Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Khóa luận Tốt nghiệp Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (904.32 KB, 83 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: DÂN SỰ
KHÓA HỌC: 2010 - 2014

PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI PHỤ NỮ QUA THỰC TIỄN
TẠI HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S Đào Mai Hường

Nguyễn Phước Trung


Huế, 03/2014


Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành khóa luận này, đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn
đến Quý thầy giáo, cô giáo trong Khoa Luật- Đại Học Huế đã
truyền đạt kiến thức cho em trong 4 năm học tập tại trường. Với
vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học tập là nền tảng
quan trọng giúp hoàn thành khóa luận này.
Em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo


Thạc sĩ Đào Mai Hường đã giúp đỡ, hướng dẫn em tận tình và đầy
trách nhiệm trong suốt quá trình hoàn thành khoán luận này.
Chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã đóng góp ý kiến
cũng như sự động viên, khích lệ trong quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện khóa luận.
Bài khóa luận được hoàn thành, bước đầu đi vào tìm hiểu,
nghiên cứu khoa học, kiến thức của em còn hạn chế và còn nhiều
bỡ ngỡ nên không thể tránh khỏi những điều thiếu sót. Kính mong
Quý thầy giáo, cô giáo, bạn bè nhiệt tình đóng góp ý kiến để bài
khóa luận của em có thể hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc Quý thầy giáo, cô giáo thật dồi
dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của
mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Huế tháng 03/2014
Sinh viên
Nguyễn Phước Trung


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLGĐ:

Bạo lực gia đình

PCBLGĐ:

Phòng chống bạo lực gia đình

HNGĐ:


Hôn nhân gia đình

LHQ:

Liên hợp quốc

UBND:

Ủy ban nhân dân

HĐND:

Hội đồng nhân dân

HLHPN:

Hội liên hiệp phụ nữ

HPN:

Hội phụ nữ

BĐG:

Bình đẳng giới

CEDAW:

Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ


PN:

Phụ nữ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào xã hội, là tổ ấm thân yêu của mỗi con người, như Bác Hồ
đã từng nói: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội
mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”[3].
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan
trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, trong Tuyên ngôn Người đã đặt ra vấn đề quan tâm hàng đầu là “Nam nữ
bình quyền”.
Tuy nhiên, vấn đề hiện nay tiềm ẩn trong mọi gia đình là vấn nạn vi phạm pháp
luật phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và việc phòng, chống bạo lực gia đình đối
với phụ nữ là hết sức cần thiết. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là vấn đề mang
tính lịch sử toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm
trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ. Bước sang thế kỷ XXI, phòng,
chống bạo lực giới đang là một trong những mục tiêu của thiên niên kỷ. Tổng
Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon đã tuyên bố: "Bạo lực đối với phụ nữ là
không bao giờ được chấp nhận, không bao giờ được khoan dung, tha thứ ." [16].
Chúng ta những con người của thế kỷ 21 cần phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề
bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và lên án nạn bạo lực với phụ nữ góp phần vào
nâng cao địa vị và quyền con người chính đáng của phụ nữ ở trong gia đình và

ngoài xã hội.
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 1992, việc bảo vệ phụ nữ khỏi
các hình thức bạo lực gia đình được quy định cụ thể, chi tiết trong nhiều văn bản
pháp luật khác như Luật Hôn nhân gia đình; Bộ Luật Hình sự; Luật Bình đẳng


giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình...Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều cố gắng trong việc

PCBLGĐ,

để các quy định pháp luật về PCBLGĐ được thực

thi trong đời sống xã hội nhưng trên thực tế, tình trạng vi phạm pháp luật về
PCBLGĐ

vẫn diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi. Thống kê của Bộ Văn hoá - Thể

thao và Du lịch, Tổng cục thống kê và Quỹ nhi đồng LHQ công bố ngày
26/6/2008 với điều tra của 93 ngàn hộ gia đình trên khắp mọi miền đất nước thì
có tới 21,2% cặp vợ chồng đã trải qua một hình thức bạo lực gia đình như đánh,
mắng, nhục mạ, ép quan hệ tình dục và như vậy cứ 5 cặp vợ chồng thì đã có một
cặp đã có hình thức bạo lực gia đình.
Chúng ta đều biết bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một hiện tượng xã hội
không mới, nhưng lại nổi lên như một căn bệnh xã hội hết sức nan giải trong
giai đoạn hiện nay. Qua các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ
bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp 3 lần so với khả năng bị người khác lạm
dụng. Bạo lực gia đình đình đối với phụ nữ đã gây hậu quả hết sức nghiêm trọng
đối với thể chất và tinh thần của người phụ nữ.
Nông Sơn là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Quảng Nam. Đây là một

huyện nghèo, 4/7 xã được xét là đặc biệt khó khăn. Mặc dù dân số ít nhưng địa
bàn phức tạp, trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đời
sống nhân dân còn duy trì những phong tục tập quán lạc hậu. Đó chính là những
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng bạo lực ở vùng cao. Tuy nhiên, hiện
nay vẫn chưa có những công trình chuyên sâu để tìm hiểu rõ hơn về việc
PCBLGĐ đối với phụ nữ miền núi.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm đến
công tác đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ nữ . Từ năm 1980, chính phủ Việt Nam
đã ký kết gia nhập Công ước về loại bỏ các tất cả các hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ (CEDAW). Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua vào tháng 11/2007 và có hiệu lực
từ ngày 1/7/2008. Quá trình thực hiện đã đạt đươc những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ vẫn diễn biến phức tạp cả


về số vụ và mức độ nghiêm trọng, và việc PCBLGĐ đối với phụ nữ và vấn đề
hết sức quan trọng và cần thiết.
Với những lí do nêu trên, mà em đã mạnh dạn chọn đề tài “Phòng chống
bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài hướng đến những mục đích như sau:
- Nâng cao nhận thức sâu sắc hơn về pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ.
- Đánh giá thực trạng PCBLGĐ đối với phụ nữ ở huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam.
- Tìm ra những hạn chế trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông
Sơn.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

