Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

ĐỊA BÀN CƯ TRÚ VÀ SINH KẾ, VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC THUỘC NGỮ HỆ MÔN – KHMER Ở LÂM ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.78 KB, 8 trang )

ĐỊA BÀN CƯ TRÚ VÀ SINH KẾ, VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC THUỘC
NGỮ HỆ MÔN – KHMER Ở LÂM ĐỒNG

Lâm Đồng là một tỉnh đa dân tộc, theo thống kê năm 1959, Lâm Đồng có khoảng
gần 20 tên gọi các thành phần tộc người ở địa phương. Tên gọi của các nhóm thường
thay đổi theo tiến trình lịch sử. Và do nhưng yếu tố tác động từ lịch sử, quá trình di
cư, thì vấn đề dân tộc là một trong những khía cạnh phức tạp nhất sau ngày giải
phóng. Tuy nhiên tính đến thời điểm năm 2019, trên địa bàn tồn tỉnh Lâm Đồng có
43 dân tộc khác nhau.

1. Tên gọi và lịch sử cư trú của nhóm dân tộc ngữ hệ Mơn – Khmer ở Lâm
Đồng

1.1. Dân tộc Cờ Ho

Sau ngày giải phóng năm 1975, các nHà nghiên cứu dân tộc học đều có khuynh
hướng thống nhất xếp nhóm người Srê, Chil, Nộp, Lạch, Cờ Dịn vào nhóm người
Cờ Ho.

Hiện nay Người Cơ Ho cư trú tập trung tại tỉnh Lâm Đồng là 175,531 người,
chiếm 13,5% dân số toàn tỉnh và 87,7% tổng số người Cơ Ho tại Việt

Nam1, và được chia thành nhiều nhóm địa phương như Srê, Chil, Nộp, Lạch, Cờ
Dịn.

Nhóm người Srê chiếm dân số đông nhất,tập trung chủ yếu ở huyện Di Linh,
Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương ngày nay.

Nhóm Chil trước đây là một bộ phận của người M’nông, do những yếu tố từ
chính sách cai trị của chính sách thực dân Pháp, đã làm tăng thêm sự chia rẽ dân tộc,
chính vì vậy đã tạo nên tâm lý tộc ngưới và tách người Chil ra khỏi người M’nông.


Họ cư trú chủ yếu ở vùng phía Nam tỉnh Đak Lak ngày nay.. Sống du canh, du cư,
về sau thì họ đã dần xuống phía nam(vùng bắc và đơng bắc thành phố Đà Lạt). Và

1 Kết quả điều tra 53 DTTS của UBDT năm 2019

hiện nay chủ yếu cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương,
Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạt.

Người Lạch sống ở xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố
Đà Lạt. Do có nhiều điều kiện giao lưu tiếp xúc với người kinh nên đời sống kinh tế
của nhóm này khá tiến bộ so với các nhóm khác.

Nhóm Nộp cư trú ở vùng phía Nam Di Linh. Do q trình giao lưu văn hóa
xã hội lâu đời với các cư dân ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên nhóm người
Nộp vẫn cịn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của dân tộc đó như tục ăn trầu và trồng
trầu cau.

Nhóm người Cờ Dịn cư trú miền núi phía đơng nam huyện Di Linh, kệ cận
với địa bàn cư trú của người Nộp, tập trung đơng nhất ở xã Trang Hịa, Gia Hịa,
thuộc huyện Di Linh.

Sản xuất và đời sống của người Cờ Ho chủ yếu là trồng trọt, tùy theo đặc điểm
địa lí và xã hội của từn nhóm người thì hoạt động kinh tế có những đặc trưng khác
nhau. (người Chil, Cờ Dòn, Nộp cư trú chủ yếu ở vùng núi cao, trước đây là phát
rẫy, phát rừng, trồng ngô, lúa rẫy, khoai, sắn làm nguồn lương thực chủ yếu. Còn đối
với người Srê là trồng lúa trên ruộng nướng nên lúa là lương thục chính của họ).
Trong gia đình người Cờ Ho thường ni trâu, bò là chủ yếu, dùng để làm sức kéo
và giết mổ trong những ngày tế lễ.

