Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Kỷ yếu toạ đàm khoa học cấp Khoa: Góp ý sửa đổi Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.52 MB, 55 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

KHOA PHÁP LUAT HANH CHÍNH - NHÀ NƯỚC

KY YEU TOA ĐÀM KHOA HỌC

<small>Hà Nội, ngày 20 thang 09 năm 2022</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

MỤC LỤC CÁC BÀI VIẾT TỌA ĐÀM

“Gop ý sửa đổi Luật phịng, chống bao lực gia đình 2007”

<small>Hà Noi, ngày 20 thang 9 năm 2022</small>

<small>Nhận diện hành vi bao lực gia đình</small>

<small>Theo dự thảo luật phịng, chơng bạo</small>

<small>bạo lực gia đình năm 2007 và kiênnghị sửa đơi, bơ sung</small>

<small>TS. Tạ Quang Ngọc,</small>

<small>BM Luật Hành chính, KhoaPL Hành chính- Nhà nước</small>

Tăng cường hài hịa với các chn

<small>mực qc tê trong dự thảo Luật</small>

<small>phịng chơng bạo lực gia đình sửa</small>

<small>Phạm Thị Lan, UN Women21</small>

Da dạng hóa chế tài hành chính đối <small>với hành vi bạo lực gia đình</small>

Ths.Nguyễn Thu Trang, BM

<small>Luật Hành chính, Khoa PLHành chính- Nhà nước</small>

Bàn về tính khả thi của các biện

<small>pháp ngăn chặn, bảo vệ, hô trợngười bị bạo lực gia đình</small>

<small>TS. Phan Thi Lan Hương.Phịng Hợp tác Qc tê -Trường ĐH Luật Hà Nội</small>

Góp ý hồn thiện quy định về tơ cáo

<small>trong dự thảo Luật phịng, chơng</small>

<small>bạo lực gia đình sửa đơi</small>

<small>ThS. Hồng Thị Lan PhươngBM Luật Hành chính, KhoaPL Hành chính- Nhà nước</small>

<small>48</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

NHAN DIEN HANH VI BAO LUC GIA DINH

THEO DU THAO LUAT PHONG, CHONG BAO LUC GIA DINH

TS. Nguyén Ngoc Bich

<small>Bộ mơn Luật Hành chính</small>

Tóm tắt: Bạo lực gia đình là hiện tượng gây sự chú ý lớn của dư luận xã hội.

mặc dù đã có nhiều biện pháp ngăn chặn, nhiều vụ việc người vi phạm bị xử lý

nghiêm nhưng bạo lực gia đình vẫn diễn với nhiều vụ việc gây hậu quả nghiêm trọng cho nạn nhân. Bài viết nêu van dé về nhận diện hành vi bạo lực gia đình và

sự đáp ứng của Dự thảo Luật phịng, chống bạo lực gia đình nhằm nhận điện hành vi bạo lực sớm dé ngăn chặn bạo lực gia đình.

<small>Từ khóa: hành vi bạo lực gia đình, nhận diện hành vi bạo lực gia đình</small> 1. Quy định về bạo lực gia đình

Luật Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2007 (gọi tắt Luật 2007) quy định:

“Bao lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tốn hại hoặc có khả năng gây ton hại về thé chat, tinh than, kinh tế đối với thành viên khác trong gia

<small>đình.” Luật cũng chỉ rõ 9 nhóm hành vi gây bạo lực gia đình. Cách quy định của</small>

Luật là có định nhgiax khái quát về bạo lực gia đình đồng thời với việc xác định rõ hành vi bạo lực. Luật xác định các hành vi bao lực gia đình có thể gây tơn hại về

thể chất, tinh thần, kinh tế cho nạn nhân, nhưng thực tế cho thấy các hành vi bao

lực có thé cùng lúc gây tốn hại về thé chat và tinh than hoặc thé chất và kinh tế hoặc

tinh thần và kinh tế hoặc có những vụ việc nạn nhận bị ton hại cả thé chất, tinh than,

kinh tế. Có nhiều vu việc nan nhân bạo lực gia đình bi tổn thương tinh thần nặng

né, kéo dài, khó phát triển bình thường thê chat, tinh thần. Chính vì vậy, việc nhận

diện bạo lực gia đình từ sớm dé ngăn chan cũng như đấu tranh, xử lý rất quan trọng. Dự thảo (gọi tắt là Dự thảo) Luật Phòng, chống bạo lực gia đình! định nghĩa về bao lực gia đình về cơ bản giống với Luật 2007 nhưng đã bổ sung một nhóm các

hành vi bạo lực đang trở nên phổ biến là cưỡng bức tình duc. Cu thé Dự thảo quy <small>! Dự thảo trình Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ngày 7-8/9/2022</small>

<small>Có thê xem tại địa chỉ: class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

định “Bao luc gia đình là hành vi cơ ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gáy ton hai về thé chất, tinh than, tinh duc, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. ” Luật xác định rõ Hành vi bạo lực gia đình bao gồm:

a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, de dọa hoặc hành vi cổ ý khác xám hại đến sức khỏe, tính mạng;

b) Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cơ ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; c) Cưỡng ép chứng kiến cảnh bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp

lực thường xuyên về tâm ly;

<small>d) Bo mac, khơng quan tám, ni dưỡng, chăm sóc, giáo đục thành viên gia</small>

đình là trẻ em, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ, người cao tuổi, người khuyết <small>tật, người bị bệnh khơng có khả năng tự chăm sóc;</small>

d) Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới tinh, năng lực của thành viên gia <small>đình;</small>

<small>e) Ngăn cản thành viên gia đình ra khỏi nha, gặp gỡ người than, có quan hệ</small>

xã hội hợp pháp, lành mạnh hoặc các hành vi khác nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm by;

ø) Ngăn cản việc thực hiện quyên, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chong; giữa anh, chị, em với nhau;

h) T iét lộ hoặc phat tan tu liệu, tài liệu thuộc bi mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

i) Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình duc trải ý muon của vợ hoặc chong;

k) Cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung, trình diễn hành vi

<small>khiêu dâm, kích thích bạo lực;</small>

1) Cưỡng ép tảo hơn, kết hơn, ly hôn hoặc cản trở kết hôn, ly hôn hợp pháp;

<small>m) Cưỡng ép mang thai, pha thai, lựa chọn giới tính thai nhỉ;</small>

n) Chiếm đoạt, huỷ hoại tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình

<small>hoặc tài sản chung của gia đình;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>o) Cưỡng ép thành viên gia đình hoc tập, lao động q sức, đóng gop tài</small> chính q khả năng của họ; kiểm sốt thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;

p) Cơ lập, giam câm hoặc cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp

<small>pháp trai pháp luật.</small>

Theo quy định của Dự thảo thì các hành vi bạo lực gia đình là hành vi cô ý. Nghĩa là người thực hiện hành vi biết hành vi của mình là trái với pháp luật, đạo

đức xã hội nhưng vẫn thực hiện, mong muốn hậu quả xảy ra hoặc không mong

<small>muôn hậu quả xảy ra nhưng vân thực hiện hành vi.</small>

Bạo lực gia đình là hành vi tác động đến nạn nhân và gây ra hậu quả cho nạn nhân là những tôn hại hoặc có khả năng gây tốn hại cho nạn nhân.

<small>Các hành vi bao lực gia đình được chia thành nhóm:</small>

+ Các hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây tôn hại về thé chat: đây là

những hành vi tac động bằng bạo lực gây ra tổn thương thân thé (thực thể) cho nạn

<small>nhân bạo lực gia đình.</small>

+ Các hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây t6n hại về tinh than: đây là những hành vi tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến nhận thức, tình cảm, thái d6,... gây ra ton thương về tinh thần cho nạn nhân bạo lực gia đình.

<small>+ Các hành vi bạo lực tình dục: là các hành vi cưỡng ép tình dục hoặc các</small>

hành vi khác liên quan đến tinh duc gây tơn hại hoặc có kha năng gây ton hại cho cả thể chất và tinh thần cho nạn nhận.

