Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

BÀI TẬP LỚN Học phần Tài chính – Tiền tệ Đề tài Ngân hàng Thương mại tại Singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.83 KB, 44 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>HỌC VIỆN NGÂN HÀNGKHOA NGÂN HÀNG</b>

<b>BÀI TẬP LỚN</b>

<i><b>Học phần: Tài chính – Tiền tệ</b></i>

<i><b>Đề tài: Ngân hàng Thương mại tại Singapore</b></i>

<b>Giảng viên hướng dẫn</b>:Ths. Nguyễn Thành Nam

<i><b>Hà Nội, ngày 11 tháng 03 năm 2023</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU...3</b>

<b>1. Lý do chọn đề tài...3</b>

<b>2. Mục đích nghiên cứu...3</b>

<b>3. Đối tượng nghiên cứu...4</b>

<b>4. Phương pháp nghiên cứu...4</b>

<b>5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài...4</b>

<b>II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI SỐ TẠI SINGAPORE...20</b>

<b>1. Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM Singapore...20</b>

<b>2. Ưu điểm và Nhược điểm...28</b>

<b>3. Một số giải pháp khắc phục...30</b>

<b>III. BÀI HỌC CHO VIỆT NAM...31</b>

<b>1. Thực trạng hoạt động Ngân hàng thương mại của Việt Nam...31</b>

<b>2. Đề xuất giải pháp cho Việt Nam...36</b>

<b>KẾT LUẬN...40</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...41</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Lý do chọn đề tài</b>

Cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư đã có những tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp - toàn cầu, khu vực và trong từng quốc gia. Thế giới đang thay đổi từng ngày, công nghệ kỹ thuật liên tục phát triển và không ngừng tạo ra những đột phá đầy bất ngờ. Xu hướng số hoá xuất hiện ở mọi lĩnh vực. Thị trường kinh tế ngày nay dựa trên các công nghệ số để thuận lợi cho việc giao dịch, trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Các hoạt động kinh tế được phát sinh từ hàng tỉ kết nối trực tuyến mỗi ngày giữa cá nhân, doanh nghiệp, thiết bị, dữ liệu và quy trình. Trong lĩnh vực ngân hàng, sự chuyển đổi số này đã mang lại nhiều ý nghĩa to lớn cho khách hàng, doanh nghiệp và tác động tích cực đến nền kinh tế. Nó đã mở ra kỷ nguyên mới cho ngành ngân hàng để tối ưu hóa tất cả các thủ tục phức tạp, tiếp cận đến khách hàng theo cách nhanh gọn nhất có thể. Tuy nhiên, để việc chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng thương mại tiếp tục đạt được tính hiệu quả tối ưu thì việc tham khảo kinh nghiệm từ nước ngoài để hoàn thiện vấn đề này là điều cần thiết. Với tình hình chính trị ổn định và cơ sở hạ tầng tốt, Singapore là quốc gia thích hợp nhất trong việc đóng góp vai trị trung gian tài chính trong khu vực Đơng Nam Á. Thành tựu của Singapore phần lớn nhờ các chính sách thuộc cấp thành phố lẫn quốc gia của nước này - đặc biệt trong dịch vụ chính phủ điện tử, giáo dục và các chiến lược đơ thị hóa, chuyển đổi số lấy con người làm trung tâm.

<i>Đó cũng chính là lý do mà nhóm đã chọn đề tài “Ngân hàng thương mại của Singapore</i>

<i>trong giai đoạn chuyển đổi số” làm đề tài nghiên cứu, để trước hết bản thân nhóm sẽ hiểu</i>

sâu sắc hơn về trung gian tài chính - mà ở đây cụ thể là ngân hàng thương mại cũng như thực trạng ngân hàng thương mại số ở Singapore hiện nay. Hơn hết nhóm sẽ có cái nhìn tồn diện về ngân hàng thương mại và đưa ra được các bài học kinh nghiệm, giải pháp hiệu quả để áp dụng tại Việt Nam.

<b>2. Mục đích nghiên cứu</b>

Mục đích nghiên cứu đề tài là hiểu và nắm được các cơ sở lý thuyết liên quan đến ngân hàng thương mại và thực trạng ngân hàng thương mại của Singapore trong thời đại

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

chuyển đổi số. Trên đó sẽ rút ra được những giải pháp để cải thiện hệ thống ngân hàng thương mại số ở Việt Nam hiện nay.