1.2. Dân tộc Mạ


Người Mạ là một dân tộc thiểu số bản địa ở tỉnh Lâm Đồng.

Theo thống kê địa phương vào năm 1977, ở Lâm Đồng Người Mạ có trên 19.000
người. theo những tài liệu dân tộc học, trước kia người Mạ, Cờ Ho, M’nông tồn tại
những sắc thái rất gần gũi nhau, tiếng nói chung của họ cùng một ngữ hệ Môn – Khơ
me.

Theo Tổng điều tra 53 DTTS năm 2019 , Người Mạ cư trú tại tỉnh: Lâm
Đồng có 38,523 người, địa bàn cư trú của người Mạ nằm ở vùng trung và thượng lưu
sông Đồng Nai.

Trước đây do ít có điều kiện tiếp xúc với người Kinh, lại cư trú ở vùng sâu,
vùng xa, nên người Mạ rất ít biết tiếng phổ thơng, nhất là ở nữ giới với người trên 60
tuổi. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp phần lớn nhiều Bon của
người Mạ trở thành căn cứ cách mạng và một số nơi khác thuộc vùng tạm bị chiếm,
cho nên việc tiếp xúc với người Kinh ngày càng được mở rộng và thường xuyên
hơn. Qua nhiều năm sau ngày giải phóng, nhiều người Mạ đã biết sử dụng tiếng phổ
thơng và chữ quốc ngữ một cách thuần thục hơn trước, nhất là giới trẻ.

Theo đa số người Mạ và phần lớn dân cư láng giềng thuộc nhóm ngơn ngữ
Mơn Khơ me thì tộc danh ‘Mạ” có nghĩa là phương thức sinh hoạt kinh tế của những
người làm nương rẫy. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng tộc người Mạ
được chia thành các nhóm địa phương như Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung.

Mạ Ngăn được quan niệm là người Mạ chính Tơng. Họ có địa bàn cư trú ở
lưu vực sơng Đa Dâng, nằm ở phía bắc B’Lao, trên địa phận các xã Lộc Bắc, Lộc
Lâm, thị trấn Đạ Tẻh thuộc huyện Bảo Lộc, Bảo Lâm, Đạ Tẻh.

Mạ Tô cư trú ở vùng thượng lưu sông La Ngà, nằm trên cao nguyên huyện

Bảo Lộc.

Mạ Krung là nhóm người Mạ ở vùng Bình Sơn Ngun. Họ có địa bàn cư trú
từ Tây Nam Bảo Lộc đến vùng Định Quán tỉnh Đồng Nai.

Mạ Xốp là người Mạ sống ở vùng đất phiến (Xốp có nghĩa là đất phiến) thuộc
địa phận xã Lộc Bắc và một phần của huyện Đạ Tẻh.

Trong quá trình tồn tại và phát triển, nơi cư trú cũng như cơ cấu cộng đồng
dân tộc Mạ có những biến đổi nhất định, dẫn đến sự cư trú xen kẽ với các đồng bào
dân tộc khác.

1.3. Dân tộc M’Nông

Năm 1977, người Mnơng có số dân ở Lâm Đồng khoảng 4.687 người. Người Mnông
ở Lâm Đồng trước kia là một bộ phận của người Mnông ở vừng Lạc Thiện, tỉnh Dak
Lak di cư đến vùng núi Lâm Viên vào đầu thế kỉ XX, khi thực dân Pháp mở rộng
chinh phục các bộ lạc ở miền Nam Tây Nguyên.

Cho đến hiện nay, theo tổng điều tra 53 DTTS năm 2019 có 10,517 người M’nơng
tại Lâm Đồng, cư trú tập trung ở vùng thượng lưu sơng Knơng Knơ, nằm về phía
Bắc cao nguyên LangBiang, thuộc địa bàn huyện Lạc Dương, Đức Trọng và Lâm
Hà.

