..........................................15

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 1

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

4.2. Thứ hai, triết học là khoa học cung cấp nội dung những tri thức triết
học; nhờ đó, tư duy con người có thể tạo ra một trí tưởng tượng tích cực trong
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới....................................................................16


4.3.1. Ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm..........................................16

5. TÀI LIỆU THAM KHẢO.....……………………………………………………17

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 2

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

LỜI MỞ ĐẦU

“Khoa học cho chúng ta tri thức nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta
sự thơng thái”.

Câu nói rất hay của tác giả William James Durant, một nhà triết gia lỗi lạc.
Căn cứ tính tất yếu của vấn đề, ý nghĩa từ câu nói và u cầu tiểu luận. Tơi xin
phép được tìm hiểu và làm rõ ý nghĩa của câu nói trên lần lượt qua các mục sau:

Thứ nhất: Cách hiểu về nội dung trong câu nói.
Thứ hai: Nội dung được hiểu trong triết học của câu nói.
Thứ ba: Vận dụng ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm.

Thơng qua ba mục chính trên, có thể chưa khai thác hết ý nghĩa mà tác giả
muốn truyền tải đến mọi người, nhưng cũng phần nào cho chúng ta hiểu được về
khoa học, tri thức, triết học và sự phát triển và của ứng dụng của nó trong đời
sống xã hội nói chung, con người nói riêng, và góp phần sự phát triển của thế
giới.


Trong bài tiểu luận này, nếu có những điều sai xót, hoặc khơng đầy đủ về
nội dung, mong rằng Thầy Cơ và các Bạn cùng đóng góp và hiệu chỉnh cho phù
hợp.

Trân trọng !

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 3

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

1. Giới thiệu tác giả

1.1. Tóm tắt tiểu sử

William James Durant (5/11/1885 – 7/11/1981). Sinh tại North Adams,
Massachusetts, cha mẹ ông là người Canada gốc Pháp đã di cư từ Québec đến
Mỹ.

Là một nhà sử học, triết học và tác gia Hoa Kỳ.
- Năm 1900, Will học trường dòng Tên trung học Saint Peter và sau đó

là Trường cao đẳng Saint Peter tại thành phố Jersey, New Jersey.
- Năm 1905, ông trở thành một nhà xã hội. Ông tốt nghiệp năm 1907 và

làm việc như một nhà báo cho tờ New York Evening Journal của Arthur
Brisbane.

- Năm 1907, ông bắt đầu dạy tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh và hình

học tại Trường Seton Hall, ở Nam Orange, New Jersey.

- Vào năm 1911, ơng rời khỏi Trường dịng và trở thành một giáo viên và
người đại diện học sinh tại trường Ferrer Modern, một trường thử nghiệm
phương pháp giáo dục tự do.

- Năm 1913, ông rời bỏ công việc giáo viên. Để kiếm sống, ông bắt đầu
thuyết giảng trong một nhà thờ Presbyterian

- Năm 1917, Ông nhận bằng tiến sỹ. Ông cũng làm trợ giáo tại Đại học
Columbia.

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 4

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

1.2. Các tác phẩm tiêu biểu

- Durant, Will (1926). The Story of Philosophy. Nhà xuất bản Simon and
Schuster, New York.

- Durant, Will (1927). Transition. Nhà xuất bản Simon and Schuster, New
York.

- Durant, Will (1930) The Case for India. Nhà xuất bản Simon and
Schuster, New York.

- Durant, Will, & Durant, Ariel (1965). The Age of Voltaire. Nhà xuất bản

Simon and Schuster, New York.

- Durant, Will, & Durant, Ariel (1975). The Age of Napoleon. Nhà xuất
bản Simon and Schuster, New York.

- Những bộ óc và ý tưởng vĩ đại nhất mọi thời đại (2002) và Những anh
hùng của lịch sử: Lịch sử tóm tắt văn minh từ thời cổ đại đến cận hiện
đại (2001).

2. Cách hiểu về nội dung câu nói

Để hiểu được nội dung câu nói trên của tác giả, chúng ta cần lần lượt làm rõ
ý nghĩa các cụm từ sau đây.

2.1. Khoa học là gì ?

Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức

mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết

mới này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, khơng cịn phù hợp.

Ví dụ: Quan niệm thực vật là vật thể khơng có cảm giác được thay thế bằng

quan niệm thực vật có cảm nhận.

