Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CHO HỌC SINH TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.49 KB, 120 trang )

LỜI CẢM ƠN
Những kết quả mà tôi có được là nhờ có sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình
của thầy hướng dẫn, các thầy cô giáo tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
cùng với sự động viên khích lệ của bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn:
Phòng đào tạo sau đại học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Lí
luận chính trị - Giáo dục công dân Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Tiến sĩ Nguyễn Văn Long đã
tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Các thầy cô giáo trong Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy
và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Ban Giám hiệu và các thầy cô đồng nghiệp Trường Dự bị Đại học Dân
tộc Trung ương (Việt Trì – Phú Thọ) đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn
thành đề tài của mình.
Bạn bè và gia đình đã động viên tôi trong suốt quá trình học tập và làm
luận văn.
Trong quá trình tiến hành làm luận văn, bản thân gặp không ít khó
khăn, nhưng với hứng thú và say mê nghề nghiệp nên đã vượt qua để hoàn
thành luận văn theo quy định.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Học viên

Nguyễn Thị Mai Hường
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
ĐC: Đối chứng
GDCD: Giáo dục công dân
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
PPDH: Phương pháp dạy học


SGK: Sách giáo khoa
TN: Thực nghiệm
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 2
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN 6
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 7
5. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ ĐÓNG GÓP MỚI CỦA TÁC GIẢ 7
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 8
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN 8
CHƯƠNG 1 9
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍCH HỢP GIÁO DỤC 9
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC
DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG 9
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 9
1.1.1. Các quan điểm về tích hợp và dạy học tích hợp 9
1.1.2. Quan điểm về văn hóa, bản sắc văn hóa và giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc 14
1.2. THỰC TIỄN GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI
HỌC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG 27
1.2.1. Vài nét về Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương 27
1.2.2. Thực trạng giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường
Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương 30
1.2.3. Sự cần thiết phải tích hợp giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc trong dạy học môn Giáo dục công
dân ở Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương 40
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 42
CHƯƠNG 2 44
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN CHO HỌC SINH TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG 44

2.1. NỘI DUNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG
DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG 44
2.1.1. Môn Giáo dục công dân và môn Giáo dục công dân ở Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương
44
2.1.2. Nội dung tích hợp giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc trong dạy học môn Giáo dục công dân ở
Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương 50
2.2. PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN CHO HỌC
SINH TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG 52
2.2.1. Yêu cầu trong việc lựa chọn phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân nhằm nâng cao hiệu
quả tích hợp giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc 53
2.2.2. Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân theo hướng tích cực
hóa nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho học sinh Trường Dự bị Đại học
Dân tộc Trung ương 57
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 66
CHƯƠNG 3 68
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN 68
HÓA DÂN TỘC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN 68
Ở TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG 68
(QUA PHẦN CÔNG DÂN VỚI CỘNG ĐỒNG) 68
3.1. KẾ HOẠCH THỰC NGHIỆM 68
3.1.1. Mục đích thực nghiệm 68
3.1.2. Giả thuyết thực nghiệm 69
3.1.3. Địa điểm, đối tượng và thời gian thực nghiệm 69
3.1.4. Phương pháp thực nghiệm 70
3.2. NỘI DUNG THỰC NGHIỆM 70
3.2.1. Những nội dung khoa học cần thực nghiệm 70
3.2.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm 70
3.3. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 90
3.4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ SAU THỰC NGHIỆM 94
3.4.1. Kết luận 94

3.4.2. Một số kiến nghị sau thực nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc
cho học sinh Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương 95
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 100
KẾT LUẬN CHUNG 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG 1.1. KẾT QUẢ TÌM HIỂU VIỆC SỬ DỤNG CÁC PPDH CỦA GV 32
BẢNG 1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC TĂNG CƯỜNG TÍCH HỢP GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG CHO HS THÔNG QUA
ĐỔI MỚI PPDH 33
BẢNG 1.3: NHẬN BIẾT CỦA GV VỀ MỨC ĐỘ TÍCH CỰC CỦA HS KHI GV ĐỔI MỚI PPDH 33
BẢNG 1.4. NHỮNG KHÓ KHĂN ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC ĐỔI MỚI PPDH DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG
DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘCTRUNG ƯƠNG CHO HS 35
BẢNG 1.5. MỨC ĐỘ SỬ DỤNG CÁC PPDH CỦA GV QUA Ý KIẾN HS 37
BẢNG 1.6. NHẬN THỨC CỦA HS VỀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ĐỔI MỚI PPDH TRONG GIẢNG DẠY MÔN
GDCD NHẰM GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CHO HS 38
BẢNG: ĐIỂM KIỂM TRA KẾT QUẢ TN LẦN THỨ NHẤT CỦA HS LỚP TN VÀ ĐC 91
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), thực hiện thắng lợi mục tiêu:
“Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” đòi hỏi chúng ta
phải xây dựng nền tảng tinh thần của dân tộc. Bên cạnh việc phát triển kinh tế
là trọng tâm thì vấn đề xây dựng nền văn hóa được Đảng ta hết sức quan tâm.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định: “Vấn đề xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [8] đã được Đảng ta xác định
là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc, mỗi dân tộc có những
sắc thái, văn hóa riêng bổ sung cho nhau làm phong phú nền văn hóa Việt