<b>3. Đối tượng nghiên cứu</b>

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là cơ sở lý thuyết chung liên quan đến ngân hàng thương mại gồm: khái niệm, phân loại, nghiệp vụ tài sản có, tài sản nợ và thực trạng hoạt động của ngân hàng thương mại tại Singapore trong giai đoạn chuyển đổi số.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>

Đề tài này được nhóm kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để tìm hiểu cũng như đánh giá thực trạng ngân hàng thương mại của Singapore trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay.

<i><b>-</b>Phương pháp định tính: Nhóm sử dụng phương pháp thống kê, thu nhập số liệu</i>

tiến hành phân tích các thông tin để thực hiện so sánh, quy nạp, tổng hợp, phân tích giữa lý luận và thực tiễn cùng tham khảo các tài liệu để nghiên cứu về thực trạng ngân hàng thương mại số ở Singapore.

<i><b>-</b>Phương pháp định lượng: Đề tài được nhóm thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng dữ</i>

liệu, thông tin thu thập được từ các báo cáo của các ngân hàng thương mại ở singapore, các bảng báo cáo cân đối kế toán cũng như báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh để hình thành số liệu sử dụng trong phân tích.

<b>5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài</b>

<i>Về lý luận, đề tài góp phần làm sáng tỏ, phân tích kỹ các kiến thức chung về ngân hàng</i>

thương mại, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi số.

<i>Về thực tiễn, đề tài mang tính thực tiễn cao khi đặt trong bối cảnh chuyển đổi số là một</i>

trong những mục tiêu được quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp trong đó có ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Việc tìm hiểu và nghiên cứu về ngân hàng thương mại ở Singapore sẽ mang đến cho các thành viên trong nhóm cái nhìn tồn diện về những ưu, nhược điểm và thành tựu đạt được của nước bạn để áp dụng, đề ra giải pháp cho các ngân hàng thương mại ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>I.CƠ SỞ LÝ THUYẾT</b>

<b>1. Khái niệm</b>

- Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế chuyên thực hiện các hoạt động trong ngân hàng về các lĩnh vực cung cấp tiền tệ, dịch vụ tài chính giữa khách hàng và ngân hàng hoặc ngược lại.

- Các hoạt động trong ngân hàng như: huy động nguồn vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan.

<i><b>- Theo luật các tổ chức tín dụng: Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng được thực</b></i>

<i>hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mụctiêu lợi nhuận theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của</i>

<i><b>pháp luật. (Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của</b></i>

<b>2. Phân loại</b>

<i><b>-</b></i> Dựa vào hình thức sở hữu chia ra làm 5 loại

<i>+ Ngân hàng thương mại Quốc doanh (State owned Commercial bank): Là ngân hàng</i>

thương mại được mở bằng 100% từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Trong xu thế kinh tế

<i>hội nhập, để thu hút được nhiều nguồn vốn thì ngân hàng thương mại Quốc doanh ban</i>

hành nhiều hình thức tăng vốn như phát hành trái phiếu, cổ phần hóa ngân hàng.

<i>+ Ngân hàng thương mại cổ phần (joint Stock Commercial bank): Là ngân hàng thương</i>

mại được thành lập dưới sự góp vốn của hai hay nhiều cá nhân hoặc công ty theo cổ phần. Trong đó mỗi cá nhân hay cơng ty chỉ được sở hữu một số cổ phần hạn định theo qui định của ngân hàng nhà nước Việt nam.

<i>+ Ngân hàng liên doanh (thuộc loại hình tổ chức tín dụng liên doanh): Là ngân hàng</i>

thương mại được thành lập bằng vốn giữa các ngân hàng với nhau, một bên là ngân hàng thương mại Việt nam và một bên khác là ngân hàng thương mại nước ngồi có trụ sở đặt tại Việt nam, hoạt động như những ngân hàng ở Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

+ Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là ngân hàng thương mại được thành lập do vốn của nước ngoài theo pháp luật nước ngoài, được phép đặt chi nhánh tại Việt Nam và hoạt động theo pháp luật của Việt Nam.

+ Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài: Là ngân hàng thương mại được thành lập tại Việt Nam với nguồn vốn điều lệ hoàn toàn từ nước ngoài, do sự sở hữu của nước ngoài. Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngồi được hoạt động dưới hình thức cơng ty TNHH một thành viên hoặc từ hai hay nhiều thành viên trở lên, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.

<i><b>-</b></i> Dựa vào chiến lược kinh doanh

+ Ngân hàng bán buôn: là loại ngân hàng chủ yếu giao dịch và cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp lớn, các cơng ty tài chính. Nhà nước, rất ít khi giao dịch với khách hàng là cá nhân.

+ Ngân hàng bán lẻ: là loại ngân hàng các giao dịch và cung cấp các dịch vụ cho các khách hàng cá nhân.