+ Các hành vi gây ton hại hoặc có khả năng gây tốn hại về kinh tế: là những hành vi tác động trực tiếp hoặc gián tiếp có ảnh hưởng đến các họat động kinh tế,

đến thu nhập, việc làm của nạn nhân bao lực gia đình.

Ngồi ra, bạo lực gia đình có thé là các hành vi gây tổn hại hoặc de dọa gây ton hại kết hợp cho nạn nhân.

Mặc dù, Dự thảo đã quy định trực tiếp nhóm hành vi cưỡng bức tình dục tuy nhiên cách quy định liệt kê các hành vi vi phạm có thể liệt kê khơng hết các hành

vi bạo lực hoặc liệt kê thừa. > Tổn hại về tinh thần khó xác định, nếu người làm

cơng tác phịng, chỗng ko muốn hoặc khơng vững có thê bỏ qua không xử lý. 2. Tại sao cần nhận diện hành vi bạo lực gia đình

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Hành vi bạo lực gia đình đã được pháp luật quy định nhưng trên thực tế việc nhận diện không dé dàng. Nếu hành vi đã biêu hiện rõ ràng theo quy định của pháp luật thì rất có thể bạo lực gia đình đã ở mức nghiêm trọng. Việc nhận diện bạo lực

<small>gia đình có những mục đích sau:</small>

+ Nhận diện sớm hành vi bạo lực gia đình để phịng ngừa có hiệu quả. Phịng ngừa bao lực gia đình là biện pháp phịng, chéng bạo lực hiệu quả nhất. Vì néu bạo lực gia đình đã xảy ra sẽ dé lại ảnh hưởng tiêu cực đến nạn nhân và đa phần các ảnh hưởng này đều lâu dài, khó xóa bỏ thậm chí có thể gây ra những

lệch lạc trong phát triển nhân cách đối với trẻ em. Các hành vi bạo lực gia đình cịn làm thay đổi các giá trị của gia đình hay tac động tiêu cực tới các quan hệ gia đình

ngay cả khi hành vi bạo lực đã bị trừng phạt hoặc đã bị cham dứt. Có thé nói bao lực gia đình dé lại những “vết sẹo” khó lành đối với các thành viên trong gia đình.

Mặc dù có thé dé lại hậu qua rất xấu và kéo dài nhưng việc nhận biết hành vi bạo lực gia đình lại khó khăn, nhất là nhận biết sớm để phòng ngừa. Trên thực té, nhiều trường hợp hành vi rõ ràng, dé lại hậu qua xấu, thậm chi nghiêm trọng đối

<small>với nạn nhân mới được nhận thức là hành vi bạo lực gia đình. Mặc dù trước đó</small>

người có hành vi đã thực hiện nhiều hành vi hoặc nhiều lần thực hiện hành vi gây

tác động tiêu cực đến nạn nhân nhưng không được ngăn chặn kịp thời.

<small>+ Nhận diện chính xác hành vi bạo lực gia đình dé xử lý.</small>

Nhận diện đúng tính chất, mức độ của hành vi bạo lực gia đình cho phép các

biện pháp can thiệp chính xác. Nếu xử lý trách nhiệm của người có hành vi bạo lực

thì việc xử lý khách quan, đúng với tính chất, mức độ vi phạm.

Luật Phịng, chống bạo lực gia đình 2007 (Luật) và Dự thảo Luật Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2022 (Dự thảo) có liệt kê các hành vi bạo lực gia đình

<small>nhưng khơng phải cứ thực hiện hành vi bị liệt kê lập tức được coi là hành vi bao</small>

lực gia đình. Nếu nhận thức “quá sớm” về hành vi bạo lực sẽ dẫn đến việc can thiệp khơng cần thiết, thậm chí có thé cản trở việc quản lý, giáo dục của các thành viên

<small>trong gia đình với nhau. Vi dụ, khi cha, mẹ không cho con di ra ngoài chơi với bạn</small>

nhiều lần nếu vội vàng nhận thức là bạo lực sẽ gây trở ngại với cha mẹ trong quản

ly con. Việc nhận thức “quá sớm” hành vi bạo lực cũng có thé bị thành viên trong gia đình lợi dụng dé ngăn can thành viên khác thực hiện việc quan lý, giáo dục. Vi

<small>dụ, trẻ em lợi dụng việc tơ cáo bạo lực gia đình đê ngăn cản bô mẹ quản lý, giáo</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

dục hoặc phạt khi mắc lỗi. Khi xử lý vụ việc bạo lực gia đình, việc nhận thức chính xác có ý nghĩa quyết định.

+ Nhận diện bạo lực gia đình dé mỗi thành viên trong gia đình tự điều chỉnh hành vi của mình một cách thích hợp nhất. Néu không nhận thức đúng dan về bạo lực gia đình, các thành viên trong gia đình có thé biến việc quan tâm (thái quá)

thành bạo lực, biến việc nhắc nhở nhau tiễn bộ thành bạo lực,... Đối với những nhóm người dé ton thương thì các thành viên trong gia định cần nhận diện bạo lực

dé điều chỉnh hành vi thích hợp như người già, trẻ em, người khuyết tật, hay những

người yêu thế khác trong gia đình.

3. Nhận diện hành vi bạo lực gia đình như thế nào

* Ai cần nhận diện hành vi bạo lực gia đình

Trong quy định của Luật Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2007 và Dự thảo hiện nay, các chủ thể có liên quan đến phịng, chống bạo lực gia đình gồm có

<small>nạn nhân bị bạo lực; người có hành vi bạo lực; các thành viên trong gia đình; các</small>

cơ quan nhà nước như cơng an, biên phịng, UBND; các tơ chức, đồn thê ở địa

phương như tơ dân phó, hội phụ nữ, tổ hòa giải, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,... Với cách quy định như hiện nay, thì rõ ràng bạo lực gia đình đã xảy ra rồi, việc nhận

diện chủ yếu dé giải quyết hậu quả của bạo lực, dé chống bạo lực và có thể ngăn ngừa các lần tiếp theo mà chưa thể phòng ngừa bạo lực diễn ra trong gia đình.

Dé phịng ngừa bạo lực gia đình, mỗi cá nhân cần nhận biết và ý thức về các hành vi có thé gây bạo lực gia đình. Với người có thé là nạn nhân, việc nhận biết

sớm mình có thể trở thành nạn nhân thúc đây cá nhân đó tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác, có hoạt động nhằm ngăn chặn những hành vi có thể gây bạo lực cho

minh, có trao đối, bàn luận về van dé mà qua đó có thé làm nảy sinh hành vi gây ra <small>bạo lực của người khác đơi với mình.</small>

Đối với những người có khả năng gây bạo lực cho người khác việc nhận thức

hành vi của mình có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến thành viên trong gia đình giúp họ có sự lựa chọn cách giải quyết phù hợp với tỉnh huống phát sinh, tránh thực hiện

hành vi có thê gây ra bạo lực cho người khác.

Những thành viên khác trong gia đình, các tổ chức, đồn thé, các cơ quan

<small>nhà nước cân nhận biét sớm khả năng có hành vi bạo lực đê kip thời ngăn chan, có</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hành vi tư vẫn phù hợp, hay có trợ giúp phù hợp cho nạn nhân. Nếu có những biện

<small>pháp phịng ngừa kip thời thì kha năng</small>

* Nhận điện hành vi bạo lực gia đình với các hành vi trong cuộc sống thưởng ngày

Việc nhận diện hành vi bạo lực gia đình là rất cần thiết vì nếu khơng nhận

diện được thì khơng thể có những biện pháp phù hợp nhăm phịng, tránh bạo lực

gia đình. Tuy nhiện việc nhận diện hành vi bao lực gia đình rất khó khăn vì:

- Hành vi bạo lực gia đình có thê bị nhằm lẫn với các hành vi của thành viên

trong gia đình với nhau. Các thành viên trong gia đình ở Việt Nam thường sống quây quan trong cùng một nơi cư trú hoặc sống xa nhau những van có những liên

lạc thường xuyên và mỗi thành viên có thói quen quan tâm đến đời sống, sinh hoạt,

việc làm, học tập,... của nhau. Chính vì vậy, nhiều khi nhưng lời khun, lời góp

ý, răn dạy, ... rất dễ trở thành gánh nặng với người được tiếp nhận. Trong trường

hợp này, người có hành vi tác động bat lợi đến người khác mà khơng cho rang day là hành vi có thé được coi là bạo lực.