PCBLGĐ


đối với phụ nữ

huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Từ những mục đích trên đề tài hướng tới những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng rõ khái niệm đặc điểm của bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
- Chỉ ra và phân tích các đặc điểm các hình thức bạo lực gia đình đối với
phụ nữ .
- Nêu lên các hình thức và phương pháp đấu tranh PCBLGĐ đối với phụ
nữ.
- Chỉ rõ những hậu quả mà bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã để lại cho
phụ nữ, cho trẻ em và cho cả toàn xã hội.
- Đề xuất những kiến nghị và giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh
PCBLGĐ

đối với phụ nữ tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích, đánh giá và xem xét về
thực tiễn PCBLGĐ đối với phụ nữ địa bàn huyện Nông Sơn nói riêng, Tỉnh
Quảng Nam nói chung.


Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ có hạn của một bài Khóa Luận, em
chỉ đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bạo lực gia đình đối với phụ
nữ và thực tiễn thực hiện pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài “Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ qua
thực tiễn tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam”. Em đã sử dụng phương pháp

duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra em còn sử dụng
một số phương pháp cụ thể như: phân tích, giải thích, thống kê, tổng hợp, khảo
sát thực tế.
5. Cơ cấu của đề tài.
Lời mở đầu: Nêu lên tính cấp thiết của đề tài, mục đích nghiên cứu, đối
tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu.
Nội dung: Gồm có 2 chương.
- Chương 1: Quy định của pháp luật Việt Nam về phòng chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ và trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm.
- Chương 2: Thực trạng phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Kết luận
Tài liệu tham khảo


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÒNG CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ ĐỐI VỚI NHỮNG VI PHẠM
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm gia đình
Dưới góc độ xã hội học, gia đình được coi là tế bào xã hội. Không giống
bất cứ nhóm xã hội nào khác, gia đình đan xen các yếu tố sinh học, kinh tế, tâm
lý, văn hóa…những mối liên hệ cơ bản của gia đình bao gồm vợ chồng, cha mẹ
và con, ông bà và cháu, những mối liên hệ khác: cô, dì, chú, bác với cháu, cha
mẹ chồng và con dâu, cha mẹ vợ và con rễ…Mối quan hệ gia đình được thể hiện
ở khía cạnh như: có đời sống tình dục, sinh con và nuôi dạy con cái, lao động
tạo ra của cái vật chất để duy trì đời sống gia đình và đóng góp cho xã hội. Mối
liên hệ này có thể dựa trên những căn cứ pháp lý hoặc có thể dựa trên những căn

cứ thực tế một cách tự nhiên, tự phát.
Theo đó gia đình được định nghĩa “là một thiết chế xã hội đặc thù, một
nhóm xã hội thu nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con người bởi tính cộng đồng về sinh
hoạt trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của thành viên
cũng như để thể hiện tính tất yếu của xã hội về phát triển sản xuất con người”.
Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau hôn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật này (Điều 8, Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000).
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về
khái niệm gia đình: gia đình là tập hợp những người cùng có tên trong sổ hộ
khẩu; gia đình là tập hợp những người cùng chung sống với nhau dưới một
mái nhà…


Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia tách thành
nhiều dạng thức khác nhau: gia đình hiện đại và gia đình truyền thống, gia đình
hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ.
1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là “sức mạnh dùng để cưỡng bức, lấn
áp hoặc lật đổ”[3]. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động
chính trị, nhưng trên thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử
trong quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất phức tạp nên
hành vi bạo lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau, tùy
theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được;
bạo lực với trẻ em…
Còn theo chủ nghĩa cộng sản khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các nhóm
chính trị- xã hội) nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác nhau, kể cả
sự tác động bằng vũ trang, đối với giai cấp (các nhóm chính trị- xã hội) khác

nhau nhằm mục đích giành lấy hoặc duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị
những quyền hay đặc quyền khác nhau” [4].
Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của các
thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại với các thành viên khác
trong gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình). Nói cách khác, đó là
việc “ các thành viên trong gia đình vân dụng sức mạnh để giải quyết các vấn đề
gia đình”.
Theo định nghĩa của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993 được
các tổ chức cũng như các nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó,
bạo lực gia đình bao gồm bất kỳ một hành động bạo lực dựa trên cơ sở một giới
nào dẫn đến, hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục hay tâm
lý, hay những đau khổ của phụ nữ bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như
vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách tỳ tiện sự tự do, dù xảy ra nơi công cộng
hay cuộc sống riêng tư.


Như vậy, bạo lực gia đình bao gồm các yếu tố bạo hành về thể chất, bạo
hành về tinh thần, bạo hành tình dục và cả bạo hành về kinh tế. Những hành vi
bạo lực gia đình gây ra để lại nhiều tổn hại đối với cộng đồng xã hội, đối với con
người, đặc biệt đối với phụ nữ- đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bạo lực
gia đình.
1.1.3. Khái niệm bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Tuyên bố của Liên hợp quốc về việc loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ, ngày
20/12/1993, đã định nghĩa: “Bạo lực đối với phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực
nào dựa trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả, làm tổn hại
hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục hay tâm lý, kể cả những lời
đe doạ hay độc đoán tước quyền tự do, dù xảy ra ở nơi công cộng hay trong đời
sống riêng tư”. Theo định nghĩa trên, bạo lực gia đình đối với phụ nữ bao gồm:
các hành vi bạo lực trên cơ sở giới gây ra hậu quả hoặc có thể gây ra hậu quả,
làm tổn hại hoặc gây đau khổ cho phụ nữ về thân thể, tình dục và tâm lý xảy