+ Ngân hàng hỗn hợp (vừa bán buôn vừa bán lẻ): là loại ngân hàng giao dịch và cung cấp các dịch vụ cho các khách hàng doanh nghiệp và các khách hàng cá nhân.

<i><b>-</b></i> Dựa vào tính chất hoạt động

+ Ngân hàng chuyên doanh: là loại ngân hàng chỉ hoạt động chuyên về một lĩnh vực nhất định như nông nghiệp, xuất nhập khẩu, đầu tư…

+ Ngân hàng kinh doanh tổng hợp: là loại ngân hàng hoạt động ở tất cả các lĩnh vực kinh tế và thực hiện gần như tất cả các nghiệp vụ phát sinh mà một ngân hàng được phép thực hiện theo quy định của pháp luật.

<b>3. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại3.1.Nghiệp vụ tài sản nợ - Huy động vốn</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Đây là nghiệp vụ huy động, tạo nguồn vốn kinh doanh cho Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn được phản ánh thông qua cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm

- Vốn điều lệ: Là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi trong bản điều lệ của ngân hàng, được hình thành ngay từ khi ngân hàng thương mại được thành lập. Vốn điều lệ có thể được điều chỉnh tăng lên trong quá trình hoạt động của ngân hàng.

- Quỹ dự trữ: Quỹ dự trữ của ngân hàng được hình thành từ 2 quỹ: Quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Các quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng. Việc hình thành các quỹ này nhằm làm tăng vốn tự có của Ngân hàng, đồng thời đảm bảo an tồn trong kinh doanh.

<b>b. Vốn coi như tự có</b>

Vốn coi như tự có bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Đây là những khoản vốn đã được phân bổ cho những mục đích chi tiêu nhất định nhưng tạm thời chưa được sử dụng, ví dụ: lợi nhuận chờ phân bổ, tiền lương chưa đến hạn thanh toán hoặc các quỹ chuyên dùng chưa sử dụng đến như quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định…

Vốn của ngân hàng thường chiếm tỉ trọng nhỏ (không quá 10%) trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng nắm giữ nhưng lại là nguồn vốn có ý nghĩa đặc biệt vì nó phản ánh thực lực tài chính của ngân hàng, do vậy nó quyết định qui mơ hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, thu hút những nguồn vốn khác và cho vay. Nó

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

được ví như một cái đệm để chống đỡ sự giảm giá trị của những tài sản có của ngân hàng, sự giảm giá trị có thể đẩy ngân hàng đến tình trạng mất khả năng chi trả và phá sản.

<i><b>3.1.2. Vốn tiền gửi</b></i>

Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của các ngân hàng thương mại, bao gồm:

<b>a. Tiền gửi không kỳ hạn</b>

Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào. Tiền gửi không kỳ hạn được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai. Người gửi tiền có thể gửi thêm tiền vào hoặc rút tiền ra khỏi tài khoản bất cứ lúc nào. Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi nhưng đổi lại người gửi tiền được sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi khơng nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu là nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền và thực hiện các hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Chính vì vậy mà loại tiền gửi này cịn được gọi là tiền gửi thanh tốn. Ở Việt nam, tài khoản séc thường được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán, bao gồm tài khoản thanh toán dùng cho các doanh nghiệp và tài khoản thanh tốn cho cá nhân.

<b>b. Tiền gửi có kỳ hạn</b>

Là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng đến vài năm. Mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn tiền gửi không kỳ hạn nhưng những người gửi tiền loại này không được hưởng dịch vụ thanh tốn qua ngân hàng. Mục đích chủ yếu của những người gửi tiền có kỳ hạn là để lấy lãi. Ở các nước phát triển, tiền gửi có kỳ hạn thường dưới dạng các chứng chỉ tiền gửi, cịn ở Việt nam tiền gửi có kỳ hạn thường dưới hai dạng:

<i><b>-</b></i> Tiền gửi có kỳ hạn theo tài khoản

<i><b>-</b></i> Tiền gửi có kỳ hạn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng: Trong hình thức này, ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm các mục đích

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

+ Phát hành theo mệnh giá: trong hình thức này người mua trả tiền mua kỳ phiếu theo mệnh giá đã được ghi trên kỳ phiếu. Khi đến hạn ngân hàng sẽ hồn trả vốn gốc và thanh tốn lãi cho người mua kỳ phiếu.

<i><b>+ Phát hành dưới hình thức chiết khấu: trong hình thức này người mua sẽ trả số tiền mua</b></i>

kỳ phiếu bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng. Khi đến hạn, ngân hàng sẽ hoàn trả cho khách hàng theo mệnh giá của kỳ phiếu. Như vậy, trong trường hợp này, khách hàng đã được trả lãi trước.

