Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức vào xây dựng ý thức đạo đức cho sinh viên trường đhbk đhqg hcm trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.92 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

---------------o0o---------------

BÀI TẬP LỚN

MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TÊN ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
VÀO XÂY DỰNG Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐHBK - ĐHQG.HCM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Nhóm 05 – L09

STT Tên thành viên MSSV Phân công nhiệm vụ Mức độ

1

2 Huỳnh Đình Nhân Vị 201243 Mở đầu + Kết luận + Biên tập

7

3

4

5

6


TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 02 NĂM 2024

MỤC LỤC

A. Phần mở đầu:...........................................................................................................................3

I. Lý do chọn đề tài:.................................................................................................................3
II. Mục đích nghiên cứu:........................................................................................................3
III. Đối tượng và phạm vi nghiêng cứu:..................................................................................4
IV. Phương pháp nghiêng cứu:...............................................................................................4
B. Phần nội dung:.........................................................................................................................5
I. Chương 1 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức :.................................................................5

1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức:...........................................................5
2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:..................................................7
3. Quan điểm về những nguyên tắc trong việc xây dựng đạo đức cách mạng:...............13
II. Chương 2 - Thực trạng ý thức đạo đức của sinh viên Trường Đại Học Bách khoa-
ĐHQG.HCM:.............................................................................................................................17
1. Mặt tích cực:................................................................................................................17
2. Mặt tiêu cực:................................................................................................................19
III. Chương 3 - vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào xây dựng ý thức đạo đức
cho sinh viên Trường Đại Học Bách khoa:...............................................................................23
1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý đạo đức:.........................................................23
2. Một số giải pháp xây dựng ý thức đạo đức cho sinh viên Đại học Bách khoa:..........26
C. Phần kết luận:........................................................................................................................26
I. Tóm tắt nội dung chính:.........................................................................................................26
II. Kết quả nghiêng cứu:.............................................................................................................26
III. Hạn chế và kiến nghị:.........................................................................................................27
D. Tài liệu tham khảo:................................................................................................................27


A. Phần mở đầu:
I. Lý do chọn đề tài:

Sinh viên là thế hệ trẻ, lực lượng quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang trong thời kỳ đổi
mới, hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây dựng ý thức đạo đức cho sinh viên
càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm, luận điểm toàn diện, sâu sắc về
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề đạo đức. Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của Đảng và nhân dân ta.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào xây dựng ý thức đạo đức cho
sinh viên trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh là một việc làm thiết thực, có ý nghĩa quan trọng. Giúp sinh viên rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống tốt đẹp, góp phần xây dựng mơi trường học
tập lành mạnh, góp phần xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh.

II. Mục đích nghiên cứu:
1. Mục đích chung:
Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức và vận dụng vào xây dựng ý thức đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay.

2. Mục đích cụ thể:
Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.

Xác định những nội dung cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

vào xây dựng ý thức đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa - Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

Đề xuất giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào xây
dựng ý thức đạo đức cho sinh viên trường Đại học Bách khoa - Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

III. Đối tượng và phạm vi nghiêng cứu:
1. Đối tượng nghiêng cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và ý thức đạo
đức của sinh viên trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.

2. Phạm vi nghiên cứu:
 Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức.
 Các văn bản của Đảng, Nhà nước về xây dựng đạo đức cho sinh viên.
 Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức và đạo đức sinh viên.
 Thực trạng ý thức đạo đức của sinh viên trường Đại học Bách khoa - Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

IV.Phương pháp nghiêng cứu:
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
 Phương pháp điều tra xã hội học.
 Phương pháp phân tích, tổng hợp.

B. Phần nội dung:
I. Chương 1 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức :

Đạo đức đóng vai trị quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh và được coi
là một phần không thể thiếu trong cuộc sống và công việc của mỗi cá nhân. Hồ

Chí Minh coi đạo đức là một yếu tố quan trọng để đạt được sự phát triển toàn
diện của con người và xã hội. Bác Hồ tin rằng đạo đức không chỉ áp dụng cho
các lĩnh vực chính trị và xã hội mà cịn tồn tại trong mọi khía cạnh của cuộc
sống, bao gồm cả kinh doanh, kỹ thuật và các lĩnh vực khác.

Đạo đức được định nghĩa là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ
đó con người tự giác điều chỉnh hành vi và cách ứng xử trong quan hệ với xã
hội nhằm đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân và cộng đồng xã hội. Đạo đức
là một hình thái ý thức xã hội. Đạo đức nảy sinh do nhu cầu xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội và hình thức biểu hiện là nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội
mà những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực này định hướng, đánh giá điều
chỉnh hành vi con người cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, đạo đức được
xem là tiến bộ khi nó phản ánh xu hướng tiến bộ của xã hội.