ra trong gia đình.
Bạo lực chống lại phụ nữ trong gia đình: Quan hệ giới trong gia đình là một
trong những quan hệ cơ bản tạo nên sự tồn tại của một gia đình. Về thực chất nó
là mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong gia đình mà trung tâm là mối
quan hệ vợ chồng. Trong mối quan hệ về giới, mặc dù thủ phạm của hành vi bạo
lực gia đình có thể bao gồm cả phụ nữ và nạn nhân của nó có thể bao gồm cả
đàn ông. Tuy nhiên, các nghiên cứu về vấn đề này cho phép kết luận rằng, bạo
lực gia đình về cơ bản là bạo lực chống lại phụ nữ và thủ phạm cơ bản là đàn
ông. Phần lớn bạo lực chống lại phụ nữ xảy ra trong gia đình và người gây ra
bạo lực gần như luôn luôn là nam giới, thường là chồng, người tình, hoặc chồng
cũ, người tình cũ, hay những người đàn ông quen biết của phụ nữ.
"Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ, trong đó phụ
nữ thường là nạn nhân và điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lực bất
bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực thường nhằm vào phụ nữ vì họ là
phái yếu hoặc ảnh hưởng lớn đến phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm,


những tổn hại về thân thể, tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe doạ, gây đau
khổ, cưỡng bức, hoặc tước đoạt sự tự do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng
đồng, nhưng nó không hạn chế chỉ ở những dạng này. Bạo lực trên cơ sở giới
bao gồm cả bạo lực do Nhà nước gây ra hoặc bỏ qua "[15].
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngoài những đặc điểm của bạo lực gia đình
nói chung còn mang một đặc điểm rất quan trọng để chúng ta nhận biết và phân
biệt với bạo lực gia đình nói chung, đó là, nạn nhân của bạo lực gia đình đối với
phụ nữ chỉ là nữ giới (nạn nhân của bạo lực gia đình có thể là tất cả đối tượng: nữ
giới, nam giới, trẻ em, người già, người tàn tật...). Chủ thể thực hiện hành vi bạo
lực gia đình đối với phụ nữ thường là nam giới và thường là người chồng trong hôn
nhân, chồng cũ hay bạn tình.
1.1.4. Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là việc thực hiện các biện

pháp nhằm ngăn chặn và đẩy lùi bạo hành đối với phụ nữ trong gia đình, giúp
cho người phụ nữ tránh được bạo lực gia đình, bảo đảm các quyền con người và
có cuộc sống hạnh phúc.
Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một công việc khó khăn và
lâu dài. Để bảo vệ người phụ nữ, bảo vệ quyền và vị trí của người phụ nữ trong
xã hội, việc phòng chống bạo lực gia đình đối với người phụ nữ cần thiết phải có
sự điều chỉnh của pháp luật. Việc PCBLGĐ đối với người phụ nữ chỉ đạt được hiệu
quả khi nó được đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật, phù
hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng
được một hệ thống pháp luật về PCBLGĐ đặc biệt, lần đầu tiên, Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình đã ra đời. Đây chính là cơ sở pháp lý để bảo vệ con người trong
đó có người phụ nữ trước bạo hành gia đình.
Chính phủ Việt Nam đã tham gia rất mạnh mẽ phong trào quốc tế trong việc
bảo vệ người phụ nữ và đẩy lùi bạo lực gia đình. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước
về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) năm 1981 và
cam kết với kế hoạch hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển tại


Cai-rô năm 1994 và Cương lĩnh hành động của Hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Bắc
Kinh năm 1995. Với tư cách là quốc gia thành viên của công ước CEDAW, Việt
Nam đã có những tiếp cận theo đúng cách tiếp cận của công ước đối với bình đẳng
và bình đẳng giới. Điều này được thể hiện trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, từ
đạo luật gốc là Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản pháp luật khác đều khẳng
định một nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không có bất kỳ sự phân biệt nào trên cơ
sở giới trên mọi lĩnh vực.
Từ những phân tích trên, phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
được hiểu là phòng ngừa những hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực
gia đình, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại
đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trong lĩnh vực


PCBLGĐ

mà nạn

nhân của bạo hành gia đình là người phụ nữ.
Như vậy,

PCBLGĐ

đối với phụ nữ là phòng ngừa các hành vi bạo hành gia

đình đối với phụ nữ mà trong đó nạn nhân là người phụ nữ, người gây ra bạo
hành chủ yếu là nam giới. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, trong xu thế gia
đình ở Việt Nam là gia đình mở, người phụ nữ không chỉ bị bạo hành từ phía
người chồng mà còn bị bạo hành từ phía gia đình nhà chồng, bố, mẹ chồng,
anh em của chồng. Mặt khác, trong thực tế cũng có nhiều người chồng cũng
phải chịu bạo lực gia đình như phụ nữ nhưng trong khuôn khổ khóa luận này,
tác giả nghiên cứu việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vụ bạo
lực gia đình đối với phụ nữ trái với pháp luật