<i><b>3.1.3. Tiền gửi tiết kiệm</b></i>

Là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Các mức lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn gửi được ngân hàng công bố sẵn. Các kỳ hạn thường là 1, 3, 6, 9, 12 tháng hoặc trên 1 năm (18, 24 tháng v.v..). Hình thức phổ biến và cổ điển nhất của tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ. Khi gửi tiền, ngân hàng cấp cho người gửi một cuốn sổ dùng để ghi nhận các khoản tiền gửi vào và tiền rút ra. Quyển sổ này đồng thời có giá trị như một chứng thư xác nhận về khoản tiền đã gửi. Ngồi ra, cịn có những hình thức khác như chứng chỉ tiết kiệm, trái phiếu tiết kiệm. Ở Việt nam, tiền gửi tiết kiệm bao gồm ba loại sau:

<i><b>+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể</b></i>

gửi vào và rút ra theo nhu cầu sử dụng mà không cần báo trước cho ngân hàng. Ngân hàng trả lãi cho loại tiền gửi này nhưng rất thấp

<i><b>+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn gửi cố định trước.</b></i>

Loại tiền gửi này cũng tương tự như tiền gửi có kỳ hạn ở các điểm: không được phép rút trước hạn, được hưởng lãi cao hơn các dạng tiền gửi không kỳ hạn và không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với dạng tiền gửi này, người gửi chỉ được gửi tiền vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi khi đến hạn. Không cho phép bổ sung thêm vào số tiền đã gửi khi chưa hết hạn. Mỗi lần gửi được coi là một khoản tiền gửi riêng biệt. Mức tối thiểu của mỗi lần gửi tiền do từng ngân hàng qui định.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Những người gửi tiền ngồi hưởng lãi cịn được ngân hàng cho vay nhằm bổ sung thêm vốn cho mục đích xây dựng nhà ở. Mức cho vay tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm. Lý do phải tách riêng tiền gửi tiết kiệm ra mà không xếp vào hai dạng tiền gửi trên mặc dù tính chất của chúng rất giống nhau là vì đây là tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, là tài sản tích luỹ của quốc gia, được xem là nguồn vốn nội lực của đất nước, cho nên cần có chính sách ưu tiên bảo vệ.

<i><b>3.1.4. Vốn đi vay</b></i>

Trong quá trình hoạt động, ngân hàng cịn có thể vay vốn từ Ngân hàng Trung ương hay các tổ chức tín dụng khác, hoặc từ thị trường tài chính trong và ngồi nước.

<b>a. Vay từ NHTW</b>

Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được ngân hàng trung ương cho phép thành lập hoạt động đều hưởng quyền vay tiền tại NHTW trong trường hợp thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới hai hình thức, đó là:

<i><b>-</b></i> Chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá

<i><b>-</b></i> Cho vay thế chấp hay ứng trước. Do vậy loại vay này được gọi là tiền chiết khấu hay tiền ứng trước.

Ở Việt nam hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt nam áp dụng ba hình thức cấp tín dụng, đó là:

<i><b>-</b></i> Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác85.

<i><b>-</b></i> Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.

<i><b>-</b></i> Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Thường là các hồ sơ cung cấp tín dụng hỗ trợ theo yêu cầu của nền kinh tế như: thu mua lương thực, nông sản; dự trữ vật tư, nguyên liệu; sản xuất hàng hoá xuất khẩu thuộc diện ưu tiên….

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>b. Vay ngắn hạn các khoản dự trữ của các tổ chức tín dụng khác</b>

Mục đích chính của loại vay này là nhằm đảm bảo dự trữ bắt buộc theo qui định của NHTW. Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại có những ngày cho vay quá nhiều dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ bắt buộc tại NHTW. Trong khi đó lại có một vài ngân hàng thương mại khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo qui định của NHTW, ngân hàng thương mại thiếu hụt dự trữ sẽ vay của ngân hàng thương mại có dự trữ dư thừa. Thời hạn của loại cho vay này rất ngắn, thường không quá một tuần.