Nam. Cùng với dòng chảy thời gian và những biến động của lịch sử, văn hóa
của mỗi dân tộc cũng vận động theo những quy luật, vừa độc lập, vừa kế thừa,
vừa có sự đan xen những yếu tố mới và cũ để làm nên những nét độc đáo
riêng của mỗi dân tộc và góp phần tạo nên âm hưởng văn hóa chung của cả
cộng đồng người Việt. “Một dân tộc thiếu văn hóa chưa phải là một dân tộc
thực sự hình thành, một nền văn hóa không có bản sắc dân tộc thì nền văn hóa
ấy không có sức sống thật sự của nó” [5; 16].
Thực tiễn phát triển văn hóa nước ta trong thời kỳ đổi mới đang đòi hỏi
cấp thiết phải có sự nghiên cứu, tổng kết và những biến đổi của các giá trị văn
hóa ở nước ta trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN), góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống và cách mạng. Vì vậy việc “Xây dựng và thực hiện các chính
sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu
số” [13; 225] là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
1
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29 – NQ/TW) với nội dung đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế. Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới lần này là: “Tạo
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp
ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học
tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Xây dựng nền
giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt, có cơ cấu và
phương pháp giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các
điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội
hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng
XHCN và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030 nền giáo dục Việt Nam
đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [39].

Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương là trường đào tạo học sinh
(HS) các dân tộc thiểu số ở các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc. Ngoài
dạy chữ còn cần phải nâng cao giáo dục việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc cho các em, giáo dục bản sắc trong xu thế hội nhập quốc tế. Do
vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Tích hợp giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc trong
dạy học môn Giáo dục công dân cho học sinh Trường Dự bị Đại học Dân tộc
Trung ương” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề dạy học tích hợp gần đây đã được các nhà khoa học, giáo dục hết
sức quan tâm.
2.1. Trên thế giới
Trên thế giới, nhất là ở những nước phát triển, vấn đề dạy học theo
quan điểm tích hợp đã và đang rất được quan tâm. Đầu những năm 90 của thế
kỷ XX tài liệu giới thiệu về chương trình (Curriculum – A comprehensive)
2
của Hoa Kì đã dành hẳn một mục bàn về vấn đề tích hợp trong chương trình
các cơ hội học tập. Tài liệu này khẳng định tích hợp nội dung giáo dục trong
chương trình giáo dục là nhằm đáp ứng mong muốn làm cho chương trình
thích ứng yêu cầu xã hội, làm cho chương trình trở nên có ý nghĩa. Tích hợp
là vấn đề của nhận thức và tư duy của con người, là triết lý chi phối, định
hướng và quyết định thực tiễn hoạt động của con người. Lý thuyết tích hợp
được ứng dụng vào giáo dục trở thành một quan điểm (trào lưu tư tưởng) lý
luận dạy học phổ biến trên thế giới hiện nay. Xu hướng tích hợp còn được gọi
là xu hướng liên hội đang được thực hiện trên nhiều bình diện, cấp độ trong
quá trình phát triển các chương trình giáo dục. Chương trình được xây dựng
trên quan điểm tích hợp, trước hết dựa trên quan điểm giáo dục nhằm phát
triển năng lực người học.
Ở Pháp thì nhà sư phạm Xavier Roegiers đã tổng hợp thành tài liệu:
“Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà
trường”. Trong đó tác giả đã phân tích các căn cứ để dẫn tới làm thế nào để