PCBLGĐ

và là nội dung cơ bản tác

giả đề cập tới việc PCBLGĐ đối với phụ nữ.
1.2. Các hình thức của bạo lực gia đình đối với phụ nữ
1.2.1. Bạo lực thể xác
Người phụ nữ đã phải chịu đựng nhiều hình thức bạo lực gia đình. Bạo lực
thân thể là hình thức khá phổ biến trong các dạng bạo lực gia đình trên thế giới
nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Bạo lực thể chất là một trong những nguyên

nhân hàng đầu gây ra thương tích cho phụ nữ. Người phụ nữ là nạn nhân của
bạo hành gia đình dưới hình thức bạo lực thân thể, họ phải chịu sự đánh đập của


người chồng, người bạn tình ở nhiều mức độ khác nhau, có trường hợp người
chồng đấm, đá, tát, xô ngã vợ; có trường hợp dùng cả vũ khí để hành hung vợ để
lại những hậu quả nghiêm trọng như để lại thương tích trên thân thể, xảy thai,
thậm chí tử vong...
Theo luật mẫu của Liên hợp quốc bạo lực thể xác bao gồm bất cứ hành vi
nào gây ra thương tích về mặt thể chất hoặc tổn thương thân thể ở bất kỳ mức độ
nào.
Theo tài liệu của Viện Khoa học xã hội: Bạo lực thể xác là hành vi cưỡng
bức thân thể, đánh đập nhằm gây thương tích cho nạn nhân hoặc ngăn cấm phụ
nữ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như ngăn ngừa họ không được
tiếp cận các nhu cầu vật chất thiết yếu như: ăn uống, nghĩ ngơi,...
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng đã nêu:
Hành vi “hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức
khỏe, tính mạng” được xem là hành vi bạo lực gia đình về mặt thể xác.
Những hành vi bạo lực về thể xác thường sử dụng sức mạnh cơ bắp hoặc
công cụ (thậm chí cả vũ khí ) để gây ra sự đau đớn về thân thể đối với nạn nhân
và mức độ có thể từ nhẹ tới nặng: thờ ơ; đánh đau, gây thương tích ở khu vực
khó phát hiện; đấm đá; gây thương tích nặng không cho nạn nhân đi chữa trị;
dùng phương tiện có dự định( dao, súng...)...;giết.
Phụ nữ bị tát, xô, đẩy (không có những hành vi nghiêm trọng hơn) được
xếp vào nhóm bị bạo lực ở mức độ nhẹ và những người bị đấm đá kéo lê hoặc
đe dọa dùng vũ khí được coi là bị bạo lực ở mức độ nghiêm trọng. Thường thì
phụ nữ phải gánh chịu nhiều hành vi bạo lực thể xác chứ không phải đơn thuần
một hành vi.
Trên thực tế không chỉ có những người trình độ văn hóa thấp mà cả những
người có trình độ văn hóa tương đối cao, có địa vị trong xã hội cũng là nạn nhân

của bạo lực trong gia đình. Trong đó bạo lực thể xác đối với người phụ nữ là rõ
nhất. Mặt khác, bạo lực về thể xác đối với phụ nữ ở nông thôn cao hơn so với


thành thị và phần lớn là tập trung vào các gia đình có chồng trình độ học vấn
thấp, làm nông nghiệp.
Bạo lực thể xác để lại hậu quả rất nghiêm trọng, nó không chỉ tác động trực tiếp
đến sức khỏe, tinh thần của người phụ nữ mà còn gây ảnh hưởng đến sự phát triển
tình cảm của trẻ con trong gia đình. Gia đình không hòa thuận, cha mẹ đánh đập
nhau sẽ tác động không không tốt đến tư tưởng, làm mất niềm tin của con trẻ vào cha
mẹ của mình.
Như vậy, có thể thấy rằng bạo lực thể xác là một trong những nguyên nhân
chính của tình trạng ly hôn hiện nay, đẩy nhiều gia đình đến bờ vực khủng
hoảng và tan vỡ, trẻ em thì xa vào con đường tội phạm.
1.2.2. Bạo lực tinh thần
Bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là loại hình bạo lực không sử dụng đến
vũ lực để tác động lên thể xác của nạn nhân mà chỉ tác động lên tinh thần của
nạn nhân như: chì chiết, mắng chửi, lăng mạ, xỉ nhục, tỏ thái độ lạnh lùng,
không nói chuyện, không quan tâm.
Cùng với bạo lực về thân thể, bạo lực về tinh thần đối với phụ nữ là hình
thức bạo lực đối với phụ nữ ngày càng phổ biến ở nước ta. Những vết thương về
thân thể của người phụ nữ, với thời gian có thể lành lại nhưng những vết thương
về tinh thần do bạo lực gia đình gây ra cho người phụ nữ sẽ rất khó lành. Bạo
lực về tinh thần đã gây cho người phụ nữ những chấn động mạnh và lâu dài về
tâm lý, họ phải chịu đựng những chấn thương tâm lý mà không dễ gì chữa khỏi.
Nạn nhân bị bạo lực tinh thần thường tự dằn vặt mình, trầm cảm và sợ sệt, ăn
không ngon, ngủ không yên, nóng giận vô cớ, luôn bị ám ảnh về bạo lực, có
trường hợp bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý, thần kinh suốt đời, có trường
hợp thì tự tử.
Bạo lực về tinh thần cũng là một loại hình bạo lực không kém phần nghiêm

trọng so với bạo lực về thể xác, số động phụ nữ đếu cho rằng: ảnh hưởng của
bạo lực tinh thần thường nặng nề hơn bạo lực thể xác. Liên quan đến vấn đề này


thì Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có nêu lên một số hành vi bạo lực tinh
thần như:
“Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý và gây hậu quả
nghiêm trọng; lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm...”
Một số những hành vi bạo lực tinh thần :
- Dùng lời nói để mắng nhiếc nạn nhân;
- Chửi mắng, lăng mạ, chì chiết;
- Xúc phạm nhân phẩm, hạ thấp uy tín ( tiết lộ đời tư, phát tán tờ rơi làm
ảnh hưởng đến danh dự, cưỡng ép lột bỏ quần áo trước mặt người khác...).
- Cấm đoán ( quyền được chăm sóc con cái, người thân,dược làm việc, được
tham gia vào công tác xã hội, quyền được giao tiếp, quyền được quyết định...).
- Xua đuổi, quấy rối hoặc gây áp lực thường xuyên về mặt tâm lý gây hậu
quả nghiêm trọng;
- Buộc tội, nghi ngờ, theo dõi;
- Phớt lờ cảm xúc của người khác, không quan tâm, đối xử lạnh nhạt;
- Chê bai, chế nhạo, hạ thấp giá trị trước mặt người khác…
Với bạo lực thể xác, nỗi đau đớn thể hiện rõ ràng trên cơ thể người phụ nữ
nhưng với bạo lực về tinh thần thì vết thương ấy nông sâu như thế nào không ai
có thể đo đếm được. Bạo lực tinh thần từng ngày từng giờ gặm nhấm ý chí, tâm
can của người phụ nữ khiến những nạn nhân này luôn trong tình trạng căng
thẳng dẫn đến “stress”, tâm thần ở thể nhẹ hoặc thần kinh và hậu quả đau lòng
nhất là nhiều người do quá bế tắc đã phải tìm đến cái chết để giải tỏa.
Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ đang dần làm mai một đi bản chất tốt đẹp
vốn có của mỗi một thành viên trong gia đình, gây tan vỡ hạnh phúc lứa đôi của
các cặp vợ chồng, gây đỗ vỡ cuộc sống gia đình.
Bạo lực tinh thần đối với phụ nữ trong gia đình là hình thức bạo lực không