<b>c. Vay từ các công ty</b>

Ở các nước phát triển, ngân hàng thương mại cịn có thể vay trực tiếp từ các công ty:

<i><b>-</b></i> Vay ngắn hạn bằng các Hợp đồng mua lại

Hợp đồng mua lại là hợp đồng trong đó ngân hàng bán các tín phiếu kho bạc mà mình đang nắm giữ cho các tổ chức kinh tế đang tạm thời thừa tiền mặt, có kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một vài ngày hay một vài tuần với mức giá cao hơn. Về thực chất đây là một công cụ để vay nợ ngắn hạn của các ngân hàng trong đó sử dụng tín phiếu kho bạc làm vật thế chấp. Hợp đồng mua lại là một hình thức giải quyết vấn đề kẹt tiền mặt cấp thời cho ngân hàng thương mại. Lượng tiền mặt thu được từ hợp đồng mua lại được xem như một khoản vay nợ ngắn hạn. Ở các nước phát triển hiện nay, thời gian bán tối đa của hợp đồng này thường không quá hai tuần.

<i><b>-</b></i> Vay từ công ty mẹ

Ở các nước phát triển, một cơng ty hoặc tập đồn kinh doanh có thể là chủ của một hoặc nhiều ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu hay giấy nợ để vay tiền từ thị trường, nó sẽ chịu sự quản lý và ràng buộc của NHTW về dự trữ, lãi suất và thủ tục.

<b>d. Vay từ thị trường tài chính trong nước</b>

Các ngân hàng thương mại có thể vay từ thị trường tài chính thơng qua phát hành các chứng từ có giá như:

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i><b>-</b></i> Chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng

Đây thực chất là các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn 86, có thể mua đi bán lại trên thị trường khi chưa đáo hạn. Thời gian đáo hạn của loại chứng chỉ này thường không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành.

<i><b>-</b></i> Trái phiếu ngân hàng

Đây là một công cụ vay nợ dài hạn của ngân hàng từ thị trường chứng khoán. Thời hạn vay thường từ 2 năm trở lên. Loại này có thể mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán khi chưa đáo hạn.

<i><b>3.1.5. Vay nước ngoài</b></i>

Các ngân hàng thương mại cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành phiếu nợ để vay tiền ở nước ngồi. Do loại tiền sử dụng trong thanh tốn quốc tế hiện nay là USD cho nên vay tiền ở nước ngoài thường vay bằng USD. Vốn vay đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn của ngân hàng trong thời gian qua.

<i><b>3.1.6. Các nguồn vốn khác</b></i>

Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng v.v… Vốn hình thành trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, ví dụ như trong nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp (tiền gửi của các ngân hàng khác để nhờ thanh toán hộ), trong nghiệp vụ trung gian của ngân hàng (tiền gửi của khách hàng để đảm bảo thanh tốn trong phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ – L/C).

<b>3.2.Nghiệp vụ tài sản có – Sử dụng vốn</b>

Nghiệp vụ kế tốn tài sản có của Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc sử dụng các khoản vốn huy động được từ Nghiệp vụ tài sản nợ.

<i><b>3.2.1. Nghiệp vụ ngân quỹ</b></i>

Với mục đích đảm bảo khả năng thanh tốn thường xuyên, ngân hàng luôn giữ một lượng tiền mặt dưới các dạng sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

+ Tiền mặt tại quỹ của ngân hàng (vault cash): tuỳ theo qui mơ hoạt động, tính thời vụ, các ngân hàng phải duy trì mức tồn quỹ tiền mặt để thực hiện chi trả trong ngày.

+ Tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại khác: để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền cho khách hàng.

+ Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương: bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo qui định của NHTW và tiền gửi thanh toán để phục vụ các hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng thơng qua vai trị trung gian thanh toán của NHTW.

<i><b>3.2.2. Nghiệp vụ cho vay</b></i>

Hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lợi chủ yếu của các ngân hàng trung gian nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Hoạt động cho vay rất đa dạng và phong phú. Có thể nêu một số loại hình chủ yếu sau:

<i><b>-</b></i> Cho vay ứng trước: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho người đi vay một khoản tiền vay nhất định để sử dụng trước. Người đi vay chỉ phải trả lãi vào lúc hoàn trả vốn gốc. Cho vay ứng trước có hai loại:

<i>Cho vay ứng trước có bảo đảm</i>

+ Bảo đảm bằng các động sản như hàng hoá, tài sản hay chứng từ Cho vay cầm cố: là cho vay trên cơ sở cầm cố tại ngân hàng các tài sản, có thể là hiện vật như vật tư hàng hoá, hoặc là giấy tờ như các giấy sở hữu hàng hoá, các chứng từ thanh toán (bộ chứng từ đòi tiền người nhập khẩu gồm B/E, chứng từ gửi hàng), chứng từ có giá (thương phiếu, chứng khốn, ...), thậm chí cả vàng, bạc, đá quí, ngoại tệ…

+ Bảo đảm bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba – Cho vay có bảo lãnh: Bên bảo lãnh sẽ lập hồ sơ bảo lãnh tại ngân hàng và cam kết hồn trả nợ nếu bên đi vay khơng có khả năng thanh tốn. Ngân hàng cũng có thể đề nghị bên bảo lãnh phải có tài sản cầm cố hoặc thế chấp tại ngân hàng.