Như vậy, khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về qui luật của vật chất và

sự vận động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ


HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 5

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

thống tri thức này hình thành trong lịch sử và khơng ngừng phát triển trên cơ sở
thực tiễn xã hội.

2.2. Tri thức là gì ?

Tri thức bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mơ tả, hay kỹ năng có được
nhờ trải nghiệm hay thơng qua giáo dục. Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một
đối tượng, về mặt lý thuyết hay thực hành.

Nó có thể ẩn tàng, hay tường minh, như những hiểu biết lý thuyết về một đối
tượng; nó có thể ít nhiều mang tính hình thức hay có tính hệ thống.

Mặc dù có nhiều lý thuyết về tri thức, nhưng hiện khơng có một định nghĩa
nào về tri thức được tất cả mọi người chấp nhận.

2.3. Triết học là gì ?

Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con
người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có
kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ.

Triết học được phân biệt với những mơn khoa học khác bằng cách thức mà
nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có
hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.


2.4. Sự thông thái là gì ?

Là thuật ngữ chỉ sự am hiểu sâu rộng các kiến thức về nhiều lĩnh vực khác
nhau trong đời sống xã hội.

Ví dụ: Chúng ta vẫn thương được nghe nhắc đến các nhà thơng thái nổi
tiếng, đây chính là những người uyên bác, sâu sắc, có tầm hiểu biết chuyên sâu,
rộng rãi

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 6

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

2.5. Kết luận (cách hiểu về nội dung câu nói từ ý nghĩa các cụm từ trên)

Vế thứ nhất trong câu nói “Khoa học cho chúng ta tri thức”, vì khoa học là
quá trình nghiên cứu khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới, … về tự
nhiên và xã hội.

- Nhờ vậy chúng ta mới có sự hiểu biết thực tế, có tri thức qua sự trải
nghiệm về một đối tượng được chứng minh qua quá trình thực hành nghiên cứu
và khám phá.

- Nhưng khoa học lại không giải quyết được các vấn đề chung và cơ bản
của con người và thế giới quan. Mà chỉ tập trung nghiên cứu cụ thể vào một vào
một sự vật hoặc một hiện tượng.


Vế thứ hai trong cấu nói “chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thơng
thái”, vì triết học nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con
người, thế giới quan.

- Đồng thời cách thức mà triết học giải quyết những vấn đề, đó là ở tính
phê phán, tiếp cận có hệ thống chung nhất.

- Nhờ vậy ta mới có thể am hiểu sâu rộng các kiến thức về nhiều lĩnh vực
khác nhau trong đời sống xã hội bằng sự thông thái mà chúng ta có được qua
học tập và nghiên cứu.

3. Nội dung được hiểu trong triết học của câu nói

3.1. Mối quan hệ và điểm khác biệt giữa triết học và khoa học

Mối quan hệ giữa triết học và khoa học khơng phải là vấn đề mới. Trải qua
một q trình lịch sử phát triển lâu dài, mối quan hệ ấy đã trở thành một trong
những “vấn đề triết học” được bàn luận sâu rộng với nhiều quan điểm khác
nhau.

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 7

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

Mối quan hệ giữa triết học và khoa học là mối quan hệ hai chiều, nghĩa là,
triết học và các khoa học đều có tác động biện chứng lẫn nhau. Nếu như sự tác
động của triết học đến nhau khoa học có thể chia thành những giai đoạn và mỗi
giai đoạn có những hình thức nhất định, thì ngược lại, sự tác động của khoa học

đến sự phát triển của triết học không phải khi nào cũng rõ ràng và có khuynh
hướng rõ rệt. Từ chỗ lúc đầu là một sự hòa trộn đan xen giữa tri thức khoa học
và triết học, dần dần là sự tách ra của khoa học và sau đó, khoa học bắt đầu ảnh
hưởng đến sự phát triển của triết học.

3.1.1. Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết học

Trước khi triết học và khoa học xuất hiện, thế giới xung quanh được phản
ánh trong ý thức ngun thủy của lồi người dưới hình thức thần thoại. Triết học
và thần thoại ra đời như một nỗ lực nhằm giải thích thế giới. Thực chất triết học
cũng tìm cách trả lời cho các vấn đề mà trước đó đã được đặt ra trong thần thoại,
nhưng bằng một phương thức khác. Triết học là sự phân tích lý luận các vấn đề
ấy dựa trên lơgíc, các tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn. Về mặt lịch
sử, sự ra đời của triết học trùng hợp với sự xuất hiện những mầm mống đầu tiên
của tri thức khoa học, với sự hình thành nhu cầu nghiên cứu lý luận. Chúng ta có
thể thấy rõ điều này ở Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp cổ đại khi mới hình
thành khơng độc lập với các tri thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với
chúng để hình thành nên môn khoa học tổng hợp.