tích hợp trong dạy học, từ lý thuyết về các quá trình về học tập, lý thuyết về
quá trình dạy học, các phương pháp xây dựng chương trình dạy học theo quan
điểm tích hợp tới định nghĩa, mục tiêu của khoa sư phạm tích hợp, ảnh hưởng
của cách tiếp cận này tới việc xây dựng chương trình giáo dục, tới mô hình
xây dựng sách giáo khoa (SGK) và đánh giá kết quả học tập của HS.
Hội thảo quốc tế đón chào thế kỷ 21 có tên “Kết nối hệ thống tri thức
trong một thế giới học tập” với sự tham gia của gần 400 nhà giáo dục thuộc
18 quốc gia được tổ chức từ ngày 6 - 8/12/2000 tại Manila (Philippines). Một
trong những nội dung chính được bàn luận sôi nổi tại hội thảo này là những
con đường và cách thức kết nối hệ thống tri thức hướng vào người học trong
thời đại thông tin. Muốn đáp ứng được nhu cầu kết nối hệ thống tri thức trong
một thế giới học tập, đòi hỏi tư duy liên hội được thiết kế ngay trong nội
3
dung, phương tiện nghiên cứu và phương pháp giảng dạy. Như thế, khi đứng
trước nhu cầu giải quyết mâu thuẫn kiến thức của tình huống học tập, người
học không chỉ giải quyết theo hướng trực tuyến hay nội suy mà có thể còn
giải quyết bằng cách ứng dụng một cách linh hoạt khả năng liên hội kiến thức.
Tích hợp là cách tư duy trong đó các mối liên kết được tìm kiếm, do
vậy tích hợp làm cho việc học chân chính xảy ra. Cụ thể, sự thâm nhập có tính
chất tìm tòi khám phá của HS vào quá trình kiến tạo kiến thức, học tập có ý
nghĩa, học sâu sắc và ứng dụng được xem là chủ yếu đối với việc dạy và học
hiệu quả. Nhờ đó, HS có điều kiện phát triển những kỹ năng xuyên môn,
những khả năng có thể di chuyển. Chương trình tích hợp chính xác là gì?
Trong khái niệm đơn giản nhất của nó, theo Drake and Burns thì đó là liên
quan đến việc tạo lập các kết nối, các mối liên hệ. Các loại kết nối nào?
Xuyên qua các môn học? Với đời sống thực tế? Các kết nối này dựa trên các
kiến thức, nội dung hay dựa trên kỹ năng, năng lực.
Theo thống kê của tổ chức Văn hóa giáo dục của Liên hợp quốc
Unesco từ những năm 1960 đến 1974 đã có 208 chương trình môn học thể
hiện quan điểm tích hợp ở các mức độ khác nhau từ tích hợp liên môn, tích

hợp xuyên môn, tích hợp đa môn đến tích hợp hoàn toàn theo chủ đề. Từ năm
1960 đã có nhiều hội nghị bàn về việc phát triển chương trình dạy học theo
hướng tích hợp. Năm 1981 một tổ chức quốc tế đã được thành lập để cung
cấp các thông tin về các chương trình dạy học tích hợp nhằm thúc đẩy việc áp
dụng quan điểm dạy học theo hướng tích hợp trong việc thiết kế chương trình
dạy học các môn khoa học trên thế giới.
2.2. Ở Việt Nam
Dạy học theo hướng tích hợp cũng rất được quan tâm. Từ những năm
cuối thế kỷ XX, việc nghiên cứu xây dựng môn “Tìm hiểu tự nhiên và xã hội”
theo quan điểm tích hợp đã được thực hiện và môn học này được thiết kế để
4
đưa vào dạy học ở trường cấp I từ lớp 1 đến lớp 5. Chương trình năm 2000 đã
được hoàn chỉnh thêm một bước, quan điểm tích hợp đã được thể hiện trong
chương trình và SGK, các hoạt động dạy học ở tiểu học. Tuy nhiên khái niệm
tích hợp vẫn còn mới lạ với nhiều giáo viên (GV). Một số đã có nhận thức
ban đầu nhưng còn hạn chế về kĩ năng vận dụng.
Hiện nay việc nghiên cứu về vấn đề sử dụng phương pháp tích hợp vào
quá trình dạy học chưa được quan tâm đúng mức nói đúng hơn là chưa được
vận dụng vào trong quá trình dạy học ở các bậc học do vậy các đề tài nghiên
cứu về vấn đề này chưa nhiều, chưa có những công trình nghiên cứu lớn. Mặc
dù xu hướng chung của các nước trên thế giới hiện nay là tăng cường tích
hợp, đặc biệt ở cấp tiểu học và trung học cơ sở.
Một số tác giả tiêu biểu quan tâm đến vấn đề này có thể kể tới như:
Trần Bá Hoành, “ Dạy học tích hợp”, Tạp chí Khoa học giáo dục số 12/ 2006;
Nguyễn Trọng Hoàn (chủ biên), Bùi Ngọc Diệp, Nguyễn Thuý, Hướng dẫn
tích hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cấp
Trung học cơ sở, Tái bản lần thứ 1, Nxb Giáo dục, 2011; Lê Thanh Sử, Lê
Văn Cầu, Hướng dẫn tích hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cấp Trung học
cơ sở, Nxb Giáo dục, 2011; Bùi Anh Tú, Lê Anh Tuấn, Dạy học tích hợp nội

dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh môn âm nhạc -
Trung học cơ sở, Nxb Giáo dục, 2011.
Nghiên cứu về vấn đề văn hóa và văn hóa dân tộc thiểu số ở nước ta
không phải là vấn đề mới, từ trước đến nay có khá nhiều công trình nghiên
cứu với tầm cỡ, quy mô khác nhau. Các công trình, bài viết về mối quan hệ
giữa văn hóa và phát triển như: Trần Ngọc Hiên, Văn hóa và phát triển – từ
góc độ nhìn Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; Phạm Xuân Nam,
Văn hóa vì sự phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
5
Các công trình, bài viết về vai trò của văn hóa trong nền kinh tế thị
trường như: Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Xây dựng và phát triển
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Khoa học xã hội, 2004.
Các công trình, bài viết dưới góc độ triết học: Vũ Đức Khiển, “Văn hóa
với tư cách một khái niệm triết học và vấn đề xác định bản sắc văn hóa dân
tộc”, Tạp chí Triết học, số 6/2000.
Các công trình nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số Việt Nam
như: Ngô Văn Lệ ,Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Giáo dục
Hà Nội, 1998; Nguyễn Khoa Điềm ,“Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu
số trong cuộc sống hiện nay”, Tạp chí văn học nghệ thuật số 7/2007.
Trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nêu rõ vị trí, vai
trò và nhiệm vụ của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng XHCN hiện nay.
Giáo dục việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho các em HS dân tộc thiểu số
là việc vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Học viên kế thừa những kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả về giáo dục tích
hợp và về văn hóa các dân tộc thiểu số để phục vụ cho đề tài: “Tích hợp giáo
dục bản sắc văn hóa dân tộc trong dạy học môn Giáo dục công dân cho học
sinh Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương”. Qua dạy học tích hợp môn
Giáo dục công dân (GDCD) để giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho HS
Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương.