<i>Cho vay ứng trước không có bảo đảm</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Là cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng đối với Ngân hàng mà khơng cần có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh. Do vậy còn gọi là cho vay tín chấp. Trong trường hợp này, ngân hàng quyết định cho vay thông qua việc đánh giá các chỉ tiêu như mức vốn tự có, lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp, triển vọng của doanh nghiệp cũng như năng lực, phẩm chất của những người quản lý cơng ty… Trên thực tế đó là các khách hàng uy tín, có quan hệ thường xun với ngân hàng hoặc những doanh nghiệp lớn.

<i><b>-</b></i> Cho vay thấu chi: là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó Ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số tiền dư trên tài khoản vãng lai trong một hạn mức và thời hạn nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng. Hình thức cho vay này thường chỉ được áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.

<i><b>-</b></i> Cho vay chiết khấu: Là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương mại mua lại các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu.

<i><b>-</b></i> Tín dụng uỷ thác thu hay bao thanh toán (Factoring): là nghiệp vụ trong đó cơng ty “factor” – cơng ty con của ngân hàng – cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa tới hạn phát sinh từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá và dịch vụ với giá chiết khấu. Các khoản nợ này thường là ngắn hạn (từ 30 đến 120 ngày). Trong thực tế, các ngân hàng thường thành lập một công ty con chuyên trách nghiệp vụ này gọi là công ty tài chính th mua.

<i><b>-</b></i> Cho vay bằng chữ ký: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng khơng trực tiếp cho khách hàng vay bằng tiền nhưng bằng uy tín (chữ ký) của mình, ngân hàng tạo điều kiện để khách hàng sử dụng vốn vay của người khác và đảm bảo thanh tốn hộ khách hàng. Chính vì vậy, mặc dù là một hình thức tín dụng nhưng trong hạch tốn, nó khơng làm thay đổi bảng quyết tốn tài sản của ngân hàng mà được hạch toán ngoại bảng. Có hai hình thức:

<i><b>-</b></i> Nghiệp vụ bảo lãnh: Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng đứng ra cam kết bằng văn bản (gọi là thư bảo lãnh) rằng sẽ thực hiện một nghĩa vụ thay cho người được bảo lãnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

nếu người này không thực hiện được nghĩa vụ đó. Có nhiều hình thức bảo lãnh như bảo lãnh để tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh chất lượng sản phẩm theo hợp đồng, bảo lãnh hoàn trả vốn vay…

<i><b>-</b></i> Cho vay tiêu dùng: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Tín dụng tiêu dùng thường dưới hình thức cho vay để mua trả góp (tín dụng trả góp) hoặc cho vay qua việc phát hành thẻ tín dụng.

Nghiệp vụ cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản Có của ngân hàng (khoảng 70%).

<i><b>3.2.3. Nghiệp vụ đầu tư</b></i>

Là nghiệp vụ mà Ngân hàng thương mại dùng vốn của mình mua các chứng khốn (các chứng khốn chính phủ và một số chứng khốn cơng ty lớn – luật của Mỹ không cho phép ngân hàng được phép nắm giữ cổ phiếu) hoặc đầu tư theo dự án.

Ở Việt nam, Luật các Tổ chức tín dụng cịn cho phép các ngân hàng được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp hay của các tổ chức tín dụng khác.

<i><b>3.2.4. Những tài sản có khác</b></i>

Đó là những vốn hiện vật như trụ sở làm việc, máy móc, trang thiết bị dùng cho hoạt động do ngân hàng sở hữu.

<b>3.3.Nghiệp vụ trung gian</b>

<i><b> Nghiệp vụ trung gian là nghiệp vụ mà Ngân hàng thương mại thay mặt khách hàng thực</b></i>

hiện việc thanh toán hay các uỷ thác khác để thu lệ phí. Nghiệp vụ trung gian chủ yếu gồm:

<i><b>3.3.1. Nghiệp vụ chuyển tiền – Thanh toán hộ</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Là nghiệp vụ mà Ngân hàng nhận sự uỷ thác của khách hàng, dùng phương tiện mà khách hàng yêu cầu để chuyển một số tiền nhất định cho một người khác ở một địa điểm quy định trong hay ngoài nước. Về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ này được thực hiện thơng qua các phương tiện lưu thơng tín dụng như séc, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền v.v…

<i><b>3.3.2. Nghiệp vụ thu hộ</b></i>

Là nghiệp vụ mà Ngân hàng thương mại nhận sự uỷ thác của khách hàng để thu hộ các khoản tiền căn cứ vào các chứng từ của khách hàng giao như séc, thương phiếu, các chứng khốn.