Dân tộc M’nơng thuộc nhóm nhân chủng Anhđơnêdiên, có tầm vóc thấp, nước
da ngăm đen, môi hơi dày, rau thưa, mắt nâu đen, tóc đen thẳng, nhiều người có tóc
uống cong.

Ngơn ngữ M’nơng thuộc nhóm nhân chủng Mơn khơ me ở miền núi phía


Nam, vốn từ vựng M’nông chịu sự ảnh hưởng của tiếng Chăm, thuộc nhóm Malayo
– pơlinexia.

Trong q trình lịch sử phát triển, do địa bàn cư trú phân tán trên vùng rừng núi
hiểm trở, việc giao lưu giữa các vùng người M’nông rất khó khăn, vì vậy đã chí
người M’nơng thành nhiều nhóm địa phương như M’nông Gar, Mnông Chil,
M’nông Nông, Mnông Prâng, M’Nông Bu nor,....

Do có rất nhiều nhóm địa khác nhau, nên cộng đồng người M’nông phương
ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ M’nông miền Đông, và phương ngữ M’nông
miền Tây. Sự khác nhau về 2 phương ngữ này không đáng kể, giữa các phương ngữ
đó đều dễ nghe và hiểu tiếng nói của nhau.

2. Đặc điểm sinh kế, văn hóa của dân tộc ngữ hệ Mơn – Khmer vùng
Trường Sơn – Tây Nguyên

Văn hóa sản xuất: Một đặc trưng cơ bản nhất quy định nên sắc thái của văn hóa
vùng Trường Sơn – Tây Nguyên là nếp sống nương rẫy. Nếp sống đó thể hiện trên
nhiều phương diện như kinh tế, quan hệ xã hội, phong tục, tín ngưỡng… Về kinh tế,

cư dân ở đây có truyền thống làm nương rẫy trên vùng đất khô của sơn nguyên.
Phương thức canh tác này khiến con người hồn tồn phụ thuộc, phải thích ứng với
những thay đổi của điều kiện tự nhiên và khí hậu. Do đó, đời sống của con người
khá bấp bênh, thiếu thốn. Về phương diện xã hội, nếp sống nương rẫy duy trì các
quan hệ xã hội cộng đồng, cộng đồng gia tộc mẫu hệ, cộng đồng công xã làng bn,
các quan hệ bình đẳng, dân chủ của xã hội nguyên thủy, xã hội chưa phân hóa giai
cấp và thiết lập chế độ người bóc lột người. Nếp sống nương rẫy tạo cho con người
gắn bó với mơi trường rừng núi, đó là mơi trường sống, sinh tồn của mỗi con người,
mỗi làng bn, nó là tác động tới đời sống vật chất, cũng như thế giới tinh thần của
con người.


Trang phục: Điều dễ nhận thấy là cư dân ở đây đều ưa mặc y phục thuộc loại choàng
quấn. Đây là loại trang phục cổ xưa của cư dân vùng Đông Nam Á mà ngày nay khơng
cịn nhiều nữa. Đó là các loại khố, váy mảnh (váy khơng khâu thành ống), tấm chồng,
các loại áo chui đầu… Người ta cũng rất chuộng các hình thức trang trí trên cơ thể vừa
cho đẹp, vừa mang tính nghi lễ, như xăm mình, cà răng, căng tai, đeo các loại vòng, kể
cả vòng ống ở tay, chân, cổ. Cũng như nhiều dân tộc thiểu số khác, họ ưa thêu và dệt hoa
văn trên váy, khố, tấm choàng, áo… ví như chiếc khố của người đàn ơng là cả một cơng
trình dệt, thêu và trang trí các tua bông ở hai bên diềm. Tuy nhiên, phong cách trang trí
(hoa văn và bố cục) của cư dân vùng Trường Sơn – Tây Nguyên lại hoàn toàn khác biệt
với các dân tộc vùng Việt Bắc, Tây Bắc.