3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu luận văn và thực nghiệm (TN) giảng dạy, chúng
tôi đề xuất nội dung, phương pháp giảng dạy môn GDCD phù hợp nhằm nâng
cao hiệu quả việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc cho HS
Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc dạy và học tích hợp môn GDCD ở Trường Dự bị Đại học Dân tộc
Trung ương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giảng dạy môn GDCD (phần Công dân với cộng đồng) ở Trường Dự
bị Đại học Dân tộc Trung ương (Việt Trì - Phú Thọ).
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
5.1. Những luận điểm cơ bản
Làm rõ quan điểm về tích hợp giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho HS
các dân tộc thiểu số ở Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương.
Đề tài khẳng định sự cần thiết phải tích hợp giáo dục bản sắc văn hóa
dân tộc trong dạy học môn GDCD với các môn học khác như: Văn học, Lịch
sử, Địa lí, Giáo dục ngoài giờ lên lớp cho HS Trường Dự bị Đại học Dân tộc
Trung ương.
Khảo sát việc giảng dạy môn GDCD (phần Công dân với cộng đồng) ở
Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương về tích hợp giáo dục bản sắc văn hóa
dân tộc với các môn học: Văn học, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Đưa ra quy trình, điều kiện, những biện pháp để giảng dạy phần Công
dân với cộng đồng trong giáo trình Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương.
5.2. Đóng góp mới của tác giả
Đề tài: “Tích hợp giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc trong dạy học môn
Giáo dục công dân cho học sinh Trường Dự bị Đại học Dân tộc Trung ương”
là một đề tài mới. Thông qua giảng dạy môn GDCD, GV tích hợp giáo dục

bản sắc văn hóa dân tộc với các môn học khác như: Văn học, Lịch sử, Địa lí,
Giáo dục ngoài giờ lên lớp, từ đó nâng cao giáo dục việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc cho HS các dân tộc thiểu số. Thông qua hoạt động
này các em sẽ thấy tự hào về dân tộc mình, có trách nhiệm giữ gìn bản sắc
văn hóa của dân tộc mình.
7
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao giáo dục việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc cho HS các dân tộc thiểu số ở Trường Dự bị Đại
học Dân tộc Trung ương.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh và hệ
thống…
Đề tài còn sử dụng các phương pháp: Điều tra xã hội học, thực nghiệm
sư phạm, thống kê toán học…nhằm đạt tới mục đích mà luận văn nêu ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍCH HỢP GIÁO DỤC
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC TRUNG ƯƠNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các quan điểm về tích hợp và dạy học tích hợp
* Các quan điểm về tích hợp
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ tích hợp. Có ý
kiến cho rằng: Tích hợp là tổ hợp (combination) hay phối hợp (co –
ordination) các môn học. Có ý kiến khác lại cho rằng: tích hợp chẳng qua là

sự lắp ghép cơ giới, phép cộng đơn thuần giữa các môn học.
Tích hợp là một khái niệm rộng, không chỉ dùng trong lĩnh vực lí luận
dạy học. Tích hợp (Tiếng Anh, tiếng Đức: Intergration) có nguồn gốc từ tiếng
Latinh: Intergraytion với nghĩa: xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất
trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ.
Theo từ điển Anh – Anh (Oxford Advanced Learner’s Dictionary), từ
Intergrate có nghĩa là kết hợp những phần, những bộ phận với nhau trong
một tổng thể. Những phần, những bộ phận này có thể khác nhau nhưng tích
hợp với nhau.
Tích hợp là thuật ngữ mà nội hàm của nó chỉ hướng tiếp cận kiến thức
từ việc khai thác giá trị của các tri thức công cụ thuộc từng phân môn trên cơ
sở một (hoặc một số) văn bản có vai trò như kiến thức nguồn.
Tích hợp được hiểu là sự hòa nhập, sự kết hợp, hợp nhất, tích hợp cần
được quan niệm là: một phương hướng nhằm phối hợp một cách tối ưu các
quá trình học tập riêng rẽ, các môn học, các phân môn khác nhau theo những
9
mô hình, hình thức, cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng những mục tiêu, mục
đích và yêu cầu khác nhau.
Trong lĩnh vực giáo dục, khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai
sáng (thế kỉ XVIII) dùng để chỉ một quan niệm giáo dục toàn diện con người,
chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối.
Trong dạy học các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội
dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau thì một “môn học” mới hoặc lồng
ghép các nội dung cần thiết vào các nội dung vốn có của một môn học.
Để làm sáng tỏ hơn về khái niệm tích hợp chúng ta xem xét các khái
niệm có liên quan sau:
Tích hợp chương trình (program intergraytion): Là sự liên kết, hợp nhất
nội dung các môn học có nguồn tri thức khoa học và có những quy luật
chung, gần gũi với nhau. Tích hợp nhằm làm giảm bớt được những phần kiến
thức trùng nhau, tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.