Khi tiến hành nghiệp vụ này, ngồi việc thu thủ tục phí của khách hàng, ngân hàng cịn có thể tranh thủ sử dụng số tiền của khách hàng.

<i><b>3.3.3. Nghiệp vụ tín thác</b></i>

Là nghiệp vụ mà Ngân hàng thương mại nhận sự uỷ thác của khách hàng, đứng ra mua bán hộ khách hàng các loại chứng khoán, kim loại quý, ngoại hối hoặc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức hay cá nhân theo hợp đồng (ví dụ tài sản đang tranh chấp, tài sản thanh lý trong quá trình phá sản, tài sản của cô nhi, quả phụ v.v…).

<i><b>3.3.4. Nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp</b></i>

Là nghiệp vụ mà các ngân hàng thương mại thu chi hộ lẫn nhau trên cơ sở ngân hàng này mở một tài khoản vãng lai tại ngân hàng kia và việc thanh toán giữa hai ngân hàng được tiến hành theo định kỳ sau khi đã bù trừ những khoản tiền mà hai bên đã thu chi hộ cho nhau trong thời gian của định kỳ đó.

Trong nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp, các ngân hàng không thu thủ tục phí. Khi tiến hành thu chi hộ, nếu trên tài khoản vãng lai khơng cịn tiền thì ngân hàng này sẽ cung cấp tín dụng cho ngân hàng kia theo phương thức tín dụng cho vay vượt chi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<b>4. Chuyển đổi số</b>

<b>4.1.Chuyển đổi số là gì?</b>

Chuyển đổi số là: Quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.

<i>Sự khác nhau giữa Ứng dụng công nghệ thông tin và Chuyển đổi số</i>

Ứng dụng cơng nghệ thơng tin là tối ưu hóa quy trình đã có, theo mơ hình hoạt động đã có, để cung cấp dịch vụ đã có.

Chuyển đổi số là thay đổi quy trình mới, thay đổi mơ hình hoạt động mới, để cung cấp dịch vụ mới hoặc cung cấp dịch vụ đã có theo cách mới.

<i><b>4.2.</b></i> <b>Tại sao phải Chuyển đổi số?</b>

Chuyển đổi số không chỉ giúp tăng năng suất, giảm chi phí mà cịn mở ra khơng gian phát triển mới, tạo ra các giá trị mới ngoài các giá trị truyền thống vốn có.

<i><b>4.3.</b></i> <b>Chuyển đổi số là việc của ai?</b>

Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện, là cuộc cách mạng của toàn dân.

<b>4.4.Nên Chuyển đổi số khi nào?</b>

Chuyển đổi số là q trình khách quan, muốn hay khơng thì chuyển đổi số vẫn xảy ra và đang diễn ra. Cuộc sống không ngừng vận động, biến đổi. Mỗi người cũng cần khơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

ngừng thay đổi, thích nghi, nếu khơng sẽ bị bỏ lại ở phía sau. Do đó, có thể chuyển đổi số ngay lập tức bằng cách chuyển đổi về tư duy, nhận thức, sau đó dần chuyển đổi cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số.

<b>4.5.Chuyển đổi số như thế nào?</b>

Chuyển đổi số là một q trình đa dạng, khơng có con đường và hình mẫu chung cho tất cả, và do vậy, từng tổ chức, từng cá nhân cần xác định lộ trình riêng, thích hợp với mình. Chính quyền số: Là Chính quyền có tồn bộ hoạt động an tồn trên mơi trường số, có mơ hình hoạt động được thiết kế và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<b>I.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG </b>

<b>THƯƠNG MẠI TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN ĐỔI SỐ TẠI SINGAPORE</b>

<b>1. Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM Singapore</b>

<i><b>1.1.Tổng quan về hệ thống NHTM Singapore</b></i>

<i>a. Tổng quan</i>

Hệ thống ngân hàng thương mại của Singapore là một trong những hệ thống tài chính lớn nhất và phát triển nhất trên thế giới. Là một quốc gia có diện tích và quy mơ dân số nhỏ, tuy nhiên, Singapore đã từng bước vươn mình, trở thành một quốc gia phát triển hàng đầu ở khu vực và là một trong những trung tâm sản xuất và tài chính của thế giới.