- Quan niệm của người Việt Nam “yêu là cho roi cho vot’ nên nhiều bậc cha,

mẹ thường cho rằng phải dạy con bằng roi vot, hay uốn nan nếu thấy con có biểu hiện hư, có hành vi chưa ngoan mà khơng biết rằng hành vi của minh có thé ảnh

hưởng đến tâm sinh lý, sự phát triển bình thường về thê chất và tinh thần của con cái. Trong quan hệ vợ - chồng, quan niệm “day vợ tir thuở bơ vơ mới ve” cũng dé

làm khiến người chồng cho rang cần phải giáo duc, dạy dỗ vợ dé giữ gia phong nếu

<small>vợ có những hành vi chưa đúng.</small>

- Sự quan tâm thái quá của các thành viên trong gia đình về việc học tập, việc

làm, thu nhập của các thành viên hay quan niệm vợ quản tiền của chồng, của gia đình, cha mẹ “giữ hộ” tiền cho con cái cũng ảnh hưởng rất lớn đến các nạn nhân.

- Cùng một lời nói nhưng cách thức thái độ của người nói có thé gây tổn hai cho người tiếp nhận là khác nhau nên cần biết để ngăn chặn. Cùng một nội dung, cách thức thé hiện nhưng sự tiếp nhận của mỗi người là khác nhau, với những người

có tâm lý yếu, lời nói, thái độ của người khác có thé gây ton hại lớn đến người tiếp

nhận và có thé bị coi là hành vi bạo lực nếu dé lại ảnh hưởng xấu đến nạn nhân. 4. Một số kiến nghị

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Thứ nhất, Dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã dự liệu các nhóm hành vi bạo lực gia đình tuy nhiên so sánh với thực tế các nhóm hành vi này cịn thiếu và cách quy định liệt kê có thể sẽ khơng theo kịp sự phát triển của xã hội. Ví

dụ, những hành vi bạo lực với trẻ em hiện nay đang diễn ra nhiều ở Việt Nam đó là

can trở trẻ em được bay tỏ mong muốn, các cháu bị bắt ăn, bắt học, bắt mặc trang phục mà các cháu không mong muốn. Những hành vi bạo lực với phụ nữ cũng

tương đôi pho biến là bắt phải hầu hạ, chăm sóc chồng, con, cha mẹ trong khi họ

khơng mong muốn. Một tỉ lệ lớn người thuộc cộng đồng LGBT đã chia sẻ về việc

<small>cha mẹ ngăn cản họ được sông với bản tính giới của mình.</small>

Vì vậy, bên cạnh những nhóm hành vi đã liệt kê, Dự thao cần có quy định mở dé xác định thêm những hành vi bao lực khác trên thực tế.

Thư hai, Dự thảo cần bổ sung thêm các quy định có tính chất phịng ngừa <small>bạo luc gia đình.</small>

- Xác định trách nhiệm nhận diện hành vi bao lực gia đình với tất cả các cá nhân, co quan, tổ chức; với những gia đình có đối tượng dé bị ton thương: người

già, trẻ em, người khuyết tật, người li hôn,... các thành viên cần ý thức về hành vi

<small>bạo lực gia đình</small>

<small>- Xác định vai trò của trường học trong việc nhận diện trẻ em là nạn nhân</small>

<small>của bạo luc và trong việc trợ giúp trẻ em là nạn nhân cua bạo lực gia đình.</small>

- Xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc nhận biết bạo lực dé xử lý khi có vi phạm xảy ra. Cần quy định, các co quan nhà nước như công an, UBND, các cơ quan khác khi nhận được thông báo hoặc khi có tơ cáo về hành vi bạo lực cần can thiệp để làm rõ ngay, xác định bạo lực hoặc nguy cơ bạo lực không được chỉ dừng lại ở dặn dò, khuyên nhủ qua loa dé hành vi bạo lực tiếp tục <small>diễn ra cho đên khi có hậu quả xâu mới bị ngăn chặn, can thiệp.</small>

Thứ ba, Dự thảo cần có quy định nội dung giáo dục về bạo lực gia đình khi

nam — nữ kết hơn. Luật Hơn nhân va gia đình cần quy định về việc trước khi kết hôn nam, nữ phải được tham gia nội dung giáo dục bắt buộc trong đó có giáo dục

về phịng, chống bạo lực gia đình.

Dự thảo cần bồ sung thêm quy định trong Chương trình dao tạo giáo viên có

nội dung nhận thức về bạo lực gia đình, nội dung này không chỉ giúp giáo viên phát

hiện bạo lực mà cịn giúp họ khơng khuyến khích thêm các hành vi bạo lực. Thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>tê hiện nay, nhiêu trẻ em bị đánh, bị măng có nguyên nhân từ sự phản ánh của giáoviên vê kêt quả học tập, vê việc thực hành kỷ luật của trẻ em tại trường học (hànhvi bạo lực của cha mẹ với con có nguyên nhân từ giáo viên).</small>

Thực hiện khóa học về phịng chống bạo lực gia đình đối với cơng an, cơng

chức UBND, bộ đội,... để họ có nhận thức đúng về bạo lực gia đình làm căn cứ khi

<small>phát hiện và xử lý vi phạm.</small>

Kết luận: Bạo lực gia đình là hiện tượng xã hội gây ra nhiều hệ quả xấu cần

<small>được ngăn chặn từ sớm. Việc nhận diện sớm hành vi bạo lực hoặc nguy cơ bao lực</small>

cần được dự liệu và quy định thích hợp trong các văn bản pháp luật.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bình Nhi, Nhiều phụ nữ bị mac ket trong hôn nhân

4. Luat Phong, chéng bao lực gia đình năm 2007

5. Du thao Luat Phong, chéng bao luc gia dinh (du thao 5)

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

MOT SO GĨP Y VE LUAT PHỊNG, CHONG BAO LUC GIA ĐÌNH NAM 2007 VA KIEN NGHI SUA DOI, BO SUNG

<small>TS. Ta Quang NgocBộ mơn Luật hành chính</small>

1. Đặt vẫn đề

Phịng, chống bạo lực gia đình là một trong những van dé quan trong luôn

được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Điều đó được thê hiện trong Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/02/2005 của Đảng: Về xây dựng gia đình trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chỉ thị chỉ rỡ: “lăng cường lãnh đạo, chỉ đạo

<small>cơng tác gia đình, coi đây là nhiệm vụ thường xun, chủ động rà sốt, đánh giatình hình gia đình tại địa phương, ... Xóa bỏ các hủ tục lạc hậu trong hơn nhân gia</small>

đình, kiên quyết dau tranh chống lỗi thực dụng, vị kỷ, đồi truy, có kế hoạch và biện

pháp cụ thé phòng, chống tệ nạn xã hội và bạo hành gia đình” và “Nâng cao nhận thức, vai trị , vi trí và trách nhiệm của gia đình, cộng đồng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về hơn nhân và gia đình, bình đăng giới, tăng cường phòng

<small>ngừa, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình, tang cường phịng,</small>

chống bạo lực gia đình...”. Những quan điểm chỉ đạo mang tính định hướng chính trị của Dang đã được Nhà nước ta kịp thời thé chế hóa vào hệ thống pháp luật về Phịng, chống bạo lực gia đình cũng như những quy định pháp luật khác có liên quan nhằm bảo vệ quyền con người, tạo sự bình đẳng và bảo đảm an ninh con người; góp phan xây dựng gia đình hịa thuận, giữ vững 6n định an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thúc day xã hội phát triển bền vững. Nhat là trong thời gian gần đây,

bạo lực trong gia đình tiếp tục là van đề nhức nhối trong xã hội, đặc biệt dịch bệnh Covid-19 càng khiến cho tinh trang bạo lực với phụ nữ và trẻ em có xu hướng gia

tăng về tần suất và mức độ. Những hành vi này không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng đối với người bị bạo lực mà còn ảnh hưởng đến cộng đồng và xã hội, làm phá hoại các giá trị đạo đức trong gia đình và xã hội. Phịng, chống bạo lực gia đình khơng

phải là việc của một cá nhân hay một tô chức độc lập mà là công việc chung, cần

có sự kết hợp đồng bộ, sự phối hợp của các cơ quan hữu quan và cả hệ thống chính trị, cả xã hội vào cuộc mới mang lại hiệu quả thiết thực nhằm xây dựng xã hội văn minh tiến bộ, gia đình hạnh phúc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Luật Phịng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thơng qua ngày