Tích hợp các bộ môn: Là quá trình xích gần, liên kết các ngành khoa
học lại với nhau trên cơ sở của những nhân tố, những quy luật giống nhau,
chung cho các bộ môn, ngược lại quá trình phân hóa chung. Như vậy, tích
hợp các bộ môn trong giáo dục là sự phản ánh trình độ phát triển cao của các
ngành khoa học vào trong nhà trường, đồng thời cũng là đòi hỏi tất yếu của
nhiệm vụ nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động giáo dục. Tích hợp
các bộ môn trong dạy học không những làm cho người học có tri thức bao
quát, tổng hợp hơn về thế giới quan, thấy rõ được mối quan hệ và sự thống
nhất của nhiều đối tượng nghiên cứu khoa học trong những chỉnh thể khác
nhau, đồng thời còn bồi dưỡng cho người học các phương pháp học tập,
nghiên cứu có lôgic, biện chứng, làm cơ sở đáng tin cậy để đi đến những hiểu
biết, những phát hiện có ý nghĩa khoa học và thực tiễn lớn hơn. Tích hợp các
bộ môn còn có tác dụng tiết kiệm thời gian, công sức vì loại bỏ được nhiều
10
điều trùng lặp trong nội dung dạy học cũng như phương pháp dạy học
(PPDH) của những bộ môn gần nhau.
Tích hợp các bộ môn cần được thể hiện trong chương trình đào tạo:
- Tích hợp dọc: Là loại tích hợp dựa trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều
môn học thuộc cùng một lĩnh vực gần nhau.
- Tích hợp ngang: Là kiểu tích hợp dựa trên cơ sở liên kết các đối
tượng học tập, nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau.
- Tích hợp giảng dạy: Là sự tiến hành quá trình dạy học theo hướng
liên kết, lồng ghép những tri thức khoa học, những quy luật chung gần gũi
nhau nhằm trang bị cho người học các cách nhìn bao quát đối với nhiều lĩnh
vực khoa học có chung đối tượng nghiên cứu, đồng thời nắm được các
phương pháp xem xét vấn đề một cách lôgic, biện chứng.
- Tích hợp học tập: Là hành động liên kết học tập cùng một lần những kiến
thức khác nhau và những kĩ năng khác nhau về cùng một chủ đề giáo dục.
- Tích hợp kiến thức: Là sự liên kết, nối liền các tri thức khoa học khác
nhau thành một tập hợp kiến thức thống nhất.

- Tích hợp kĩ năng: Là sự liên kết, rèn luyện hai hoặc nhiều kĩ năng
thuộc cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực gần nhau để ghi nhớ và vận dụng.
* Quan điểm về dạy học tích hợp
Dạy học tích hợp được Unesco định nghĩa là: Một cách trình bày có
khái niệm và nguyên lý khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của
tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm giữa các lĩnh vực khoa
học khác nhau. Định nghĩa này nhấn mạnh cách tiếp cận các khái niệm và
nguyên lý khoa học chứ không phải là hợp nhất nội dung. Theo Hội nghị tại
Maryland 4 – 1973 thì khái niệm dạy học tích hợp còn bao gồm cả việc dạy
học tích hợp với công nghệ học bởi có thể thấy khoa học và công nghệ là hai
lĩnh vực hoạt động có đặc trưng và liên quan đến nhau. Nếu như khoa học đặc
11
trưng bởi quá trình tìm tòi, phát hiện tri thức mới, đi từ đơn nhất đến cái
chung thì công nghệ lại đặc trưng bởi quá trình nhận định, lựa chọn giải pháp,
đi từ nguyên tắc chung để giải quyết từng vấn đề cụ thể. Như vậy một trong
những bài học của dạy học tích hợp là chỉ ra được sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
hiểu biết và hành động.
Tích hợp là tư tưởng, là nguyên tắc, là quan điểm hiện đại trong giáo
dục. Tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống. Trước hết
phải thấy rằng cuộc sống là một bộ đại bách khoa toàn thư, là một tập đại
thành của tri thức, kinh nghiệm và phương pháp. Mọi tình huống xảy ra trong
cuộc sống bao giờ cũng là những tình huống tích hợp. Không thể giải quyết
một vấn đề và nhiệm vụ nào của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng
tổng hợp và phối hợp kinh nghiệm kĩ năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác
nhau. Tích hợp trong nhà trường sẽ giúp HS học tập thông minh và vận dụng
sáng tạo kiến thức, kĩ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện,
hài hòa và hợp lí trong giải quyết các tình huống khác nhau và mới mẻ trong
cuộc sống hiện đại.
Tích hợp là quan điểm hòa nhập, được hình thành từ sự nhất thể hóa
những khả năng, một sự quy tụ tối đa tất cả những đặc trưng chung vào một