nhìn thấy được. Trong nhiều trường hợp, nó là nguyên nhân trực tiếp cướp đi
sinh mạng của người phụ nữ. Rất nhiều phụ nữ không chịu nổi bạo hành tinh
thần đã tìm đến với cái chết. Một trường hợp vi phạm pháp luật phòng chống


bạo lực gia đình đối với phụ nữ dưới hình thức bạo hành tinh thần đăng trên báo
VnExpress ngày 23/10/2008 đã nói lên nỗi đau của mà người phụ nữ phải chịu
đựng khi bị bạo lực tinh thần: Một người chồng đã không đánh đập vợ khi bắt
gặp vợ ngoại tình và chỉ xin 10 nghìn của người tình vợ, sau đó, cứ mỗi lần đến
bữa ăn, người chồng lại đặt 10 nghìn lên mâm cơm và giải thích với con đó là số
tiền mà mẹ khó nhọc kiếm được. Ba tháng sau, không chịu nổi áp lực về mặt
tâm lý, người vợ đã tự vẫn chết.
Có rất nhiều lý do dẫn đến bạo lực tinh thần đối với phụ nữ, một trong
những lý do khá nổi bật là ngoại tình. Phần lớn những người chồng khi ngoại
tình về thường bỏ rơi, chửi mắng, ngược đãi vợ con. Cùng với sự tra tấn dã man
đó là mục đích mong cho vợ chết mòn, chết dần. Trong những hoàn cảnh như
vậy, người phụ nữ thật đau khổ và nhiều khi họ đã không làm chủ được bản thân
mình nữa, mắc phải những sang chấn tâm lý ám ảnh suốt cuộc đời họ.
1.2.3. Bạo lực tình dục
Một hình thức bạo lực gia đình đối với người phụ nữ hiện nay làm ảnh
hưởng rất lớn đến tâm lý của người phụ nữ là bạo lực tình dục. Hình thức bạo
lực này rất khó phát hiện bởi tất cả các nạn nhân rất ít khi nói ra. Theo Tổ chức
Y tế thế giới, bạo lực tình dục được xem là vấn đề ưu tiên trong các vấn đề sức
khoẻ cộng đồng và quyền con người bởi vì vấn đề này tồn tại ở nhiều nước trên
thế giới và gây ảnh hưởng đến sức khoẻ phụ nữ. Cưỡng bức tình dục trong hôn
nhân là một hình thức bạo lực đối với phụ nữ, là hành vi vi phạm pháp luật
phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ, đây là điều mà bấy lâu nay nhiều
người không nhận thức được. Ở nước ta, theo quan niệm truyền thống, việc
người vợ đáp ứng nhu cầu tình dục của chồng là việc bình thường như là một
bổn phận của người vợ để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nhiều người chồng coi đó

là trách nhiệm đương nhiên của người vợ, người vợ không có quyền kháng cự
và đã có rất nhiều người được hỏi đã khẳng định rằng đây không phải là việc
bạo hành vợ, vì thế không phải là vi phạm pháp luật. Chính vì vậy mà hình thức
bạo lực này bị xem nhẹ. Điều này dẫn đến tình trạng bạo lực tình dục trong gia


đình đối với vợ còn xảy ra nhiều với con số khá cao mà trong thực tế, con số đó
còn nhiều hơn rất nhiều.
Quan hệ tình dục giữa vợ và chồng là quan hệ tình dục đồng thuận, nhưng
không phải lúc nào cũng là quan hệ tình dục được mong muốn. Vì vậy, không
phải cứ là vợ chồng thì đương nhiên chồng được quan hệ và vợ phải chiều
chồng, mà cần có sự mong muốn và đồng thuận của đôi bên. Hành vi ép buộc
tình dục có thể xảy ra trong hôn nhân giữa vợ và chồng, kể cả khi ly thân, ly hôn
và ngay cả trong tình yêu giữa bạn tình với nhau.
Bạo lực tình dục được định nghĩa là: hành vi sử dụng vũ lực, cưỡng bức
hoặc chấn áp về tâm lý nhằm ép buộc một người phụ nữ quan hệ tình dục ngoài
ý muốn cho dù có đạt mục đích hay không. Bạo lực tình dục bao gồm hiếp dâm,
quấy rối tình dục và các hình thức bạo lực tình dục khác trong hôn nhân mà đối
tượng gây ra là các thành viên trong gia đình, người quen, cưỡng ép kết hôn,
cưỡng ép làm nghề mại dâm, chủ thể của hành vi bạo lực tình dục thường xử
dụng vũ lực để ép buộc người kia có quan hệ tình dục, hoặc hành vi cố lôi kéo
họ vào hoạt động tình dục ngay cả khi họ không có khả năng tử chối bởi các lý
do như: sức khỏe, bị ảnh hưởng của chất kích thích, chưa đủ năng lực để hiểu
biết về hậu quả của quan hệ tình dục đó, hoặc sự hăm doa, quấy rối tình dục.
Trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 của Việt Nam cũng có
nêu rõ “...cưỡng ép quan hệ tình dục” cũng là một trong những hành vi bạo lực
gia đình. Chúng ta có thể xác định bạo lực tinh dục qua một số hành vi cụ thể sau:
- Đùa cợt về phụ nữ và về tình dục trước mặt nạn nhân;
- Xem phụ nữ như một đồ vật để thỏa mãn;
- Làm mất cảm xúc và nhu cầu sinh lý của nạn nhân;