21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008 thể hiện sự cụ thé hóa kip thời những nguyên tắc hiến định, tiếp tục phát triển, hoàn thiện cơ sở pháp lý quan trọng. Trên cơ sở các quy định củ Luật Phòng, chống bạo lực gia đình về đốitượng, phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc và trách nhiệm của các cơ quan, tô chức, cá nhân... trong thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đã được quy định cu thé, chi

tiết trong các văn bản dưới luật. Trong đó, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều

văn bản như Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 của Chính phủ Quy định chỉ tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Phịng, chống bạo lực gia

đình; Nghị định số 1 10/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phịng, chống bạo lực gia đình; Ngày 12 tháng 11 năm 2013, Chính phủ ban hành nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính, phịng chống bạo lực gia đình. và Nghị quyết số

81/NQ-CP ngày 04/12/2012 của Chính phủ Ban hành kế hoạch hành động của chính phủ thực hiện thông báo kết luận số 26-TB/TW ngày 09 tháng 5 năm 2011 của ban bí thư về việc sơ kết chỉ thị số 49-ct/tw ngày 21 tháng 02 năm 2005 của ban bí thư (khóa IX) về “xây dựng gia đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”... nhăm tạo ra hệ thống các quy phạm pháp luật cụ thé, đồng bộ, thông nhất; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quá trình riên khai, thi hành với các nội dung, chương trình, kế hoạch về phịng chống bạo lực gia đình; Hướng dẫn thực

hiện hoạt động hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; Thực hiện hợp tác quốc tế về

phịng chống bạo lực gia đình; Hướng dẫn cơng tác tổng hợp, phân tích về phịng,

chống bạo lực gia đình; Phối hợp liên ngành trong phịng chống bạo lực gia đình; ... Chính vi vậy, ké từ ngày Luật Phịng, chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi

hành, đến nay chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng, thê hiện tính nhân văn, tiễn bộ của chế độ xã hội trong việc bảo vệ những giá tri cao cả của con người; bảo đảm dé mọi người, mỗi gia đình đều được sống trong môi trường an ninh, an

2. Một vài nhận xét về hạn chế, bất cập của Luật Phòng, chống bạo lực

<small>gia đình nưm 2007</small>

Thứ nhất, về khái niệm: Theo quy định của Luật Phịng, chống bao lực gia đình năm 2007, chưa được làm rõ được một số khái niệm nên trong q trình thi hành vẫn cịn có những cách hiểu chưa chính xác, thiếu thống nhất về bạo lực gia đình nói chung và các hành vi bạo lực gia đình nói riêng. Chắng hạn, Luật Phịng,

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định: “/a hành vi cố ý của thành viên gia đình

gây ton hại hoặc có khả năng gây ton hại về thé chất, tinh than, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”. Định nghĩa này, chưa xắc định rõ vấn đề bạo lực tình dục. Mặc dù, hành vi bạo lực tình dục đã diễn ra khá nhiều trong đời sống xã

hội. Chính vì vậy, hành vi bạo lực tình dục được khá nhiều quốc gia trên thế giới

xác định rõ về trường hợp, căn cứ xác định về bạo lực tình dục và hành vi này được

quy định là một trong các hình thức (các loại) của bạo lực gia đình. Đồng thời, Luật

hiện hành cũng quy định day đủ đối với một số hành vi: bạo luc trên cơ sở giới, cam tiếp xúc, phát tan thông tin đời tư về người bị bạo lực gia đình.

Đối với 9 nhóm hành vi bạo lực gia đình được Luật Phịng chống bạo lực gia

đình quy định tại Khoản 1, Điều 2, song chưa đề cập đến những hành vi như: “Có

<small>thu nhập ma khơng đóng góp tài chính hoặc ép thành viên gia đình đóng gop tai</small> chính qua khả năng của họ; Kiểm sốt tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; Phân biệt giới tính, định kiến giới và các đặc trưng cá nhân của thành viên gia đình liên quan đến giới; Cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc các nội dụng, trình diễn hành vi khiêu dâm, kích <small>”2. Đây là những hành vi đã phat sinh trong đời</small>

<small>thích bạo lực va vi phạm pháp luật</small>

sông xã hội và gây ra những hậu quả nghiêm trọng cần cjphaps luật về phịng, chống bạo lực gia đình điều chỉnh kịp thời.

Thứ hai, về nguyên tắc: Ludt Phòng, chong bạo lực gia đình năm 2007 cịn quy định chung chung, chưa có những quy định cụ thể đối với các nguyên tắc. nội dung chưa đây đủ, doi tượng, hình thức thơng tin, tun truyền về phịng chống bạo lực gia đình chưa phù hợp, hiệu quả. Điễu đó được thể hiện ở những quy định như: Hiện nay, tại Điều 9, 10 và 11 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình mới chỉ quy định mục đích, u cầu, nội dung và hình thức thơng tin, tun truyền về Phịng, chống bạo lực gia đình... mà chưa có quy định về nguyên tắc đối với những nội dung này. Do đó, một số phương tiện truyền thơng khi đưa tin về bạo lực gia đình đã vi phạm quyên riêng tư, bí mật của các chủ thé trong quan hệ pháp luật về phịng, chống bạo lực gia đình (gồm cả người bị bạo lực và người gây bạo lực gia đình).

<small>Chính vì vậy, q trình thi hành Luật gặp khơng ít khó khăn từ sự hợp tác của các</small>

chủ thể, hiệu quả đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình cịn thấp, chưa đáp ứng

<small>u câu, nhiệm vụ đặt ra.</small>

<small>2 Xem Khoản 1, Điều 2 Luật Phòng, chống bao lực gia đình năm 2007</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Thứ ba, đối với các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực gia

Tại điểm a Khoản 1 Điều 21 Luật Phịng, chống bạo lực gia đình quy định điều

kiện dé áp dụng biện pháp cam tiếp xúc là: “ phải có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ quan, tổ chức

có thâm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thâm quyền có đơn u cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình”.Những quy định như vậy thé hiện sự

khơng phù hợp với thực tiễn, cịn nhiều thủ tục rườm rà, gây khó khăn, trở ngại,

thậm chí là phức tạp trong quá trình áp dụng cam tiếp xúc đối với người vi phạm cũng như bảo vệ người bị bạo lực gia đình. Bởi vì thực tế, khi có hành vi bạo lực

gia đình xây ra, người bị bạo lực sẽ phải đến trình báo về vụ việc bạo lực gia đình

đó với chính quyền địa phương. Song không phải trường hợp nào nạn nhân cũng dễ dàng đi khai báo, gửi đơn yêu cầu vì những trở ngại, e ngại về tâm lý, phong tục tập qn, danh dự...và cũng có thể họ bị chính người vi phạm hoặc gia đình, người than tác động, ngăn cản, thậm chí đe dọa khi họ đi khai báo, yêu cầu chính quyền địa phương xử lý hành vi bạo lực gia đình nên nhiều trường hợp đã phải cam chịu,

im lặng và tiếp tục bị người vi phạm xâm phạm, gây tôn hại đến tinh than, sức khỏe,

<small>danh dự, uy tín của nạn nhân.</small>

Thứ tư, về hoạt động của các cơ sở trợ giúp nạn nhân bị bạo lực gia đình: tại Khoản 6 Điều 8 quy định cam “Lợi dụng hoạt động phòng chống bạo lực gia đình đề trục lợi hoặc thực hiện hoạt động trái pháp luật”. Khoản 1 và khoản 2 Điều 6 quy định “1. Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho cơng tác phịng chống bạo

lực gia đình. 2. Khuyến khích cơ quan, tơ chức, cá nhân tham gia, tài trợ cho hoạt

động phịng chống bạo lực gia đình; phát triển các mơ hình phịng ngừa bạo lực gia đình và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.” Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn hoạt động trợ giúp nạn nhân của các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình

theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Luật phịng chống bạo lực gia đình và được quy định tại chương 5 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2009 trong đó, điểm đáng chú ý là dé thành lập cơ sở nói trên thì phải đáp ứng điều kiện như có diện tích tối thiểu 30m2, có các cơ sở vật chất tối thiêu, nhân viên phải có chứng nhận về phịng chống bạo lực gia đình.