Bảng xếp hạng chỉ số trung tâm tài chính tồn cầu

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

(Được cung cấp bởi Ngân hàng thế giới, Đơn vị Tình báo Kinh tế, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, Liên hợp quốc)

Singapore được xem là mảnh đất màu mỡ quy tụ nhiều ngân hàng tầm cỡ toàn cầu như DBS (The Development Bank of Singapore Limited), OCBC (Oversea-Chinese Banking Corporation) và UOB (United Overseas Bank) – Top 3 ngân hàng nổi bật nhất tại Singapore, luôn đứng đầu trong bảng xếp hạng các ngân hàng an toàn nhất thế giới, theo Tạp chí Tài chính Tồn cầu.

Ngồi việc là nơi tập trung của nhiều trụ sở chính thuộc những cơng ty đa quốc gia, Singapore cịn là cầu nối giữa những doanh nghiệp quốc tế với thị trường Châu Á, Thái Bình Dương. Hệ thống ngân hàng Singapore được chia làm hai loại chính: ngân hàng trong nước và ngân hàng quốc tế.

Hệ thống ngân hàng của Singapore được quản lý chặt chẽ bởi Cục Dự trữ Liên bang Singapore (Monetary Authority of Singapore - MAS) - cơ quan chịu trách nhiệm cho việc đảm bảo sự ổn định tài chính và giám sát các hoạt động của ngân hàng trong nước. MAS cũng là một trong những cơ quan quản lý tài chính tiên tiến nhất thế giới, nghiên cứu và đưa ra chính sách mới nhằm giữ cho hệ thống ngân hàng và tài chính của Singapore luôn phát triển và cạnh tranh.

<i>b.Các loại ngân hàng:</i>

<i>Ngân hàng nội địa: Các ngân hàng nội địa của Singapore bao gồm các tên tuổi lớn như</i>

DBS Bank, UOB và OCBC, ...

DBS là ngân hàng lớn nhất Đông Nam Á, có chi nhánh và văn phịng tại rất nhiều các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Hồng Kông, Ấn Độ, Nhật Bản, Indonesia, Myanmar, ... Ngân hàng này cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cá nhân và doanh nghiệp, bao gồm ngân hàng tiêu dùng, quản lý tài sản, kho bạc và thị trường vốn, dịch vụ môi giới, vốn chủ sở hữu và tài trợ nợ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

UOB là ngân hàng lớn thứ ba của Singapore. Ngân hàng này có 58 chi nhánh và 766 ATM ở Singapore, cũng như 467 chi nhánh và 1,668 ATM trên toàn cầu, bao gồm Úc, Hồng Kông, Brunei, Malaysia, Vương quốc Anh, Canada, …

OCBC Bank có tài sản hơn 491,6 tỷ đơ la Singapore (tương đương 365,5 tỷ đô la Mỹ), trở thành ngân hàng lớn thứ hai ở Đông Nam Á về tài sản. Đây cũng là một trong những ngân hàng được đánh giá cao nhất thế giới, với xếp hạng Aa1 (Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp - Chất lượng cao và rủi ro rất thấp về dài hạn, khả năng trả nợ ngắn hạn tốt nhất) từ Moody’s và xếp hạng AA - từ Standard & Poor’s (Tương ứng với hạng Aa2 của Moody’s). Các sản phẩm và dịch vụ của UOB và OCBC cũng tương tự như DBS.

<i>Ngân hàng quốc tế: Các ngân hàng quốc tế cũng có mặt tại Singapore, bao gồm các ngân</i>

hàng lớn như Citibank, HSBC (Hongkong and Shanghai Banking Corporation Limited) và Standard Chartered Bank…

Citibank đã có mặt tại Singapore từ năm 1902 và trở thành một trong những ngân hàng thương mại nước ngoài lớn nhất tại Singapore. Citibank cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ cho khách hàng tại Singapore, bao gồm các sản phẩm tài khoản tiết kiệm, tài khoản thanh tốn, thẻ tín dụng, vay tiêu dùng và vay doanh nghiệp, bảo hiểm và các sản phẩm đầu tư.

HSBC định hướng các dịch vụ giúp khách hàng có thể đẩy nhanh q trình mở tài khoản của họ, như mở tài khoản trước, dịch vụ tái định cư hay dịch vụ chuyển tiền ra nước ngoài với lãi suất ưu đãi.

Standard Chartered cũng tương tự các ngân hàng trước, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính đa dạng cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp, bao gồm các khoản vay, tiết kiệm, thẻ tín dụng, thanh tốn quốc tế và các giải pháp tài chính doanh nghiệp. Standard Chartered Bank Singapore đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ và hỗ trợ cho các doanh nghiệp và dự án phát triển tại Singapore và khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

</div>

×