Kể từ thời kỳ Phục hưng trở đi, ảnh hưởng của khoa học đến triết học càng
ngày càng rõ rệt. Theo dõi sự phát triển của khoa học trong thời kỳ này, chúng ta
thấy rằng quá trình phân ngành diễn ra nhanh chóng: Cơ học, vật lý học, hóa
học, sinh vật học, địa lý, thiên văn học,... lần lượt trở thành các khoa học độc
lập. Mỗi một khoa học tự xác định cho mình đối tượng nghiên cứu riêng. Giới tự

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 8

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]


nhiên được chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau và trở thành đối tượng của
những nghiên cứu độc lập.

Mặt khác, trong các khoa học tự nhiên thời bấy giờ, chỉ có cơ học là mơn
khoa học được coi là đạt đến mức độ hoàn thiện nhất định và vì thế, tư duy cơ
học máy móc cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến triết học. Chúng ta có thể nói
rằng, trong thời kỳ Phục hưng và cận đại, khoa học tự nhiên đã có ảnh hưởng
quyết định đến sự phát triển của triết học. Mỗi bước tiến mới của khoa học đều
bằng cách này hay cách khác tác động lên xu hướng phát triển và tư duy của
triết học.

Tác động của khoa học lên sự phát triển của triết học không phải là trực tiếp
và theo đường thẳng, mà là gián tiếp tạo ra bầu khơng khí tinh thần cho phép
hình thành một kiểu tư duy, một cái nhìn tương ứng với trạng thái đạt được của
khoa học về thế giới. Thông qua những tri thức và phát minh khoa học, các khái
niệm, các phạm trù triết học có thêm những nội dung mới. Chẳng hạn, thuyết
nhật tâm của Copernicus khẳng định rằng, trái đất khơng phải là trung tâm của
vũ trụ, thì rõ ràng nó đã giáng một địn chí mạng vào Kitô giáo, mở đầu cho thời
kỳ mới của khoa học tách khỏi tơn giáo và thần học. Thuyết tiến hóa của Darwin
đưa đến kết luận rằng, các loài động vật, thực vật không phải ngẫu nhiên, được
sự sáng tạo bởi những lực lượng thần thánh siêu tự nhiên, mà là kết quả của một
q trình hồn tồn do các lực lượng tự nhiên chi phối. Kết luận đó là một quan
điểm của triết học duy vật. Thuyết tương đối của Einstein một phát minh vạch
thời đại. Tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với không gian và thời gian
làm cho làm cho thuyết tương đối mang ý nghĩa duy vật sâu sắc.

Sự phát triển của khoa học tự nhiên nhất định sẽ đưa đến những kết luận triết
học chung như là một sự tổng kết lý luận. Những kết luận triết học rút ra từ các
phát minh của khoa học tự nhiên thường do chính các nhà khoa học tự nhiên


HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 9

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

thực hiện. Ảnh hưởng của khoa học đến sự phát triển của triết học có thể đưa
đến những kết luận tích cực, nhưng cũng có thể đưa đến những kết luận tiêu cực,
phản khoa học. Những phát minh khoa học những năm cuối thế kỷ XIX về sóng,
về phóng xạ, về điện tử... đã khiến khơng ít nhà khoa học hồi nghi về khái niệm
“vật chất” - nền tảng của chủ nghĩa duy vật; rằng, cần từ bỏ chủ nghĩa duy vật và
thay thế chủ nghĩa duy vật bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.

Kết luận triết học được các nhà khoa học rút ra từ những kết quả của mình
đa phần mang tính tự phát. Chỉ khi được xem xét trên một nền tảng thế giới
quan nhất định, chúng mới thực sự trở thành định hướng tích cực cho sự phát
triển khoa học.

3.1.2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự
phát triển khoa học

1.
2.
3.

3.1.
3.1.1.
3.1.2.