chính thể duy nhất. Khoa học hiện nay coi trọng tính tương thích, bổ sung lẫn
nhau để tìm kiếm những quan điểm tiếp xúc có thể chấp nhận được để tạo nên
tính bền vững của quá trình dạy học các môn.
Trong những năm đầu của thế kỉ XXI, quan điểm tiếp cận tích hợp đã
ảnh hưởng tới giáo dục Việt Nam và bước đầu thể hiện một phần trong
chương trình và SGK các môn học ở tiểu học và được hiểu là “phương hướng
nhằm phối hợp một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ các môn học,
phân môn khác nhau theo những hình thức, mô hình, cấp độ khác nhau nhằm
đáp ứng mục tiêu, mục đích và yêu cầu khác nhau” (Nguyễn Cảnh Toàn).
12
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan
tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới và ở
Việt Nam trong những năm gần đây. Qua việc tích hợp của GV trong một tiết
lên lớp, HS được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ
thống và lôgic. Qua đó, HS cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các
kiến thức được học trong chương trình.
Kế thừa và phát triển những thành tựu mà các lý thuyết về quá trình
học tập và các trào lưu sư phạm của thế giới đã đạt được, sư phạm tích hợp đề
cập tới ba vấn đề lớn của nhà trường:
Vấn đề thứ nhất: Đó là cách thức học tập. Học như thế nào? Sư phạm
tích hợp cho rằng HS cần học cách sử dụng kiến thức của mình vào những
tình huống có ý nghĩa, nghĩa là lĩnh hội các năng lực song song với lĩnh hội
kiến thức đơn thuần.
Tình huống có ý nghĩa đối với HS là những tình huống gần gũi với HS
hoặc gần gũi với tình huống mà HS sẽ gặp. Trong SGK, các tình huống có ý
nghĩa biểu hiện bằng tranh ảnh, bằng lời hoặc bằng sự kết hợp của hình ảnh,
lời, các thí nghiệm, trò chơi.
Tình huống tích hợp là tình huống có ý nghĩa phức hợp, rất gần với các tình
huống tự nhiên mà HS sẽ gặp, trong đó có cả thông tin cốt yếu và thông tin
nhiễu và có vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học từ trước.

Vấn đề thứ hai: Sư phạm tích hợp nhấn mạnh đồng thời việc phát triển
các mục tiêu học tập riêng lẻ cần tích hợp trong quá trình học tập, trong tình
huống có ý nghĩa đối với HS. Về các tình huống có vấn đề, đóng góp của sư
phạm tích hợp là nhấn mạnh tính liên môn của tình huống có vấn đề. Tình
huống có vấn đề là tình huống có ý nghĩa chứ không phải là cái cớ để học tập.
GV có vai trò tổ chức các hoạt động học tập trong các tình huống có ý nghĩa
đó. Về PPDH phân hóa, sư phạm tích hợp chủ trương đa số quá trình học tập
13
là những quá trình học tập tập thể, đồng thời vẫn tạo điều kiện để mỗi HS
phát triển theo nhịp độ của mình. Sư phạm tích hợp cũng chủ trương giao
nhiệm vụ cho HS thực hiện nhằm đào tạo các em thành những công dân có
trách nhiệm, nhấn mạnh nhiều đến năng lực cần phát triển hơn là nhấn mạnh
khâu tổ chức lớp. Sư phạm tích hợp cố gắng giải quyết vấn đề làm thế nào để
phát triển các năng lực ở nhà trường.
Vấn đề thứ ba: Sư phạm tích hợp đưa ra bốn quan điểm về vai trò của
mỗi môn học và tương tác giữa các môn học.
Một là: Duy trì các môn học riêng.
Hai là: Quan điểm đa môn: Chủ trương đề xuất những đề tài có thể
nghiên cứu ở các môn học khác nhau, các môn học này vẫn duy trì riêng rẽ.
Ba là: Quan điểm liên môn: Chủ trương đề xuất những tình huống chỉ
có thể tiếp cận một cách hợp lý qua sự soi sáng của nhiều môn học.
Bốn là: Quan điểm xuyên môn: Chủ trương chủ yếu phát triển kỹ năng
mà HS có thể sử dụng trong tất cả các tình huống (tìm, xử lý, thông báo thông
tin…). Đó là các kỹ năng xuyên môn.
Tuy vậy, nhu cầu của xã hội hiện đại đòi hỏi phải hướng tới các quan điểm
liên môn và xuyên môn. Đó cũng là quan điểm cơ bản của sư phạm tích hợp.
1.1.2. Quan điểm về văn hóa, bản sắc văn hóa và giáo dục bản sắc văn hóa
dân tộc
* Quan điểm về văn hóa
Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, trên