Nhà ở: Ở Trường Sơn, người ta thường thấy các ngơi nhà cơng cộng (gơl) với mái
trịn khum mu rùa, đầu hồi trang trí con chim thần mang phong cách Đông Sơn, ở Bắc
Tây Nguyên là những ngôi nhà Rông (nhà Rông trống và nhà Rông mái) dáng mái cao
vút hình lưỡi rìu, vượt hẳn lên mái các ngơi nhà sàn trong làng; trên mái nhà Rông, cầu
thang lên xuống, trong nhà trang trí nhiều mơ típ hoa văn. Cịn ở Trung và Nam Tây
Nguyên, đặc trưng bởi các ngôi nhà dài, xưa kia có ngơi nhà dài hàng trăm mét, “dài như
một tiếng chiêng ngân”, “dài hơn một thôi ngựa chạy”, trong đó sinh sống nhiều gia đình
và một phần của ngôi nhà (gar) dành cho sinh hoạt cộng đồng. Ngôi nhà của người Ê Đê

mang hình dáng con thuyền, trên cột nhà, cầu thang lên xuống trang trí hình cối, chày,
mặt trăng, bầu sữa…

Đi lại: Ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, phương tiện đi lại và vận chuyển quen
thuộc với người dân là sử dụng voi và gùi hàng trên lưng.

Gùi là phương tiện vận chuyển phổ biến của người Tây Nguyên, ai cũng có chiếc gùi
cho riêng mình. Gùi có nhiều loại, dùng vào nhiều công việc khác nhau, như trữ đồ đạc,
mang đồ vật từ nơi này tới nơi khác, dùng khi săn, đi chợ, đi thăm hỏi, đi nương rẫy…

Gùi không chỉ là vật mang vác, còn là đồ mỹ thuật, trên đó trang trí hoa văn đẹp, làm
tăng thêm nét dun dáng cho các cô gái, chàng trai. Tùy theo từng tộc người mà hình
dáng, đế gùi cấu tạo khác nhau, màu sắc và trang trí hoa văn có nét riêng. Nét chung của
gùi ở Trường Sơn – Tây Nguyên là gùi quai đeo qua vai chứ quai gùi khơng tì vào trán
như nhiều dân tộc ở miền núi phía Bắc.

Tín ngưỡng, lễ hội: Bao bọc xung quanh thế giới thực của con người Tây Nguyên là
một thế giới huyền ảo, ở đó ngự trị các thần linh, ma quỷ và các linh hồn. Người ta tin
rằng mọi vật xung quanh đều có linh hồn (Yang), từ các vật dụng nhỏ như chiêng, ché,
ghế ngồi đến cây cỏ, các con vật, con sơng, đồi núi… Có Yang tốt phù hộ cho con người
và có Yang xấu, nếu con người làm chúng khơng vừa lịng thì chúng có thể làm hại đến
con người và người ta có thể nhận biết Yang qua những giấc mơ.

Là cư dân nông nghiệp, dù là theo hình thức nương rẫy nhưng trong đời sống tâm
linh của cư dân vùng Trường Sơn – Tây Nguyên những tín ngưỡng mang dáng nét nơng
nghiệp vẫn cịn in đậm. Cùng với quá trình tăng trưởng của cây lúa, họ có các hình thức
lễ bái để cầu mong cho lúa tốt, mùa màng bội thu. Ví dụ, sau khi lúa con gái được làm
sạch cỏ, người ta tổ chức lễ cầu an, tạ ơn thần Sấm đã làm mưa xuống và tạ ơn Mẹ Lúa
Yang S’ri.

Một biểu hiện của tín ngưỡng nơng nghiệp đó là các hình thức hiến sinh.