1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức:
i. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng:
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà lãnh tụ cách mạng
thế giới đã đề cập rất nhiều về vấn đề đạo đức. Người không để lại
những tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng của Người về đạo
đức luôn tồn tại trong tiềm thức của con người Việt Nam. Hồ Chí Minh
luôn là một tấm gương đạo đức mẫu mực, tiêu biểu nhất để toàn dân noi
theo. Suốt đời hoạt động cách mạng, Người đặc biệt quan tâm đến giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Như vậy, có thể nói đạo đức là một trong những vấn đề quan trọng của
Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng đạo
đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, Người khẳng
định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát

triển của con người, là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới

hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới
có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”1. Người quan niệm
đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công
việc: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng… Mọi việc
thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng,
hay là không”2. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có
nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài
mà khơng có đức là người vơ dụng nhưng có đức mà khơng có tài thì
làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết
hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

ii. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội:
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không nằm ở lý
tưởng cao đẹp, mức sống vật chất phong phú, hệ tư tưởng giải phóng tự
do, mà trên hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của
những người cộng sản tinh hoa, tấm gương và những hành động sống
động của nó nhằm hiện thực hóa lý tưởng này đang gặp khó khăn.
Hồ Chí Minh cho rằng phong trào cộng sản quốc tế của công nhân đã
trở thành một lực lượng. Số phận của nhân loại sẽ được quyết định
không chỉ bởi chiến lược và chiến thuật xuất sắc của cách mạng vô sản,
mà còn bởi những phẩm chất đạo đức cao đẹp đã làm cho chủ nghĩa
cộng sản trở thành một thế lực bất khả chiến bại.

1 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.5, tr.292-293.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.354.

Tấm gương đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh về một nhân cách vĩ

đại nhưng rất bình thường có sức hấp dẫn to lớn và mạnh mẽ không chỉ
đối với người dân Việt Nam mà còn với nhân dân toàn thế giới. Tấm
gương này từ lâu đã là nguồn động viên tinh thần quan trọng để nhân
dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:
i. Trung với nước, hiếu với dân:
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác. Trong Nho giáo, khái niệm “trung-hiếu” là trung với vua,
hiếu với cha mẹ. Đây là một nguyên tắc cơ bản trong chế độ phong kiến
ở Việt Nam. Thái độ ứng xử văn hoá trong xã hội phong kiến phải tuân
theo cái trục cơ bản đó, nếu khơng, sẽ bị vi phạm tư cách, đạo đức làm
người. Từ đó Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo
đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là
một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.

“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”3. Câu nói đó của
Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo
đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách
mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Trong chữ “trung” như vậy, có cả trung với những ông vua anh minh,
nhưng cũng có cả trung với ơng vua hèn kém, mà có thể gọi đó là “ngu
trung”. Bởi vì, Nho giáo đưa ra nguyên tắc trong quan hệ quân – thần
(tức vua – tôi) rất cứng nhắc và sai lầm: “Quân xử thần tử, thần bất tử,

3 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.619.


bất trung” (Nghĩa là vua bắt bề tơi phải chết thì bề tơi phải chết, nếu
khơng chết thì là khơng trung với vua). Hồ Chí Minh cho rằng, người
cách mạng phải đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết và trước hết.
Trung với nước ở Hồ Chí Minh trở thành lẽ sống tự nhiên và Người ý
thức được trách nhiệm phục vụ nhân dân, kể cả khi đã đứng ở đỉnh
tháp của quyền lực.

Hồ Chí Minh khơng bị quyền lực làm cho mờ mắt. Người cho rằng, từ
người chủ tịch nước cho đến người cấp dưỡng, quét rác, ai mà làm tròn
nhiệm vụ của mình thì đều là người cao thượng, là người làm tròn chữ
“trung”. Mỗi một người trong xã hội đều ứng với một công việc cụ thể,
một nhiệm vụ cụ thể hễ người nào hoàn thành và hoàn thành tốt việc
đó, nhiệm vụ đó thì đó là trung. Chữ trung đó được đo bằng kết quả cụ
thể, bằng hiệu quả công tác, chứ không phải bằng lời nói, bằng việc hơ
khẩu hiệu cho to, cho lớn, cho dõng dạc, lời lẽ khẩu hiệu cho mỹ miều.
Hiếu với dân là nội dung rất cơ bản trong quan niệm của Hồ Chí Minh
trong cái cặp chỉnh thể “Trung với nước, hiếu với dân”, trong đó có
hiếu với cha mẹ mình, và nói rộng ra là tình thân, họ hàng.

Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước là suốt đời phấn
đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân,
tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. Để làm được như vậy, phải gần dân,
kính trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh u cầu phải nắm vững dân tình,
hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao
dân trí.

ii. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư:


Đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”, theo Hồ Chí Minh là
nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Đây là những đức tính mà bản thân mỗi cán bộ, đảng viên lấy đó
để điều chỉnh, soi rọi, thực hiện trong mọi hoạt động. Cần kiệm, liêm,
chính cũng là phẩm chất của đạo đức truyền thống, nhưng được Bác Hồ
đưa vào những nội dung theo yêu cầu mới, khác cơ bản về đối tượng
thực hiện. Trong chế độ phong kiến cũng nêu những khái niệm cần,
kiệm, liêm, chính, nhưng họ bắt nhân dân thực hiện để phục vụ cho
quyền lợi của họ, chứ giai cấp phong kiến không bao giờ thực hiện. Còn
đối với Bác Hồ, đề ra cần, kiệm, liêm, chính là bắt buộc cán bộ, đảng
viên phải làm gương thực hiện để nhân dân noi theo, đem lợi ích cho
dân, cho nước.

Tháng 3-1947, do nhu cầu “kháng chiến, kiến quốc” Bác kêu gọi thi
đua xây dựng “đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích rất
rõ, dễ hiểu. Tháng 6- 1949, để tiếp tục răn dạy cán bộ về đạo đức, Bác
viết tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”. Bác coi bốn đức tính “cần,
kiệm, liêm, chính” là những đức tính của người cán bộ cách mạng, như
trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Bác viết:

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa thì khơng thành trời.
Thiếu một phương thì khơng thành đất.
Thiếu một đức thì khơng thành người”4
Sau đó, Bác cịn viết bốn bài báo đăng trên báo cứu quốc giải thích rõ
nội hàm bốn đức tính này. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ
tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng,


4 Minh Thu. (09/01/2014). Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư.

coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khơng chỉ bàn một cách sâu sắc, cơ đọng, thấm thía về vấn đề
đạo đức mà chính bản thân Người, trong suốt cuộc đời, đã thực hiện
một cách mẫu mực những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt
ra. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, những phẩm chất đạo đức
được Người nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, có khi Người nhấn
mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn nhất định. Từ đó
Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con
người Việt Nam trong thời đại mới là: trung với nước, hiếu với dân yêu
thương con người Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư tinh thần
quốc tế trong sáng. Vậy Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư là gì?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích ý nghĩa và mối liên quan của những
từ này một cách đơn giản, rõ ràng và rất dễ hiểu.

Cần, tức là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai, lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, khơng lười biếng. Cần cịn là làm
việc một cách thơng minh, sáng tạo, có kế hoạch, khoa học. Theo Bác,
con người có đức Cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được.
Đúng như câu tục ngữ kiến tha lâu cũng đầy tổ, nước chảy mãi đá cũng
mòn. Bác lưu ý, kẻ địch của chữ Cần là lười biếng. Bác cho rằng nếu có
một người, một địa phương, hoặc một ngành mà lười biếng thì khác nào
tồn chuyến xe đang chạy, mà có một bánh trật ra ngoài đường ray. Họ
sẽ làm chậm trễ cả một chuyến xe. Vì vậy, người lười biếng là có tội
với đồng bào, với Tổ quốc.


Kiệm, tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền
của của dân, của nước, của bản thân phải tiết kiệm từ cái lớn đến cái
nhỏ, khơng phơ trương hình thức, khơng xa xỉ, hoang phí. Cần và Kiệm

phải đi đôi với nhau như hai chân của con người. Cần mà không Kiệm
thì như gió vào nhà trống, như nước đổ vào cái thùng không đáy, làm
chừng nào xào chừng ấy, rốt cuộc không lại hồn khơng. Kiệm mà
khơng Cần thì khơng tăng thêm và không phát triển được. Bác giải
thích, tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không đáng tiêu xài thì một
hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhưng khi có việc cần làm
lợi cho dân, cho nước thì hao bao nhiêu của, tốn bao nhiêu công cũng
vui lòng, như thế mới là kiệm.