thế giới hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ
bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình
thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt
động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời
14
sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện
diện của con người.
Theo quan điểm mác xít, nền tảng của lịch sử là hoạt động lao động của
con người và quá trình con người sáng tạo ra lịch sử cũng là quá trình con
người sáng tạo ra văn hóa. Vì vậy lao động cũng được xem là nguồn gốc của
văn hóa cho nên việc đưa ra một quan niệm về văn hóa nhất thiết phải căn cứ
vào hoạt động có tính đặc trưng này của con người. Điều này đã được các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác quán triệt trong toàn bộ các luận giải của mình.
Quan điểm Mác xít cho rằng: Lao động là hoạt động mà ở đó xác lập và
thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người – tự nhiên, con người – xã hội và
con người – văn hóa. Văn hóa được quy định bởi phương thức để kiếm sống
và phương thức sử dụng các sản phẩm được tạo ra.
Bàn đến văn hóa và sự phát triển của văn hóa, chủ nghĩa Mác còn thừa
nhận, với tư cách là một hệ giá trị, văn hóa bị tri phối bởi những điều kiện lịch
sử, bởi năng lực thực hiện “lực lượng bản chất người”. Vì vậy, mỗi bước tiến
của lịch sử là một bước tiến tương ứng của văn hóa. Và mặc dù hệ giá trị của văn
hóa rất đa dạng, luôn luôn biến đổi cùng lịch sử nhưng hệ giá trị đó bao giờ cũng
dịch chuyển về phía chủ nghĩa nhân đạo mà hằng số là chân – thiện – mỹ.
Mác vạch rõ nguồn gốc văn hóa gắn liền với năng lực sáng tạo của con
người, sự sáng tạo đó bắt nguồn từ lao động. Văn hóa là sự “thăng hoa” của
sản xuất vật chất, ông cho rằng người ta có thể căn cứ vào mức độ tự nhiên
được con người khai thác chuyển biến thành bản chất con người như thế nào
để đánh giá trình độ văn hóa.
Như vậy có thể nói việc con người tạo ra “thiên nhiên thứ hai” theo quy
luật của cái đẹp là cái thuộc tính bản chất, quy định cái văn hóa trong hoạt động

của con người. Nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát triển
con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quyết định sự tồn
15
tại của con người với tư cách là một thực thể sinh vật thì văn hóa là phương
thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với các hoạt
động sống của con người. Con người là thước đo của mỗi giá trị, còn văn hóa
là thước đo nhân tính, sự sáng tạo và thái độ của con người trước hiện thực. Vì
vậy, Ph.Ăngghen đã nói: “Mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa lại là một
bước tiến tự do” [29 ;164].
V.I.Lênin trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, bảo vệ và phát triển các
nguyên lý của triết học Mác, V.I.Lênin đã phân tích sâu sắc thêm về mặt xã
hội của văn hóa với cách tiếp cận từ hình thái kinh tế xã hội. Chính Lênin đã
đề ra nguyên tắc quan trọng trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới. Đó là
những nguyên tắc về tính đảng, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại
trong văn hóa; xác định sự nghiệp văn hóa là một bộ phận trong guồng máy
cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Lênin nền văn
hóa vô sản có khả năng phát triển toàn diện năng lực bản chất của con người
cho nên nó phải là sự kế thừa có phê phán các giá trị văn hóa của dân tộc và
nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới mang đậm chất liệu văn hóa và
bản chất người. Một vấn đề đóng góp rất quan trọng nữa của ông là xác định
tính kế thừa biện chứng của sự phát triển văn hóa, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong văn hóa. V.I.Lênin viết: “Văn hóa vô
sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải là do những người tự cho
mình là chuyên gia về văn hóa vô sản tự bịa đặt ra. Đó hoàn toàn là điều ngu
ngốc. Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số kiến thức
mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội
của bọn địa chủ và của bọn quan liêu” [25;361]. Ở đây Lênin đã hiểu văn hóa
theo nghĩa rộng, là những giá trị chung nhất, tồn tại và phát triển qua nhiều
chế độ xã hội, nhiều giá trị có ý nghĩa vĩnh hằng. Vì vậy phải biết kế thừa có
chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống.