- Sờ mó bộ phận sinh dục của nạn nhân khi nạn nhân không đồng ý;
- Sử dụng những hình thức quan hệ tình dục gây đau đớn;
- Sử dụng những lời lẽ liên quan tới dục tính gây khó chịu về tâm lý;
- Cưỡng ép thực hiện hành vi khiêu dâm, các thuốc kích dục;
- Ép buộc quan hệ tình để làm nhục, gây đau;
- Buộc cởi bỏ y phục trước mặt con cái, công chúng…


Trong đời sống vợ chồng ở nhiều gia đình, hôn nhân được hiểu như là sự
cho phép người đàn ông có quyền tiếp cận tình dục với người vợ vô điều kiện và
họ có sức mạnh để củng cố sự tiếp cận này thông qua cưỡng bức nếu thấy cần
thiết. Không ít phụ nữ khi không đồng ý quan hệ với chồng đã bị chồng chì
chiết, chửi mắng thậm tệ. Bị bạo hành về tình dục khiến cho người phụ nữ cảm
giác như mình chỉ là công cụ giải quyết sinh lý của chồng nên họ cảm thấy sợ
mỗi khi gần gũi chồng. Trong quan hệ “phòng the” lẽ ra người phụ nữ có quyền
được trân trọng thì trái lại bị tước đi quyền làm vợ, quyền được nâng niu chiều
chuộng và được yêu thương, nhưng trái lại họ chỉ có một nhiêm vụ duy nhất là
phục vụ.
Các hành vi bạo lực tình dục chủ yếu là dùng sức mạnh thể lực để ép quan
hệ tình dục ngoài ý muốn, đa phần người phụ nữ phải quan hệ tình dục vì sợ
rằng nếu không đáp ứng nhu cầu sinh ý cho chồng thì sẽ có điều xấu xảy ra và bị
ép làm những việc có liên quan đến tình dục mà người vợ cảm thấy bị nhục nhã
hoặc hạ thấp nhân phẩm. Một số phụ nữ khác cho rằng: họ bị ép quan hệ tình
dục vì họ sợ, vì họ nghĩ tới lần quan hệ sau những chuyện như này sẽ tiếp diễn.
Tình dục cưỡng ép không chỉ xảy ra một lần mà có thể tiếp tục lặp đi lặp lại
nhiều lần.
Như vậy, có thể nói nạn bạo lực tình dục đã và đang trở thành vấn nạn của
các gia đình và toàn xã hội. Bạo lực tình dục không chỉ gây đau đớn về mặt thể
xác đối với phụ nữ mà còn gây ra hậu quả về mặt tinh thần hết sức nghiêm
trọng, là nỗi kinh hoàng trong đêm của nhiều phụ nữ. Sự lạm dụng về tình dục

có thể gây ra các căn bệnh có thể liên quan đến sức khỏe sinh sản khó điều trị
như: HIV, mang thai ngoài ý muốn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục hay
những tai biến chứng thai sản...Do bạo lực tình dục có mối quan hệ chặt chẽ với
vấn đề đạo đức và được ngụy trang một cách kính đáo bởi “quan hệ tình cảm”
giữa hai vợ chồng. Mặt khác, vì nó là vấn đề tế nhị, nên chị em thường giấu
diếm vì không muốn “ vạch áo cho người xem lưng”, “xấu chàng hổ ai”. Những


điều này góp phần làm cho bạo lực tình dục ngày một phát triển, đe dọa đến tinh
thần và sức khỏe của phụ nữ.
1.2.4. Bạo lực kinh tế
Cùng với bạo hành về thể chất, bạo hành về tinh thần là bạo hành về kinh
tế. Bạo hành về kinh tế là hành vi dùng sức mạnh, áp đặt hoặc lừa mị nhằm
chiếm giữ và kiểm soát tài chính của người phụ nữ trong gia đình nhằm tạo ra sự
phụ thuộc về mặt kinh tế. Cho đến nay, chưa có nhiều số liệu thống kê về bạo
lực kinh tế trong gia đình đối với phụ nữ, tuy nhiên trên thực tế, bạo lực kinh tế
đối với phụ nữ thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: không đóng góp
kinh tế (tiền bạc) cho vợ chi tiêu chung trong gia đình; quản lý hết tiền của gia
đình; bắt người vợ phụ thuộc hoàn toàn vào mình; coi thường vợ không có công
ăn việc làm, không kiếm được tiền; kiểm soát toàn bộ việc chi tiêu trong nhà;
vay nợ nhiều để vợ gánh chịu trả nợ... Có rất nhiều người phụ nữ hoàn toàn bị
phụ thuộc vào chồng về mặt kinh tế, mọi sự chi tiêu trong gia đình từ những vật
dụng nhỏ nhất cũng phải xin chồng, phải xin phép chồng, chồng không đồng ý
hay không cho thì không có tiền để tiêu thậm chí để phục vụ cho những nhu cầu
tối thiểu nhất của người phụ nữ. Như vậy, câu hỏi đặt ra người phụ nữ sinh ra để
làm gì?, họ đâu còn được tôn trọng quyền con người nữa. Như vậy, bạo lực kinh
tế đối với người phụ nữ trong gia đình biểu hiện rất đa dạng, nhiều vẻ với nhiều
cấp độ khác nhau và phần lớn bạo lực kinh tế thường ít bộc lộ công khai. Vì thế,
bạo lực kinh tế là dạng bạo lực không dễ nhận diện. Bạo lực kinh tế đã và đang
ảnh hưởng sâu sắc tới người phụ nữ, vi phạm quyền tự do của người phụ nữ.