Liêm, nghĩa là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của cơng, của
dân, không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham
làm, ham tiến bộ. Vì vậy mà quang minh chính đại, khơng bao giờ hủ
hoá. Bác đã nhắc lại một số ý kiến của các bậc hiền triết ngày trước:
Khổng Tử nói: "Người mà khơng Liêm thì khơng bằng súc vật" Mạnh
Tử cho rằng: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”. Do vậy, Bác yêu cầu
mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo phải thực hiện tốt chữ Liêm. Chữ
Liêm và chữ Kiệm phải đi đôi với nhau như chữ Kiệm phải đi đôi với
chữ Cần. Có Kiệm thì mới Liêm được, bởi xa xỉ ắt sinh tham lam,
không giữ được Liêm. Bác cũng chỉ rõ ngược lại với chữ Liêm là tham
ô, là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, tiêu ít mà khai
nhiều, lợi dụng của chung của nhà nước làm quỹ riêng cho địa phương
mình. Tham ơ là trộm cướp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn Liêm thật sự
thì phải chống tham ơ.

Chính nghĩa là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì khơng

đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Nói về chính, Bác viết: “Một người phải
cần, kiệm, nhưng cịn phải chính mới là người hồn tồn”5. Trên quả

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.117.

đất có hàng mn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai
hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm cơng, nghìn
việc, song, những cơng việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và
việc tà. Làm việc chính là người thiện. Làm việc tà là người ác.
Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ,
lại cần có ngành, lá, hoa, quả, mới là hoàn toàn. Một người phải Cần,
Kiệm, Liêm nhưng cịn phải Chính mới là người hồn tồn. Chí cơng
vơ tư, là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị,
không màng công danh, vinh hoa phú quý “phải lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Thực hành chí cơng vơ tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ
biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn
nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi,
nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”6.
Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.

iii. Thương u con người, sống có tình có nghĩa:
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa
nhân đạo của cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua
nhiều thế kỉ cùng với những trải nghiệm bản thân qua các hoạt động
thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã xác định yêu thương con người là
một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp của người cách mạng.

Tình u thương con người đó là tình cảm đáng trân trọng nhất, trước
hết dành cho những người cùng khổ, những người bị áp bức bóc lột. Đó
là tình u dành cho nhân dân cịn bị thiếu thốn, đói nghèo, chưa thốt

6 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.12, tr.557-558.

được vịng tối tăm, lạc hậu. Đó là tình yêu thương đối với bạn bè, đồng
chí, với những con người xa lạ nhưng cùng chung dòng máu.

Hồ Chí Minh ln u thương con người với một tình cảm sâu sắc, vừa
bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương. Tình yêu thương con người
của Hồ Chí Minh ln gắn với những hành động cụ thể, mang lại cơm
ăn, nước uống, trả lại nhân phẩm cho con người, phấn đấu vì độc lập
của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Trong di chúc, Người căn dặn “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau, sống với nhau phải có nghĩa, có tình”.7 Đây là điều mà Người
muốn nhắc nhở những cán bộ đảng viên phải luôn luôn chú ý và vun
đắp phẩm chất yêu thương con người, yêu thương đồng chí, đồng đội.

iv. Tinh thần quốc tế trong sáng:
Đó là, tinh thần đồn kết quốc tế vơ sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên
bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em" là tinh thần đoàn kết
với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí
Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản
thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc là tinh thần
đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế
giới vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của
thời đại là hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các

nước, các dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vơ sản gắn liền với chủ nghĩa yêu
nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa

7 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.15, tr.662.

quốc tế vơ sản trong sáng. Đồn kết quốc tế là nhằm thực hiện những
mục tiêu lớn của thời đại và hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh thần: bốn phương vô sản,
bốn bể đều là anh em. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ
Chí Minh đã dày cơng xây đắp tình đồn kết hữu nghị giữa nhân dân
Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới:
đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hóa hịa bình cho
nhân loại.

3. Quan điểm về những nguyên tắc trong việc xây dựng đạo đức cách mạng:
i. Nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức:
Là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong việc xây dựng đạo và là
đặc trưng bản chất của đạo đức cách mạng, thể hiện sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đối
với mỗi người để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với việc
làm phải có nhận thức đúng và quyết tâm vượt qua chính mình. Nói đi
đơi với làm cịn là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong sáng
của cán bộ, đảng viên công chức, nêu gương trước nhân dân.

Nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức: đây là nguyên tắc quan trọng
hàng đầu trong xây dựng đạo đức mới. Nói là biểu hiện cụ thể nhất của
suy nghĩ ý chí Làm là hành động. Nói mà khơng làm thì chỉ là nói
suông, lãnh đạo nói mà khơng làm gương thì khơng ai nghe. Ngược lại

chỉ làm mà khơng nói thì sẽ khơng ai hiểu, người lãnh đạo quần chúng
nếu chỉ đơn thuần xắn tay áo làm việc ngay thì làm sao quần chúng hiểu
mà làm theo làm mà khơng nói tức là hành động mà khơng nêu ra suy
nghĩ chủ trương, từ đó dẫn đến nhận thức sai lầm từ quần chúng nhân
dân. Ví dụ như: Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào “Hủ gạo
cứu đói” trong thời điểm khó khăn của nước ta sau độc lập. Đầu tiên

Người phát động, sau đó Người làm gương: mỗi ngày bớt một ít gạo
cho hủ gạo cứu đói. Vì vậy nhân dân hưởng ứng nhiệt tình, giải quyết
tạm thời nạn đói trước mắt. Giả sử, nếu Người chỉ kêu gọi mà không
làm thì có sự hưởng ứng mạnh mẽ như vậy không? Hay Người cứ hằng
ngày bớt một ít gạo bỏ vào thùng thì có ai hiểu được mục đích của
Người khơng? Vì thế, ta có thể khẳng định để có thể xây dựng đạo đức
mới thì ngun tắc đầu tiên là nói đi đôi với làm.

Hồ Chí Minh rất chú trọng việc nêu gương: Người cho rằng đối với
nhân dân thì “một tấm gương sống cịn giá trị hơn một trăm bài diễn
văn tuyên truyền’’. Người chú trọng: “Lấy gương người tốt việc tốt
hằng ngày giáo dục lẫn nhau’’. Bác là tấm gương lớn về xây dựng một
nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo làm gương phải được quán
triệt trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực, từ Đảng, Nhà nước, các
đoàn thể đến nhà trường, gia đình, xã hội “Lấy gương người tốt, việc tốt
để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây
dựng Đảng, các tổ chức cách mạng, con người mới, cuộc sống mới”8.

ii. Xây đi đôi với chống:
Thể hiện tính nhân đạo chiến đấu, xây các giá trị, chuẩn mực đạo đức
mới đi đôi với việc chống lại các hành vi, biểu hiện vô đạo đức, suy
thoái đạo đức. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy
xây làm chính.


Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc
giáo dục những phẩm chất những chuẩn mực đạo đức mới. Muốn xây
dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cách
mạng cho hàng triệu đảng viên, hàng triệu con người - cán bộ, đảng

8 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.15, tr.672.

viên, các công dân trong các giai tầng khác nhau, thì cùng với việc xây
dựng,bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những
cái xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới.

Trong đời sống hằng ngày những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, thiện
- ác, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn thường đan xen, hòa trộn với
nhau. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ
giữa xây và chống "xây" là giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, đạo
đức Cách mạng cho con người Việt Nam, "Chống" là chống những biểu
hiện hành vi vô đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân, cường quyền, hách
dịch. "Xây đi đôi với chống" nghĩa là đồng thời với việc giáo dục, xây
dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải đi đôi với đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, chống những hành vi phi đạo đức.

Xây phải đi đôi với chống, loại bỏ cái sai, cái xấu cái vô đạo đức hằng
ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách
mạng, đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng thành cơng trên cơ sở
kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen, tập
quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân: “Chống chủ nghĩa cá nhân
và xây dựng chủ nghĩa tập thể”.

iii. Tu dưỡng đạo đức suốt đời:

Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì
độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành
động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Do vậy,
đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua
hoạt động thực tiễn, trong công việc,trong các mối quan hệ của mình,
phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc phải thấy rõ cái
hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu,

cái ác của mình để khắc phục phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời
như công việc rửa mặt hằng ngày.

Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức khơng phải là thứ có sẵn trong mỗi
người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo
thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường
sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất
dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong"9.

Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo
đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức ln ln gắn liền với kinh tế. Trung với
nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc
lập và tự do là nhằm xố bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại
đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí
Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển
mọi mặt của xã hội phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá,
đạo đức, con người. Tinh thần này đã được thể hiện trong câu nói bất
hủ của Hồ Chí Minh "Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước

hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta".10

Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp
tục cổ động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu
dương các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào

9 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.11, tr.612.
10 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.96.

“người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người
tôn vinh và noi theo.