Trường ca Tây Nguyên: Trong các sinh hoạt văn hóa dân gian của cư dân vùng
Trường Sơn – Tây Nguyên không thể không nhắc tới một loại hình sáng tác mang đậm

chất Tây Nguyên, đó là trường ca (sử thi). Người Ê đê gọi là Khan, người Mnơng gọi là
Ĩt Nrơng, người Ba Na gọi là Hơmon, người Gia rai gọi là Hơri, người Mạ gọi là
Nôtông… Người ta biết tới Tây Nguyên và những người con của vùng đất này qua các
bản trường ca như Đăm San, Đăm Noi, Xinh Nhã, Khinh Dú, Đông Tư, Đămte Plan…


Trong thần thoại các dân tộc Tây Nguyên chứa đựng những quan niệm thế giới và
hệ thống các vị thần. Ở người Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Mnông đều quan niệm vũ trụ hợp
thành từ ba thế giới: thế giới bên dưới, thế giới của con người và thế giới của thần linh,
mà ở người Ba Na cột cây Klao dựng ở nàh mồ chính là hình ảnh thu nhỏ của ba thế giới
đó. Với người Ê Đê thì mỗi thế giới như vậy lại có các cặp thần linh trị vì: Mtao Kơ trị vì
tầng trời, Mtao Tơlua và Ae Mơgơ Hăn trị vì tầng đất và Băngdơbung trị vì tầng dưới
đất.

Luật tục: Một hiện tượng đặc sắc nữa của văn hóa Tây Nguyên vừa mang tính xã
hội vừa mang tính văn hóa là luật tục. Cơ cấu xã hội các dân tộc Tây Nguyên là cơ cấu
công xã láng giềng, kiểu buôn, bon, plây (làng) trong đó bao gồm các gia tộc phụ hệ hay
mẫu hệ, tàn dư gia đình lớn này cịn thấy rõ nét ở nhiều dân tộc. Xã hội xây dựng trên cơ
sở công hữu và cộng đồng, điều hành xã hội theo luật tục. Ở các tộc Gia Rai, Ê Đê,
Mnông, luật tục đã định hình, lưu truyền dưới hình thức văn vần. Bộ luật Ê Đê đã được
người Pháp sưu tầm và dịch ra tiếng Pháp với 236 điều, bộ luật Gia Rai cũng được người
Pháp sưu tầm và dịch.

Nghệ thuật dân gian: Về âm nhạc, người ta thường nhắc tới nhạc cụ gõ, sự phong
phú và đa dạng nhạc cụ gõ của Tây Nguyên gắn liền với các chất liệu tự nhiên: tre, nứa,
gỗ, vỏ bầu. Nhạc cụ gõ cũng là hiện tượng âm nhạc hóa âm thanh và tiết tấu của cuộc
sống lao động, mà đặc trưng ở đây là giã gạo chày tay, cây đàn tơrưng nước, tơrưng gió,
Klong – pút, đàn kơk… đều có nguồn gốc từ các dụng cụ đuổi thú trên nương rẫy. Trong
các nhạc vụ hiện có ở Tây Nguyên, có lẽ nhạc cụ gõ được dùng gắn với sinh hoạt tín
ngưỡng, nghi lễ, sinh hoạt cộng đồng mang tính linh thiêng. Trong các nhạc cụ gõ, cồng
chiêng là nhạc cụ tiêu biểu nhất.

Trong nền nghệ thuật múa của các dân tộc Việt Nam, múa của các dân tộc Trường
Sơn – Tây Nguyên tạo nên một mảng màu khá phong phú và độc đáo, không thể lẫn với
các tộc người khác, dù là múa Chăm, Khơ me ở kế cận. Múa của Trường Sơn – Tây
Nguyên mang chất liệu khỏe khoắn, hồn nhiên, mộc mạc, kết hợp cả động tác tay chân

chứ không chỉ động tác tay mềm mại như ở nhiều vùng khác. Múa tập thể thường là múa
vòng tròn, trong ngày hội múa xoay quanh cột đâm trâu hay nhà rông, thường di chuyển
ngược chiều kim đồng hồ. Âm nhạc múa có tiết tấu, nhạc cụ là chiêng, trống nên tạo cảm
giác khỏe khoắn, trầm hùng.

Về nghệ thuật tạo hình, điêu khắc tượng nhà mồ là sáng tạo nghệ thuật của người Tây
Nguyên.


×