Unesco thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội,
có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố
16
nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển của
xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách
riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Nói đến bản chất của văn hóa, Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa thế
giới có quan niệm về văn hóa rất rộng, Người đưa ra một định nghĩa ở cấp độ
khái quát về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng, toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn” [32; 431].
Trong quan niệm của Đảng ta, văn hóa là một lĩnh vực thực tiễn của
đời sống xã hội, nó cũng có quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính
dân tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hóa, phản ánh mối quan hệ giữa
dân tộc và văn hóa trong điều kiện dân tộc đã hình thành.Tính dân tộc là nội
dung quan trọng luôn được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu.Trong Bản đề
cương văn hóa (1943) Đảng ta khẳng định nền văn hóa mới, phải đảm bảo
tính dân tộc, tức là bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của văn hóa
dân tộc. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong suốt quá trình tiến
hành cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII
quan điểm đó được cụ thể hóa trong Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Gần đây tại Đại hội IX,
Nghị quyết Đại hội một lần nữa khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
xã hội” [10;114].
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI chỉ rõ: phải tiếp tục kế thừa, bổ sung

và phát triển những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và
phát triển văn hóa đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII;
17
đồng thời nhấn mạnh tư tưởng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
mục tiêu, là động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển bền
vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã
hội; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội. Trong xây dựng văn hóa, phải lấy xây dựng, phát triển
con người có nhân cách, đạo đức, lối sống tốt đẹp làm trọng tâm; xây dựng
môi trường văn hóa (gia đình, cộng đồng và xã hội) lành mạnh làm cốt lõi.
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với
đặc trưng tiêu biểu là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến là một nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt
lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm mục tiêu tất
cả vì con người, tất cả vì tự do, hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn
diện cho mỗi con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng
đồng, giữa con người và tự nhiên.
Nghiên cứu về văn hóa, các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định
nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật
chất của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công
nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một
cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [24; 11]. Định nghĩa này nhấn
mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị,
các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi.
“Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất
người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị -
cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động
thực tiễn và lịch sử xã hội của mình” [17;13].

18
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch
sử của con người và loài người. Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho
con người trở thành Người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến
con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi
là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực lượng vật chất và tinh thần,
là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực
sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực
cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ
có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật chất” về thực chất cũng chỉ
là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị văn hóa tinh thần
không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà thường
được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị
tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất
khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối
sống, phong tục tập quán…
Từ một số khía cạnh đã trình bày trên đây, chúng tôi đưa ra quan niệm về
văn hóa như sau: Văn hóa là năng lực sáng tạo, là thái độ, phương thức sống,
phương thức hoạt động mang tính nhân đạo của con người nhằm tạo ra các giá
trị vật chất, tinh thần, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
* Bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa theo nghĩa ban đầu “bản của một sự vật” là cái gốc, cái
căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của sự vật; còn “sắc của một sự vật” là cái
biểu hiện ra bên ngoài của sự vật đó. Theo từ điển Tiếng việt bản sắc là “màu
sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính” [49; 31].
Có quan điểm cho rằng bản sắc là tính chất đặc biệt vốn có tạo thành
phẩm cách riêng…Như vậy theo quan điểm này bản sắc của một sự vật là
những đặc điểm riêng biệt chỉ có ở sự vật ấy.
19
Theo cách hiểu của chúng tôi, mỗi sự vật có nhiều thuộc tính (tính chất,

đặc điểm, dấu hiệu, nét…) trong đó có những thuộc tính chung và những
thuộc tính riêng, những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Những tính cơ
bản của một sự vật chính là bản sắc của sự vật ấy. Nói đến bản sắc của mỗi sự
vật trước hết là nói đến thuộc tính riêng của sự vật ấy, song thuộc tính riêng
ấy gắn bó chặt chẽ với thuộc tính chung. Do đó, theo chúng tôi bản sắc của
một sự vật nào đó là tập hợp những thuộc tính cơ bản của sự vật ấy mà qua đó
ta biết được sự giống nhau và khác nhau giữa sự vật ấy với sự vật khác.
Khái niệm bản sắc được hiểu như trên, còn khái niệm dân tộc thì được
hiểu như thế nào? Khái niệm dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa chính là
dân tộc quốc gia (nation) và tộc người (ethnic, ethnie). Dân tộc quốc gia là:
“Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự
thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung” [49; 247]. Một quốc gia gồm
nhiều tộc người với nhiều ngôn ngữ, phong tục tập quán, nếp sống văn hóa
khác nhau. Tộc người là: “Cộng đồng người có tên gọi, địa lý, khu vực cư trú,
ngôn ngữ, đặc điểm sinh hoạt và văn hóa riêng” [49; 1008]; là “Cộng đồng
người có chung ngôn ngữ, lịch sử, nguồn gốc, đời sống văn hóa và ý thức tự
giác dân tộc” [54; 7].
Trên cơ sở xác định nội dung cơ bản của các khái niệm bản sắc và dân
tộc như trên làm cơ sở cho việc xác định khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc.
Khi tìm hiểu một dân tộc nào đó chúng ta có thể nhận ra chữ viết, ngôn ngữ,
phong tục tập quán, đặc biệt là những tính cách con người của dân tộc ấy, cho
dù dân tộc ấy đã trải qua bao biến thiên của lịch sử. Xuất phát từ đó một số
quan điểm cho rằng, bản sắc của một dân tộc chỉ gồm có những đặc điểm
riêng của dân tộc ấy. Như vậy quan điểm này đã tuyệt đối hóa tính đặc thù
dân tộc. Một số quan điểm khác cho rằng, tuy có sự tồn tại khác biệt giữa các
20

×