3.1.2.1. Thế giới quan và phương pháp luận

Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng khái quát của con
người về thế giới (bao gồm cả con người trong thế giới đó), về mối quan hệ giữa
con người với thế giới. Thế giới quan phản ánh hiện thực bên ngoài gián tiếp
qua các nhu cầu, lợi ích, các lý tưởng mang tính cá nhân hay xã hội.

Những quan điểm, tư tưởng khi trở thành niềm tin của con người, sẽ tích cực
tham gia vào định hướng thái độ của con người đối với các hiện tượng, các sự
kiện quan trọng trong hiện thực và trong đời sống, xác định “chỗ đứng của con
người trong thế giới”. Đối với triết học, những quan điểm tư tưởng ấy còn giúp

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 10

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MƠN TRIẾT HCMUTE]

hình thành nên các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo con người trong các hoạt động của
mình để đạt được mục đích; hay nói cách khác, là chúng thực hiện chức năng
phương pháp luận. Phương pháp luận triết học, do xuất phát từ những quan
điểm, quan niệm chung nhất về thế giới, con người và xã hội, nên cũng là
phương pháp luận chung nhất. Nó nêu lên những điều kiện chung cần thiết để
giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ cụ thể, chứ không phải trực tiếp giải quyết
chúng.

3.1.2.2. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết

học đối với sự phát triển khoa học


Chức năng thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học đối với
khoa học, được hầu hết các nhà khoa học thừa nhận.

Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa
học trước hết là ở vai trị nhận thức của nó, làm gia tăng tri thức mới. Sự phân
tích, lý giải triết học đối với các dữ liệu khoa học cũng chính là sự nghiên cứu
các hiện tượng ở mức độ khái quát chung và sâu sắc hơn. Hàng loạt các phạm
trù nền tảng của nhận thức được hình thành và phát triển như là các phạm trù
của triết học và các khoa học, ví dụ như các phạm trù “vật chất”, “không gian”,
“thời gian”, “vận động”, “nguyên nhân”, “lượng”, “chất”,... Triết học không đi
sâu giải quyết các vấn đề khoa học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề thuộc
về lý luận nhận thức phổ quát. Phát triển song hành cùng các khoa học cụ thể,
triết học vạch ra lơgíc của các q trình nhận thức, trở thành phương pháp luận
của nhận thức khoa học.

Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa
học là ở sự tổng kết các thành tựu đã đạt được của khoa học và làm sáng tỏ các
nguyên lý chung của chúng.

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 11

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển
của tri thức hiện đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên ngành mới, chuyên sâu
là xu hướng ngược lại: Xu hướng liên ngành kết hợp nhiều khoa học thành một
hệ thống thống nhất. Tính chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại
không chỉ thể hiện ở sự kết hợp của các ngành khoa học truyền thống thành các

khoa học mới như lý hóa, hóa lý, sinh hóa, sinh tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý...,
mà còn là sự xích lại gần nhau của các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
và khoa học nhân văn.

Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai trị ngày càng tăng
của nó trong đời sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ của nó với các nhân tố, điều
kiện phát triển xã hội và con người khiến cho vấn đề quản lý khoa học và định
hướng giá trị của nó trở nên cần thiết hơn. Quản lý và định hướng giá trị khoa
học ở đây không phải là quản lý sự sáng tạo khoa học, mà là quản lý các thiết
chế khoa học, kế hoạch chương trình phát triển khoa học; ứng dụng các kết quả
nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống. Việc quản lý và định hướng ấy
chắc chắn không thể không liên quan đến một thế giới quan nói chung, đến
những quan điểm triết học nhất định.

Mối quan hệ giữa triết học và khoa học có một q trình phát triển lâu dài.
Mối quan hệ ấy không đơn giản, bất biến, mà phức tạp, thay đổi và trở thành
một trong những “vấn đề triết học”, nghĩa là xung quanh nó ln tồn tại những
quan điểm khác nhau. Có thể thấy hai quan điểm nổi bật. Quan điểm thứ nhất,
tuyệt đối hóa vai trị của triết học, hạ thấp, coi thường vai trò của các khoa học.
Quan điểm thứ hai, tuyệt đối hóa vai trò của các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ
vai trò của triết học. Cả hai quan điểm này thực chất là cực đoan, chúng chỉ phản
ánh và tuyệt đối hóa một xu hướng nhất định đã có trong lịch sử triết học và
khoa học mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Có thể nói, cách tiếp cận như vậy về

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 12

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]


mối quan hệ giữa triết học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy siêu hình – lối
tư duy, mà xét trong những điều kiện nhất định có thể được coi là chính đáng,
cần thiết, nhưng xét trong phạm vi phổ qt thì nó bộc lộ những hạn chế nhất
định.

Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích
cực về mối quan hệ giữa triết học và khoa học. Mối quan hệ giữa triết học và các
khoa học là mối quan hệ biện chứng, thống nhất của các mặt đối lập. Tính đặc
thù của mối quan hệ này nằm ở chỗ, tùy từng giai đoạn phát triển cụ thể mà mặt
này hay mặt kia nổi trội, tác động của mặt này lên mặt kia không phải chỉ theo
một hướng duy nhất. Các kết luận triết học được rút ra từ khoa học có thể là tích
cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào lý luận nhận thức của
các nhà khoa học được định hướng bởi thế giới quan triết học nào.

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó trong thực tiễn đã
và đang làm thay đổi sâu sắc đời sống con người, góp phần làm bộc lộ những
hạn chế của tư duy siêu hình. Con đường duy nhất để khắc phục những giáo
điều, những khn sáo, trì trệ trong nhận thức và hành động là nắm chắc và vận
dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì phép biện chứng duy vật là phương pháp
luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.

3.1.3. Điểm khác biệt giữa khoa học và triết học

Trí thức khoa học được xây dựng trên những dẫn chứng logic, lí lẽ xác thực
cịn thơng thái của triết học thì bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề
đặt ra, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự
phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 13


DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

3.1.4. Kết luận (cách hiểu nội dung câu nói trong trong triết học)

Khoa học cho ta tri thức, ở đây khoa học là quá trình nghiên cứu của những
nhà khoa học sử dụng cách quan sát các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật chất
và bất thường của tự nhiên nhằm thu thập thông tin, rồi sắp xếp các thông tin đó
thành dữ liệu để phân tích nhằm giải thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự
vật hiện tượng rồi đưa ra những kiến thức mới, học thuyết mới về tự nhiên và xã
hội. Từ đó tạo nên cho con người chúng ta có thêm tri thức có thêm những thơng
tin, và để có những kiến thức hay và bổ ích để có thể ứng dụng vào đời sống thì
một phần do bản thân mỗi người có trải nghiệm về những kiến thức đó.

Tri thức mà ta thừa nhận để có thể sử dụng được nó ta cần tìm hiểu thật kĩ để
ta có thể ứng dụng vào từng thời điểm cụ thể tránh đi những sai lầm vì có những
tri tri thức ở hiện tại nó đã khơng cịn phù hợp nữa.

Dẫn chứng: Thomas Edison người sáng tạo ra bóng đèn.
Mặt khác triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản
của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những
vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức
và ngôn ngữ, bởi lẽ triết học nghiên cứu về nhiều vấn đề chung như vậy đã làm
cho con người nghiên cứu về triết học có sự hiểu biết chuyên sâu và rộng rãi
trên nhiều lĩnh vực khác trong đời sông xã hội.

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 14


DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

4. Vận dụng - ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm

4.

4.1. Thứ nhất, triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng
trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới

Năng lực tư duy trừu tượng mà triết học cung cấp chính là những khả năng,
như thấy được cái bản chất thông qua những hiện tượng; tìm được tính tất nhiên
thơng qua vơ vàn những ngẫu nhiên phong phú; chỉ ra được những nguyên nhân
đích thực của những kết quả đang hiện tồn; phát hiện tính quy luật của sự vận
động hỗn mang; sự thích ứng nhanh và tự điều chỉnh của khả năng nhận thức...

Dẫn chứng: Một bé trai đang chơi với một quả bóng, bé lỡ tay ném quả
bóng lên cao, khiến quả bóng bị mắc kẹt lại khơng lấy được. Sau một hồi quan
sát và suy nghĩ, bé lấy một cây sào ra chọc, khều cho quả bóng rơi xuống vì hơm
trước bé vừa thấy mẹ làm điều tương tự. Đây chính là bằng chứng cho thấy bé
đã sử dụng tư duy trừu tượng, nhận ra được sự tương đồng giữ tình huống đã
từng xảy ra và tình huống hiện tại, từ đó mà tìm ra hướng giải quyết.

Tóm lại, nó là tất cả những gì mà trên cơ sở lĩnh hội từ các tri thức triết
học, những năng lực đó được nảy ra.