II. Chương 2 - Thực trạng ý thức đạo đức của sinh viên Trường Đại Học Bách
khoa- ĐHQG.HCM:

1. Mặt tích cực:
Một tác động tích cực đối với đạo đức sinh viên là tạo ra sự đồng nhất
tương đối giữa quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử của cộng đồng sinh
viên Việt Nam với các quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử chung mang
tính quốc tế. Với ưu thế của tuổi trẻ, lại được trang bị ngoại ngữ, tin học,
với sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin hiện đại và việc mở rộng, đa
dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế, sinh viên Việt Nam ngày nay đã hoà
kịp vào dịng chảy mới trong q trình hội nhập. Điều đó tạo ra sự xích lại
gần nhau giữa các giá trị đạo đức trong một tinh thần cảm thông và cởi mở.
Các quan niệm đạo đức của sinh viên Việt Nam, bên cạnh cái riêng của
mình, đang xuất hiện những cái chung hoà nhập cùng thế giới, mở ra những
cơ hội giao lưu, học hỏi. Những rào cản đạo đức nào khơng cịn phù hợp
trong việc điều chỉnh hành vi sẽ bị vượt qua, thể hiện khá rõ nét ở sinh viên.
Có thể dự đốn về một xu hướng đạo đức được quốc tế hoá, vừa trên cơ sở
thống nhất những quy tắc đạo đức chung của con người, vừa giữ được

truyền thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, đạo đức sinh viên Việt Nam nói
riêng.
Sự tác động của các yếu tố trên khơng chỉ mang tính tích cực, mà còn hàm
chứa cả tính tiêu cực. Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện thực dụng
trong quan niệm đạo đức và hành vi ứng xử ở một bộ phận không nhỏ sinh
viên. Trào lưu dân chủ hoá, làn sóng cơng nghệ thơng tin và việc nâng cao
dân trí đã làm ý thức cá nhân, cụ thể là sinh viên, được tăng lên; họ ý thức
cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Tuy nhiên, cái cá
nhân nhiều khi lấn át cái cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân quan trọng hơn
tất cả. Họ cho rằng, kinh doanh là hoạt động đem lại lợi nhuận bằng bất cứ
giá nào và không cần đếm xỉa đến vấn đề đạo đức. Quan niệm đó dẫn đến

một biểu hiện nguy hiểm là thái độ bàng quan đối với những người xung
quanh, cho dù các phong trào tình nguyện được phát động khá rầm rộ trong
sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên truyền tinh thần vì cộng đồng. Một số
sinh viên so đo sự hy sinh và quan tâm đến người khác là việc làm đưa lại
lợi ích gì cho chính mình.
Ngày 19/5, Đại học Bách khoa Hà Nội tổ chức Sinh hoạt công dân chuyên
đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” cho
sinh viên tồn trường nhằm mục tiêu giáo dục đạo đức cách mạng và lý
tưởng sống cho sinh viên. Ý nghĩa hơn, hôm nay là sinh nhật Bác.
Buổi sinh hoạt diễn ra dưới hình thức trực tiếp và trực tuyến với sự tham gia
của đông đảo sinh viên toàn trường.
Đại học Bách khoa Hà Nội vinh dự tự hào được đón Bác Hồ 3 lần về thăm.
Ghi nhớ những lời căn dặn ân cần của Bác, thầy trị Nhà trường khơng
ngừng phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học và đã
ghi danh trường trên bản đồ Giáo dục Đại học thế giới.
Không chỉ trang bị cho sinh viên kiến thức văn hóa, kỹ năng mềm mà nhà
trường rất chú trọng đến việc giáo dục truyền thống cho sinh viên, để mỗi
sinh viên Bách khoa khi bước ra đời đều được trang bị đầy đủ năng lực, đạo

đức và phẩm chất.
Hồ Chủ tịch đã dạy: "Có tài mà hơng có đức là người vơ dụng, có đức mà
khơng có tài thì làm việc gì cũng khó".
PGS. Nguyễn Phong Điền, Phó Hiệu trưởng Nhà trường từng nói: “Khơng
tuyển đâu được những sinh viên tốt hơn nữa ở Việt Nam như sinh viên
Bách khoa Hà Nội”. Bởi lẽ, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội tự hào là
môi trường giàu truyền thống đào tạo ra rất nhiều thế hệ sinh viên có quyết
tâm, ý chí và bản lĩnh. Để có tương lai tốt, bên cạnh năng lực của bản thân,
sinh viên cần rèn luyện, trau dồi, phát triển phẩm chất. Thực tế, rất nhiều
nhà lãnh đạo, người thành cơng, các cơng dân có ích.


×