<small>Những quy định trên là nguyên nhân chính của việc các cơ sở trợ giúp nạnnhân bạo lực gia đình chưa phát huy được hiệu quả hoặc khơng được thành lập vì</small>

vướng mắc từ những quy định của Luật Phịng, chống bạo lực gia đình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Thứ năm, về trách nhiệm: Từ Diéu31 đến Điều 41 Luật quy định trách

nhiệm của cá nhân, gia đình và tổ chức nhưng khơng gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tô chức trong thực thi nhiệm vụ phịng, chống bạo lực gia đình.

Từ đó dẫn đến tình trạng thực thi pháp luật mang yếu tố cảm tính — phụ thuộc vào

sự quan tâm của người đứng đầu.Tại khoản 5 Điều 35 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.quy định “Hăng năm, trong báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã trước Hội đồng nhân dân cùng cấp về tình hình kinh tế — xã hội phải có nội dung về tình hình

và kết quả Phịng, chống bạo lực gia đình. tại địa phương”. Nên chăng, Luật cần

quy định rõ trách nhiệm và biện pháp xử lý đối với người đứng đầu trong phòng chống bạo lực gia đình; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong triển khai nhiệm vụ phòng chống bạo lực gia đình.

Thứ sáu, về một số Điều khoản khác chưa hợp lý: Điều 17 của Luật quy

định về biện pháp góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư được áp dụng đối với

trường hợp có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hịa giải ở cơ sở hồ giải mà tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Quy định này chưa thống nhất với Điều 12 và Điều

42. Với những quy định thiếu tính thống nhất, thé hiện những hạn chế nhất định

của Luật Phịng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực của Luật cũng như kết quả thi hành trong thời gian qua.

3. Một số góp ý, kiến nghị khi sửa déi, bd sung Luật Phịng, chống bao

<small>lực gia đình</small>

Sau gan 15 nam thi hanh Luat Phong, chéng bạo luc gia đình, bên cạnh những

kết quả đáng khích lệ đã đạt được; Luật cũng bộc lộ những hạn chế, tồn tại nhất

định. Những hạn chế, bất cập này xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và

khách quan; nhất là trong thời gian khá dài, khi xây dựng, ban hành Luật ở thời điểm điều kiện kinh tế - xã hội khi chúng ta bắt đầu hội nhập quốc tế (gia nhập Tổ

chức thương mại quốc tế - WTO), tiếp tục thúc đây phát triển kinh tế thị trường.

Đến nay, nhiều thê chế pháp luật tiếp tục được hoàn thiện; đặc biệt, chúng ta đã sửa đổi Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính

quyền địa phương năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015... nên việc rà sốt, sửa đơi, bỗ sung Luật Phịng chống bạo lực gia đình năm 2007 là rất cần thiết. Đề tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, có hiệu lực, hiệu quả cao; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì cần tiếp tục chú trọng đến những vấn đề sau đây:

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>Một là, về khái niệm cân cân nhắc khi sửa doi, bô sung, tiếp tục làm rõ các</small>

<small>khải niệm. Cụ thê là: Điêu 3 Luật Phịng, chơng bạo lực gia đình có thê sửa đơi như</small>

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này các từ ngữ sau đây được hiểu như sau:

1. Bao lực gia đình là hành vi cố ý gây tốn hại hoặc có kha năng gây ton hại về thé chất, tinh thần, kinh tế, tinh duc đỗi với thành viên khác trong gia đình.

2. Bao lực gia đình trên cơ sở giới là hành vi cô ý gây tốn hại hoặc có khả năng gây ton hại về thé chất, tinh than, kinh tế, tinh duc dựa trên định kiến về giới. 3. Người có nguy cơ cao gây bạo lực gia đình là người có một trong các biểu hiện, hồn cảnh song sau:

<small>a) Đã từng có hành vi bao lực gia đình;</small> b) Có định kiến giới;

c) Nghiện rượu, bia, ma tuy và các chất gây nghiện khác; d) Nghiện cờ bạc, game bao lực, văn hố phẩm đơi truy;

d) Sống trong mơi trường thường xun có bạo lực gia đình, có nhiễu hủ tục cổ xúy cho bạo lực;

e) Người khơng kiểm sốt được hành vi bạo lực.

4. Cam tiếp xúc là biện pháp cam người có hành vi bạo lực gia đình đến gan người bị bạo lực gia đình; hoặc khơng đến gan nhưng sử dung các phương tiện dé <small>thực hiện hành vi bạo lực gia đình.</small>

5. Phát tán thơng tin về đời tư của người bị bạo lực gia đình là hành vi truyền ba thông tin về nhân thân, chỗ ở, nơi làm việc khi chưa được sự đồng ỷ của người

<small>bi bạo lực gia đình hoặc của người đại diện theo pháp luật của người đó. `.</small>

Hai là, về các nội dung thơng tin, tun truyền trong phịng, chong bao lực

<small>gia đình:</small>

Điều 14 Luật Phịng, chống bạo lực gia đình có thé sửa đổi như sau: Điều 14. Mục đích, yêu cầu trong thông tin, truyền thông, giáo dục

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

1. Thơng tin, trun thơng, giáo duc về phịng, chống bạo lực gia đình nhằm nâng cao nhận thức, định hướng hành vi ứng xử, góp phần tiễn tới xố bỏ bạo lực

<small>gia đình.</small>

2. Việc thơng tin, trun thơng, giáo duc về phịng, chỗng bạo lực gia đình phải bảo đảm các yêu cau sau đây:

a) Thường xuyên, chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực;

b) Phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa ti, giới tính, truyền thống, văn

hóa, bản sắc dân tộc, tơn giáo, vùng miền;

c) Bảo đảm bình dang giới, khơng làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm,

<small>uy tin của #gười bị bao lực gia đình và các thành viên khác trong gia đình;</small>

<small>d) Chú trọng đến người song trong gia đình có người co nguy cơ cao gâybao lực gia đình, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ, trẻ em, người cao tuổi, ngườikhuyết tat, người mặc bệnh hiém nghèo; người sông ở vùng có điểu kiện kinh tê-xã</small> hội khó khăn, vùng đồng bào dan tộc thiểu so;

d) Ngơn ngữ, hình ảnh sử dung trong thông tin, truyén thông, giáo duc về phịng, chống bạo lực gia đình phải phù hợp với từng nhóm đổi tượng cụ thể, các hình ảnh phải bảo đảm an tồn, bí mật đời tư khi đăng hình ảnh nhân vật để làm tư liệu thơng tin, truyền thông, giáo đục. ”.