4.1.1. Ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm

Vật lý học đã và đang tìm kiếm được những lý thuyết đầy thuyết phục nhằm

thống nhất những quy luật vật lý quản lý toàn vũ trụ. Sinh học đã xây dựng được
bản đồ gien con người. Y học có khả năng thay thế tạo hố bằng cách nhân bản
chính bản thân con người.

Công nghệ nano (công nghệ mà độ chính xác đạt tới mức một phần tỷ mét)
có lẽ sẽ tạo được những rơbốt ngun tử tự phân chia và làm được mọi thứ, từ

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 15

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

khai thông mạch máu tới diệt tế bào ung thư, từ đảo ngược q trình trái đất
nóng lên tới chữa lành mọi bệnh tật

Dẫn chứng:
- Cừu Dolly (hay còn gọi là cừu nhân bản) (5 tháng 7 năm 1996 - 14 tháng
2 năm 2003) là động vật có vú đầu tiên được nhân bản vơ tính trên thế giới. Nó
được tạo ra bởi Ian Wilmut, Keith Campbell và các cộng sự tại Viện
Roslin ở Edinburgh, Scotland.

4.2. Thứ hai, triết học là khoa học cung cấp nội dung những tri thức triết
học; nhờ đó, tư duy con người có thể tạo ra một trí tưởng tượng tích cực trong
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới

Trí tưởng tượng có được trước hết phải dựa trên cơ sở nắm được những tri
thức triết học để biết rằng, mọi kết quả đều có nguyên nhân, nhưng khơng phải
mọi sự kiện đều có thể tìm được nguyên nhân của nó.


4.3.1. Ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm

Dẫn chứng cụ thể về mục đích hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp
- Thu thập tất cả các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án
- Phân tích, đánh giá các chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật của vụ án
- Tìm hiểu thái độ, hành vi xử sự của những người tham gia tố tụng
- Nắm bắt được đặc điểm tâm lý của những người tham gia tố tụng
- Đưa ra các cách thức, phương pháp tác động tâm lý đến những người
tham gia tố tụng
Không dừng lại ở đó, đến một ngày người ta khơng thể dùng quan hệ nhân
quả để giải thích các sự kiện thì lúc đó, chỉ có năng lực trừu tượng của những
suy tư triết học mới có thể và cần phải tưởng tượng ra một chìa khố vạn năng

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 16

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

mới nhằm giải thích và hành động cho phù hợp với hiện thực, chẳng hạn, trong
trường hợp trên, cái cần tìm kiếm phải là một quy luật rộng hơn tính nhân quả.

Tóm lại, triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng và khả
năng tưởng tượng ra thế giới trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Để
có được điều này, trước hết người ta cần và phải có sự tích luỹ tri thức, đặc biệt
là dựa trên kết quả của các khoa học cụ thể. Nhưng phép cộng giản đơn trong
các thành tựu của khoa học cụ thể tự nó lại không thể tạo thành năng lực tư duy
trừu tượng. Đó là lý do các khoa học cụ thể khơng thể thay thế cho triết học và
triết học cũng không thể làm được công việc của các khoa học cụ thể. Chính nội
dung của những tri thức triết học và chỉ có nó mới làm sản sinh trong năng lực

nhận thức của con người cách suy nghĩ và hành động phù hợp với hiện thực
được phản ánh.

5. Tài liệu tham khảo

 Phần Giới thiệu tác giả
- Link: />
 Phần: “ Cách hiểu về nội dung câu nói. ”
- Khái niệm khoa học:
/>
uuid=ac4d4a10-053d-4685-b162-d3f5ffe2ff50&groupId=13025
- Khái niệm Tri thức & Triết học:
/> - Khái niệm thông thái:
/> - Ví dụ thực vật có nhận thức:

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 17

DŨNG

Năm học 2020 [BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HCMUTE]

/>xuc.html

 Phần: “ Cách hiểu trong triết học về nội dung câu nói. ”

- Nguồn:
Viện triết học- Viện hàn lâm khoa học Việt Nam
- Nguồn:
/> Triet-hoc-va-khoa-hoc-97.html
 Phần: Vận dụng ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm


- Nguồn:
/> - Nguồn:
/> f.html

HV: LÊ MINH CHÁNH – 1980803 – XDC19B – GVHD: TS. BÙI XUÂN 18

DŨNG


×