<small>Ba là, đổi với biện pháp và sự hiệu quả trong bảo vệ nạn nhán bạo lực gia</small>

đình và chất lượng hịa giải, tư vấn trong phịng, chống bạo lực gia đình

Điều 30 Luật Phịng, chống bạo lực gia đình có thé sửa đơi như sau:

“Điều 30. Biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ

<small>trợ người bạo lực gia đình</small>

<small>1. Các biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình:</small>

a) Buộc cham dứt ngay hành vi bạo lực gia đình;

<small>b) u cau người có hành vi bạo lực gia đình dén trụ sở Cơng an cáp xã nơi</small>

<small>xảy ra vụ việc bạo lực gia đình;</small>

c) Cam tiếp xúc;

<small>d) Các biện pháp ngăn chặn và bao dam xử ly vi phạm hành chính theo quy</small>

định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc các biện pháp ngăn chặn, bảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

vệ người bị hại theo quy định của pháp luật về tơ tụng hình sự đối với người có

<small>hành vi bao lực gia đình.</small>

<small>2. Các biện bảo vệ người bị bạo lực gia đình:</small>

a) Bồ tri noi tạm lánh khi người bị bạo lực gia đình, người thân thích của họ có nguy cơ bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe;

<small>b) Các biện pháp bao vệ khác theo quy định của pháp luật.</small>

3. Các biện pháp hỗ trợ người bị bạo lực gia đình:

<small>a) Chăm sóc người bị bạo lực gia đình;</small>

b) Hồ trợ khẩn cấp chỗ ở tạm thời và các nhu cau thiết yếu toi thiểu;

c) Tu vấn tâm lý, trợ giúp pháp lý và kỹ năng để ứng pho với bạo lực gia <small>đình.</small>

4. Trường hop vụ việc bạo lực gia đình có tính chất nghiêm trọng de doa đến

<small>tính mạng, sức khoẻ của người bị bạo lực gia đình hoặc trường hợp người bị bạo</small> lực gia đình là trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ có thai, ni con nhỏ mà phải can thiệp kịp thời thì người có thẩm qun phải áp dụng ngay các biện pháp can thiết để giải cứu và bảo vệ người bị bạo lực gia đình. ”.

Bon là, đối với các quy định về thủ tục hành chính và điều kiện xử ly vụ việc bạo lực gia đình; các quy định về cấm tiếp xúc:

Điều 33 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình nên sửa đơi như sau:

“Điều 33. Cam tiếp xúc theo quyết định của Chủ tịch Uy ban nhân dân cấp xã

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình quyết định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc mdi lan khơng q 3 ngày khi có đủ các điều kiện <small>sau đây:</small>

<small>a) Người bị bạo lực gia đình, người giảm hộ hoặc người đại điện họp pháp</small>

yéu câu cam tiếp xúc, trường hợp cơ quan, tơ chức có thâm quyền u cau thì phải CĨ su đồng ý của người bị bạo lực gia đình;

b) Hành vi bạo lực gia đình gây tốn hại hoặc đe dọa gây tơn hại đến sức khỏe <small>hoặc đe dọa tính mạng của người bị bạo lực gia đình.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Trường hợp người bị bạo lực gia đình là trẻ em, việc áp dụng biện pháp cấm người có hành vi bạo lực gia đình tiếp xúc với trẻ em được thực hiện theo quy định

<small>của pháp luật về trẻ em.</small>

2. Cham nhất trong 12 giờ, ké từ khi nhận được yêu cầu theo quy định tai

điểm a khoản 1 Điêu này, Chủ tịch Uy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định áp dụng biện pháp cắm tiếp xúc; trường hợp khơng ra quyết định thì phải thơng báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ quan, tổ chức, người yêu cầu biết.

Quyết định cắm tiếp xúc có hiệu lực ngay sau khi ký và được gửi cho người

có hành vi bạo lực gia đình, người bị bạo lực gia đình, Trưởng cơng an cấp xã, công an quan lý khu vực và Trưởng thôn, TỔ trưởng tô dân phố nơi cư trú của người bị <small>bạo lực gia đình.</small>

3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định câm tiếp xúc là người thực hiện huỷ bỏ quyết định đó khi có yêu cầu của người bị bạo lực gia đình hoặc khi thời hiệu áp dụng quyết định cấm tiếp xúc đã hết.

4. Khi áp dụng quyết định cấm tiếp xúc, người bị bạo lực gia đình được quyên lựa chọn chỗ ở trong thời gian cấm tiếp xúc.

5. Người bị cẩm tiếp xúc phải giữ khoảng cách với người bị bạo lực gia đình trong suốt thời gian áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc từ 50m trở lên, trường hợp có

<small>vat ngăn cách bao dam an tồn cho người bị bạo lực gia đình thì khơng ap dung</small>

khoảng cách tối thiểu.

6. Người có hành vi bao lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc bị áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính dé ngăn chặn bao lực gia đình. Khuyến khích việc ứng dụng công nghệ dé hỗ trợ giám sát thực hiện biện

pháp cấm tiếp xúc.

<small>7. Trong trường hợp gia đình có đám cưới, đám tang hoặc các trường hợp</small>

đặc biệt khác, người có hành vi bao luc gia đình và người bị bạo lực gia đình tiếp

<small>xúc với nhau thì người có hành vi bạo lực gia đình phải báo cáo với người ban hành</small>

quyết định cam tiếp xúc để được tiếp xúc đưới sự quản lý của công an cấp xã nơi xảy ra tiếp xúc giữa người bị cẩm tiếp xúc với người bi bạo lực gia đình. ”.

Năm là, về quy định trách nhiệm của người đứng dau các cơ quan, tổ chức và chính quyên địa phương đối với nhiệm vụ phòng, chống bao lực gia đình

Điều 53 Luật Phịng, chống bạo lực gia đình nên sửa đôi như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>“Điêu 53. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về phịng,</small> chống bạo lực gia đình

1. Chính phủ thống nhất quản ly nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình; báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện Luật Phòng, chong bao luc gia dinh hai lan trong một nhiệm kỳ.

2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực

hiện quản lý nhà nước về phịng, chống bạo lực gia đình và điểu phối liên ngành trong phịng, chồng bạo lực gia đình.

<small>3. Các Bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm tham gia thực hiện quản lý nhà</small>

nước về phòng, chống bạo lực gia đình.

4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo

<small>lực gia đình tại địa phương.</small>

5. Người đứng dau cơ quan quản by nhà nước về phịng, chong bạo luc gia đình, cơ quan tham gia quan lý nhà nước về phòng, chong bạo lực gia đình chịu trách nhiệm trước Chính phi, Hội đồng nhân dân cùng cấp về kết quả phịng, chong bạo lực gia đình theo phân cấp. ”.

Bên cạnh đó, trong q trình xây dựng dự thảo Luật Phịng chống bạo lực gia đình nên cân nhắc kỹ lưỡng và có thé sửa đơi, bố sung các quy định về nội dung

quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh và quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và các

<small>quy định pháp luật khác có liên quan./.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>United Nations Entity for Gender Equalityand the Empowerment of Women</small>

<small>Tang cường hài hòa với các chn mực qc tê trong dự thảo Luật</small>

phịng chống bạo lực gia đình sửa đổi

- Khuyến nghị của UN Women-Dai diện trao đổi: Pham Thị Lan, UN Women

<small>Giới thiệu</small>

Bạo lực trên cơ sở giới (BLG) là vi phạm quyền con người, có thể xảy ra với

bat kỳ ai khơng loại trừ địa vị kinh tế, địa vị xã hội hay lãnh thé nào. Mặc dù BLG

xảy ra ở mọi quốc gia trên thé giới và tác động đến nam giới, phụ nữ, trẻ em trai, trẻ em gái và các nhóm khác thì tác động của nó đối với phụ nữ và trẻ em gái đang ở mức báo động. Bao lực trên cơ sở giới bắt nguồn từ sự mat cân bằng quyền lực giữa nam giới và phụ nữ, được hỗ trợ bởi các chuẩn mực xã hội, văn hóa và tơn

giáo, đồng thời ngày càng trở nên trầm trọng hơn do thiếu sự bảo vệ của pháp luật.

Ngay cả khi có các văn bản pháp luật hiện hữu, điều này khơng có nghĩa là các quy định của pháp luật luôn tuân thủ các chuẩn mực quốc tế hay được áp dung trong cuộc sống.3 Bao lực đối với phụ nữ và trẻ em gái (BLPNTEG) là một van đề toàn cầu, với đữ liệu hiện tại cho thấy “ước tính có khoảng 736 triệu phụ nữ - hầu như cứ 3 phụ nữ thì có l người - đã từng bi bạo lực it nhất một lần trong đời do

chồng/bạn tình gây ra, hoặc bị bạo lực tình dục do người khơng phải là chéng/ban <small>tình gây ra, hoặc bi cả hai hình thức bao lực ".*</small>

Theo cơ quan Bình đăng giới của Liên hợp quốc UN Women,Š trên thế giới,

bạo lực gia đình, hoặc bạo lực xảy ra trong các mối quan hệ tình cảm, là dạng BLG và BLPNTEG phổ biến nhất. Hầu hết các vụ bạo lực đối với phụ nữ đều do chồng

<small>3 Thực tiễn và Số liệu: Chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ, UN Women (tháng 3/2020),</small>

<small>Tổ chức Y tế thé giới, thay mặt cho Nhóm cơng tác liên cơ quan LHQ về Ước tính và số liệu về Bao lực đối vớiphụ nữ (2021). Ước tính tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ, 2018. Ước tính tỷ lệ trên toàn cầu, khu vực và quốc gia vềbạo lực đối với phụ nữ do chồng/bạn tình gây ra và ước tính tỷ lệ của khu vực về bạp lực tình dục đối với phụ nữdo người khơng phải là chồng/bạn tình gây ra.</small>

<small>5 Thực tiễn và Số liệu: Chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ | Chúng ta có hành động gì | UN Women - Trụ sở chính</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<small>hoặc bạn tình hiện tại hoặc trước đây gây ra. Hơn 640 triệu phụ nữ và trẻ em gái</small>

trong độ tuổi từ 15 trở lên bị bạo lực do chồng/bạn tình gây ra (26% phụ nữ từ 15 tuôi trở lên). Trong số những người đã từng có quan hệ tình cảm, hầu như cứ 4 trẻ em gái vị thành niên từ 15-19 tuổi (24%) thì có 1 người đã từng bị bạo lực thể chất và/hoặc bạo lực tình dục do bạn tình hoặc chồng gây ra. Năm 2018, ước tính cứ 7 phụ nữ thì có 1 người đã từng bị bạo lực thé chất và/hoặc bạo lực tinh dục do bạn

tình hoặc chồng gây ra trong 12 tháng qua (13% phụ nữ trong số đó ở độ tuổi từ 15-49 tuổi).

Bạo lực gia đình gây tác động nghiêm trọng khơng chỉ đối với bản thân người

phụ nữ mà còn ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình của họ và nền kinh tế nói chung. Trong Liên minh châu Âu, bằng chứng năm 20215 cho thấy thiệt hại liên quan đến bạo lực gia đình lên tới 366 tỷ Euro mỗi năm. Thiệt hại đối với phụ nữ chiếm 79% tổng số thiệt hại, tương đương 289 ty Euro.

Số liệu sẵn có ở Việt Nam cho thay tỷ lệ phụ nữ từng bị bạo lực trong các mỗi quan hệ tình cảm cao hơn. Theo điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ

được thực hiện năm 2019, gần hai phần ba số phụ nữ từng kết hôn ở Việt Nam bị

chồng/bạn tình bạo hành về thé chat, tình dục, tình cảm hoặc kinh tế và 31.6% phụ

nữ được khảo sát hiện đang bị bạo lực do chồng/bạn tình gây ra.” Tổng chi phí phải trả và thu nhập bi mat do bạo lực gia đình gây ra chiếm gần 1.81% tổng sản phâm quốc nội (GDP). Ngoài ra, thu nhập của phụ nữ bị bạo lực ít hơn 35% so với phụ nữ không bi bạo lựcŠ. Những con số đáng kinh ngạc này cho thấy Chính phủ Việt

Nam cần phải hành động mạnh mẽ hơn để giải quyết vấn nạn bạo lực gia đình.

Việt Nam đã thực hiện các cam kết đối với khu vực và quốc té trong viéc bao vệ quyên sống không bị bao lực của phụ nữ bằng việc thông qua một số văn ban

pháp luật và chính sách, trong đó nỗ lực quan trọng nhất là việc thơng qua Luật Phịng chống Bạo lực Gia đình (BLGĐ) 2007. Đạo luật này quy định các biện pháp

phịng, chống bạo lực gia đình, các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia

đình, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, t6 chức và cơ sở trong cơng tác phịng,

chống bạo lực gia đình và xử ly các hành vi vi phạm pháp luật. Sau 10 năm thi

<small>6 Thực tiễn và Số liệu: Chấm dứt bao lực đối với phụ nữ | Chúng ta có hành động gi | UN Women - Trụ sở chính7 UNFPA, Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình tại Việt Nam 2019: Báo cáo tóm tắt,</small>

<small> UN Women (2012). Ước tinh chi phi của bao lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

hành, Luật đã bộc lộ một số hạn chế mang tính hệ thống cần được khắc phục dé

giải quyết các thách thức liên quan đến bạo lực gia đình. Tăng cường tính tính tương thích với với các chuân mực quốc tế được xem là nhiệm vụ ưu tiên trong q trình sửa đổi Luật phịng chống BLGD 2007. Cơng tác sửa đổi Luật phịng chống BLGD 2007 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì đã được khởi xướng từ năm 2020. Theo chương trinh xây dựng pháp luật của Quốc hội, dự thảo Luật phịng chống BLGĐ sửa đổi sẽ được trình lên Quốc hội vào tháng 11 năm 2022 dé bam nút thơng

Ban tóm tắt chính sách này nhằm phân tích những khoảng trống lớn trong các ban dự thảo Luát Phong chống Bạo lực Gia đình (sửa đổi) trên cơ sở các chuẩn

mực quốc tế và các tài liệu hướng dẫn liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ/bạo lực gia đình, đồng thời đưa ra các khuyến nghị nhằm tăng cường tính tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế trong dự thảo Luật PCBLGĐ sửa đồi.

Tổng quan các văn bản quốc tế quan trọng về bạo lực gia đình và hàm ý đối với việc sửa d6i Luật PVBLGĐ ở Việt Nam.

Dé tiến tới hiện thực hóa các cam kết đối với khu vực và quốc tế về quyền con người, Việt Nam cần nỗ lực mạnh mẽ trong việc ngăn ngừa bạo lực trên cơ sở

giới, bao gồm cả bạo lực gia đình, thơng qua việc ban hành và thực thi hiệu quả pháp luật. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền kháng định tất cả mọi người đều có quyền bình đăng, khơng bị phân biệt đối xử dưới bat kỳ hình thức nào, ké cả giới tinh’. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Xóa bỏ mọi hình thức Phân biệt Đối xử với phụ nữ (CEDAW) vào năm 1982. Công ước CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên ngăn ngừa bạo lực trên cơ sở giới thông qua các chủ thể nhà nước, đồng thời

“áp dụng và thực hiện các biện pháp đa dang dé giải quyết bạo lực trên cơ sở giới đối với phụ nữ thông qua cam kết của các chủ thé khu vực ngoài nhà nước. Muốn

vậy, cần phải ban hành luật pháp, thể chế và hệ thống đề giải quyết tình trạng bạo lực trên cơ sở giới áp dụng cho tất cả các bên liên quan. Ngồi ra, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo rằng các công cụ này được thực hiện hiệu quả và được tất cả các bộ máy và cơ quan nhà nước hỗ trợ và thực thi một cách công <small>tâm”1!9</small>

<small>? Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền - Điều 2</small>

<small>19 Khuyến nghị chung số 35, 24(b) của Ủy ban CEDAW</small>

<small> class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Tuyên bố năm 1993 của Dai hội đồng Liên hợp quốc về Xóa bỏ bạo lực Đối với Phụ nữ (DEVAW) là khuôn khố pháp lý quốc tế đầu tiên với các quy định rõ ràng về bạo lực đối với phụ nữ, làm cơ sở xây dựng cam kết hành động ở cấp quốc gia và quốc tế. Tuyên bố này coi bạo lực đối với phụ nữ là một công cụ trấn áp của người gây bạo lực, do vậy công tác ứng phó của các quốc gia cần đảm bảo thực hiện cải cách tồn diện, có hệ thống dé giải quyết sự mat cân băng về quyền lực

giữa nam giới và phụ nữ. Tuyên bố nêu rang bạo lực đối với phụ nữ là “một biéu

hiện của quan hệ quyền lực bất bình đẳng, có hữu giữa nam giới và phụ nữ, dẫn đến sự thống trị và phân biệt đối xử của nam g101 đối với phụ nữ và ngăn cản sự tiễn bộ

toàn diện của phụ nữ, đồng thời bạo lực đối với phụ nữ là một trong những cơ chế xã hội quan trong ma ở đó phụ nữ bị buộc phải ở vi trí thấp hơn so với nam giới”.

Lý thuyết về bạo lực này cần được phản ánh trong các văn bản pháp luật, chính

<small>sách và thực tiên ở Việt Nam.</small>

Việt Nam cũng đã ký kết 7 uyên bố xóa bỏ Bao lực Đối với Phu nữ khu vực ASEAN (Tuyên bồ ASEAN). Các bên tham gia cam kết “ban hành và nếu cần, củng cô hoặc sửa đổi pháp luật quốc gia để ngăn ngừa bạo lực đối với phụ nữ, tăng cường nỗ lực bảo vệ, ứng phó, phục hồi và tái hịa nhập cho nạn nhân/người bị bạo lực, bao gồm các biện pháp điều tra, truy tố, xử phạt và cải tạo người gây bạo lực nếu cần, cũng như ngăn chặn việc phụ nữ và trẻ em gái tiếp tục trở thành nạn nhân của bạo lực dưới bất kỳ hình thức nào, cho dù ở gia đình, nơi làm việc, trong cộng đồng

hoặc ngoài xã hội ké cả ở nơi bị giam giữ” !!

Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia Công ước Quyên trẻ em (CRC), Công ước này yêu cầu các quốc gia thành viên thực hiện tất cả các biện pháp lập pháp, hành

chính, xã hội và giáo dục thích hợp dé bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực, gây thương tích hoặc xâm hại về thể chat/tinh than, sao nhãng/bỏ bê, ngược đãi/bóc

lột, bao gồm cả xâm hại tình dục, và được cha mẹ, người giám hộ hợp pháp hoặc <small>bat kỳ người nào khác chăm sóc”.</small>

<small>1! Tuyên bố về Xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ trong khu vực ASEAN, đoạn 4</small>

<small> Công ước Quyền trẻ em (CRC), Điều 19, đoạn 1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Mặc dù Việt Nam không tham gia Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất

<small>cả lao động di cư và các thành viên gia đình của họ, nhưng Việt Nam là thành viên</small>

của các công ước nhân quyền khác đảm bảo việc bảo vệ và thực hiện quyền con

người mà không bi phân biệt đối xử.

Phân tích tính tương thích với các chuẩn mực quốc tế liên quan đến bạo

lực gia dinh/bao lực đối với phụ nữ trong Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 và các bản dự thảo Luật sửa đổi

Một số khởi điểm tích cực

Việt Nam được đánh giá cao trong việc ban hành các quy định liên quan đến bao lực tinh than, bao lực kinh tế, một số hình thức bao lực tình dục và hủy hoại tài sản bên cạnh bạo lực thê chất khi đưa ra quy định về các hành vi bị cắm trong Luật phòng chống BLGĐ 2007. Luật này cũng áp dụng đối với hành vi “cô lập, trỗn

tránh và tạo áp lực tâm lý”. Việt Nam cũng cam kết bảo vệ phụ nữ thông qua việc

nhận thức rõ rằng bạo lực đối với phụ nữ có thê gây tác động về tinh thần, khiến họ đặc biệt dé bị tổn thương do bản chất của hành vi cưỡng bức và kiểm soát nhằm tiếp tục làm suy yếu quyền tự chủ của họ. Việt Nam cũng cần thận trọng trước thực tế là người gây bạo lực có thé thao túng và lạm dụng pháp luật để tiếp tục gây tốn

hại và kiểm sốt nạn nhân. Chính vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục duy trì cách tiếp

cận lay người bi bạo lực làm trung tâm khi thực thiện sửa đôi Luật phịng chống BLGĐ, trong đó ưu tiên tao điều kiện dé những người bị bạo lực được hỗ trợ tố nhất và tăng cường nhận thức về tác động của BLGĐ đối với phụ nữ. Bên cạnh đó,

điểm cần lưu ý trong Luật phòng chống BLGĐ 2007 là quy định về việc trình báo

<small>vụ việc bạo lực với cơ quan thực thi pháp luật hoặc các cơ quan chức năng khác</small>

khơng phải lúc nào cũng đảm bảo an tồn cho người bị bạo lực và do vậy cần coi sự an toàn của họ là ưu tiên hàng đầu. Luật phòng chống BLGĐ 2007 quy định về

hỗ trợ và bảo vệ người bị bạo lực cũng như sự tham gia của cộng đồng trong cơng tác phịng ngừa BLGĐ. Một lần nữa, thông qua việc phối hợp với người bị bạo lực va áp dụng phương pháp tiếp cận lay người bị bạo lực làm trung tâm, Việt Nam sẽ

tiếp tục khăng định tính hiệu quả của cơng tác hỗ trợ và bảo vệ người bị bạo lực

<small>theo quy định của pháp luật.</small>

<small>13 Việt Nam ký kết tham gia Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạohoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT) năm 2007 và thông qua Công ước này năm 2015; ký kết tham gia Công ước về</small>

<small>Quyền của Người khuyết tật (CRPD) năm 2007 và phê chuẩn Công ước này năm 2015.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Tuy nhiên, vẫn cịn những điểm can hồn thiện hơn nữa trong dự thảo Luật phòng chong BLGĐ sửa doi

Định nghĩa, phạm vi và các nguyên tắc chung

Dự thảo Luật phòng chống BLGD sửa đổi (ban dự thảo tháng 5) đã ghi nhận nhiều thay đổi tích cực so với Luật phịng chống BLGĐ 2007. Ví dụ, trong ban dự thảo lần này đã đưa vào các quy định như bảo đảm nguyên tắc bình đăng giới và quyền con người trong phịng, chống bạo lực gia đình, ưu tiên bảo vệ quyên va lợi

ich hợp pháp của các thành viên dé bị tổn thương trong gia đình (như phụ nữ có

thai, phụ nữ đang nuôi con nhỏ, trẻ em, người cao tuôi, người khuyết tật), đồng thời

dam bảo các yếu tố nhạy cảm giới trong quá trinh xét xử các vụ bạo lực gia đình, bồ sung quy định về quyên của người bi bạo lực như giữ bí mật đời tư và bổ sung cơ chế ngân sách cho công tác phịng, chống bạo lực gia đình.

Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể, dự thảo Luật phòng chống BLGD sửa

<small>đôi vân cân làm rõ hơn nữa một sô vân dé sau:</small>

e_ BLG đã được dé cập trong dự thảo Luật PCBLGĐ sửa đổi nhưng can có một định nghĩa chỉ tiết phù hop với định nghĩa của LHO “Bao lực trên cơ sở

giới là bạo lực nhằm vào một người trên cơ sở phân biệt giới hoặc giới tính. Nó bao

gồm các hành vi gây tơn hại hoặc đau đớn về thé chat, tinh thần hoặc tình duc, bao gồm cả việc đe dọa thực hiện những hành vi đó, hay sự cưỡng bức và tước đoạt tự do dưới nhiều hình thức khác nhau".

e Khái niệm gia đình đã và đang phát trién với các hình thái gia đình khác nhau và phát sinh thêm thành viên khơng thuộc mơ hình gia đình truyền thống. Bối

cảnh thay đổi nay cần được phản ánh trong dự thảo Luật phòng chống BLGD sửa

đối dé đảm bảo các thành viên khác (ví dụ lao động giúp việc gia đình-là người khơng có quan hệ huyết thống nhưng đối tượng này sống cùng với gia đình như

<small>một thành viên trong gia đình) cũng được Luật bảo vệ.</small>

e© Qun cia người bị bạo lực đã được tăng cường trong dự thảo Luật

phòng chống BLGĐ sửa đổi mới nhất. Tuy nhiên, quyền của người bị bạo lực vẫn

chưa hồn tồn tương thích với các chuan mực của Công ước CEDAW trong việc đảm bảo tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ miễn phí, tồn diện trong đó bao gồm Cả VIỆC

thu thập bang chứng y tế miễn phi, có đại diện pháp lý — như có phiên dịch ngơn ngữ ký hiệu cho người khuyết tật và phiên dịch cho người dân tộc thiểu số). Khoảng trống này cần được giải quyết trong Luật sửa đơi. Ngồi ra, các biện pháp áp dụng

</div>

×