Chính vì vậy, hơn ai hết, người phụ nữ phải đứng lên đấu tranh để bảo vệ quyền
cho họ đồng thời những kẻ gây ra bạo lực cho người vợ của mình cần bị xử lý
nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Bạo lực kinh tế là hành vi kiểm soát tài chính, bắt phụ thuộc vào tài chính
đối với thành viên trong gia đình.Theo nghị định 110/2009/NĐ-CP ngày 1012-2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực


phòng, chống bạo lực gia đình có quy định một số hành vi về bạo lực kinh tế
trong gia đình như sau:
- Không cho thành viên trong gia đình sử dụng tài sản chung vào mục đích
chính đáng;
- Kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của thành viên gia đình hoặc nguồn
tài chính chung của gia đình nhằm tạo cho thành viên gia đình sự phụ thuộc về
tài chính;
- Buộc thành viên gia đình đóng góp tài chính vượt quá khả năng của họ;
- Đập phá tài sản riêng của mình nhằm gây áp lực về tâm lý đối với thành
viên gia đình;
- Có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên gia đình hoặc tài
sản chung của gia đình;
- Chiếm đoạt tài sản riêng của thành viên gia đình;
- Chiếm đoạt tài sản chung của gia đình để sử dụng vào mục đích cá nhân;
- Ép buộc thành viên gia đình lao động quá sức hoặc làm công việc nặng
nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại hoặc làm những công việc khác trái
với quy định của pháp luật về lao động;
- Ép buộc thành viên trong gia đình đi ăn xin hoặc lang thang kiếm sống;
Bạo lực về kinh tế cũng là một trong những loại hình bạo lực gây nhiều
sức ép cho phụ nữ, đặc biệt là sức ép về mặt tinh thần, khiến cho họ luôn luôn
rơi vào tình trạng căng thẳng và mệt mỏi. Như vậy, chúng ta có thể thấy bạo
hành gia đình là con sóng ngầm có sức tàn phá rất lớn hạnh phúc của mỗi gia
đình, nó để lại rất nhiều hậu quả, mà dễ thấy nhất là hạnh phúc gia đình bị đổ

vỡ, con cái thiếu sự quan tâm dễ xa ngã vào các tệ nạn xã hội...Qua những hình
thức bạo lực gia đình nói trên chúng ta đã có những cách nhìn khách quan về
đặc điểm cũng như tính nguy hiểm của từng loại hình. Từ đó cần phải có những
giải pháp nhằm đấu tranh chống lại nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang
ngày một phát triển trong giai đoạn hiện nay.


1.3. Quy định của một số nước trên thế giới về phòng chống bạo lực gia
đình đối với phụ nữ
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một vấn đề phổ biến trên tất cả các quốc
gia trên toàn thế giới, ảnh hưởng tới sự an toàn, lành mạnh của cộng đồng và trật
tự xã hội. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều có các văn bản quy phạm pháp luật
hình sự hoặc hành chính để xử phạt các hành vi bạo lực, trong đó bao gồm cả
bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ. Tuy nhiên, bạo lực gia đình đối với phụ
nữ có một số đặc thù mà các thủ tục hành chính, dân sự, hình sự không giải
quyết được như: xảy ra trong bối cảnh riêng tư, mang tính liên tục, nạn nhân
không muốn nhờ cậy sự giúp đỡ từ các cơ quan chức năng vì xấu hổ, sợ bị miệt
thị, vì phụ thuộc vào người có hành vi bạo lực…
Trên thực tế hiện nay thì Châu Á, Châu Phi hiện đang được đánh giá là khu
vực đứng đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình. Theo số
liệu đưa ra tại hội thảo khu vực ASEAN về nhạy cảm giới và các dịch vụ hỗ trợ
ngăn ngừa bạo lực gia đình đối với phụ nữ vào tháng 11 năm 2006 tại Thái Lan,
riêng khu vực ASEAN có 56% phụ nữ là nạn nhân của các vụ đánh đập gây
thương tích hay các vụ án mạng và 33% phụ nữ thường xuyên bị hãm hiếp hay
đe doạ tình dục. Đứng trước thực trạng nhức nhối trên, các quốc gia Châu Á, đặc
biệt là các nước khu vực ASEAN đã có những biện pháp tích cực để giải quyết
tình hình, giúp người phụ nữ khắc phục những hậu quả nặng nề của nạn bạo lực.
Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu cho các quốc gia khác. Để công tác
phòng, chống vi phạm pháp luật phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
đạt được hiệu quả cao trong thời gian tới, Việt Nam chúng ta nên học hỏi và tiếp

thu kinh nghiệm của các nước khác trong lĩnh vực này.
Chính vì vậy, nhiều quốc gia đã ban hành văn bản pháp luật riêng về bạo
lực gia đình với mục đích giải quyết có hiệu quả tình trạng bạo lực gia đình đối
với phụ nữ, chỉnh sửa các thủ tục hành chính và hình sự cho phù hợp với những
nhu cầu đặc biệt của các nạn nhân bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Cụ thể:


1.3.1. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia ở Châu Á có sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt
và là nước có nhiều kinh nghiệm trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. Điều quan
trọng nhất là đến nay Nhật Bản đã xây dựng được khung pháp lý về PCBLGĐ
khá hoàn thiện. Nhiều đạo luật quan trọng liên quan đến PCBLGĐ đã được
thông qua như: Luật về phúc lợi cho trẻ em (1947); Luật về đảm bảo cuộc sống
(1950) ; Luật về phúc lợi xã hội (1951); Luật về phúc lợi cho bà mẹ, trẻ em và
người goá (1964); Luật về cảnh sát; Bộ luật Hình sự; Luật về phòng, ngừa bạo
lực hôn nhân và bảo vệ nạn nhân năm 2001 và sửa đổi năm 2004 là đạo luật trụ
cột, làm cơ sở quan trọng để PCBLGĐ. Đạo luật này đã quy định một cách chặt
chẽ các vấn đề về bạo lực gia đình như: khái niệm về bạo lực gia đình; xử lý
người có hành vi vi phạm pháp luật phòng, ngừa bạo lực hôn nhân; quyền của
nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của Chính phủ và chính quyền địa
phương; chính sách và định hướng cơ bản của công tác PCBLGĐ...
Chính vì có hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, trách nhiệm pháp lý nghiêm
khắc được áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống
bạo lực hôn nhân, nên nhận thức của người Nhật Bản về bạo lực gia đình rất
cao, do vậy họ hiểu và thực hiện khá tốt PCBLGĐ; tình trạng vi phạm pháp luật
PCBLGĐ, bạo lực hôn nhân nói chung, bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngày
một giảm đi đáng kể.
Cùng với hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, Chính phủ Nhật Bản còn
thành lập các Trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân, các Tòa án
HNGĐ. Các trung tâm và Tòa án hôn nhân gia đình này có nhiệm vụ: 1. Tư vấn

cho các nạn nhân về các vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sống của họ hoặc giới thiệu
họ với các nhân viên tư vấn phụ nữ hoặc các tổ chức tư vấn thích hợp; 2. Tư vấn
hướng dẫn về y tế, tâm lý hoặc các vấn đề khác giúp họ phục hồi về tinh thần và
thể chất; 3. Cung cấp các biện pháp bảo vệ tạm thời cho nạn nhân và cả các
thành viên khác trong gia đình trong trường hợp có các thành viên khác trong
gia đình; 4. Cung cấp thông tin, tư vấn và thông tin cho các tổ chức liên quan,


cùng với các hình thức hỗ trợ khác có liên quan; 5. Cung cấp thông tin, tư vấn,
hợp tác, liên kết với các tổ chức liên quan, cũng như các hình thức trợ giúp khác
liên quan đến các cơ sở mà nạn nhân có thể sống và được bảo vệ...
Các trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân đã làm rất tốt nhiệm vụ
của mình và đây chính là một biện pháp rất hữu hiệu nhằm giúp người phụ nữ
tránh được bạo lực hôn nhân, khắc phục được những hậu quả nặng nề do bạo lực
gây ra, đem lại niềm tin trong cuộc sống cho những người phụ nữ. Như vậy, với
một hệ thống pháp luật hoàn thiện cùng với các biện pháp tích cực trong đó có
biện pháp thành lập các trung tâm tư vấn và hỗ trợ về bạo lực hôn nhân, Nhật
Bản là một trong các nước ở khu vực Châu Á đạt được kết quả cao trong việc
PCBLGĐ

đối với phu nữ. Những kinh nghiệm quý báu này là bài học quý giá cho

các nước khác trong đó có Việt Nam trong việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng
vi phạm pháp luật PCBLGĐ đối với phụ nữ.
1.3.2. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Đông Timo
Luật Chống bạo lực gia đình của Đông Timo có cách tiếp cận khá rộng đối
với việc phòng ngừa bạo lực gia đình. Theo đó, để phòng ngừa bạo lực gia đình
đối với phụ nữ xảy ra, Nhà nước phải:
Một là, tạo điều kiện để xây dựng một chương trình giáo dục về quyền con
người cho cả trường tiểu học lẫn trung học;

Hai là, tạo điều kiện để biên soạn một chương trình giáo dục về quyền con
người và các hình thức về bạo lực gia đình cho cảnh sát, công tố viên, thẩm
phán, luật sư tham gia giải quyết những vụ việc bạo lực gia đình;
Ba là, cung cấp thông tin cho quần chúng, những người lãnh đạo theo truyền
thống và trong cộng đồng về quyền con người, về bạo lực gia đình – một sự vi phạm
quyền con người;
Bốn là, các cơ quan chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng
cùng nhau phối hợp nỗ lực phòng ngừa bạo lực gia đình và giải quyết những yếu
tố kinh tế - xã hội làm tăng nguy cơ bạo lực gia đình.


Do sự nhạy cảm và phức tạp của các mối quan hệ gia đình, việc sử dụng
các biện pháp để phòng ngừa hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ trước khi
nó xảy ra và để lại những hậu quả đáng tiếc là rất cần thiết và quan trọng. Tuy
nhiên, việc này lại đòi hỏi một quá trình khó khăn và phức tạp. Những quy định
của Đông Timo về vấn này khá cụ thể, hướng tới những chủ thể quan trọng có
khả năng đem lại hiệu quả cao, rất cần được nghiên cứu và học hỏi.
Là một quốc gia còn rất trẻ nhưng Đông-ti-mo lại đặc biệt quan tâm đến
vấn đề PCBLGĐ đối với phụ nữ. Đông-ti-mo đã có rất nhiều hoạt động cũng
như kinh nghiệm PCBLGĐ từ đó hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật
PCBLGĐ đối với phụ nữ.
Đông-ti-mo có một hệ thống pháp luật về

PCBLGĐ

với các đạo luật cơ bản

như: Luật Hôn nhân gia đình; Luật Dân sự; Bộ luật hình sự; Luật chống bạo lực
gia đình và nhiều văn bản pháp luật khác. Bên cạnh hệ thống pháp luật, Đông-timo còn có nhiều sáng kiến và kinh nghiệm trong
lập hệ thống thông tin cho công tác


PCBLGĐ.

PCBLGĐ.

Đông-ti-mo đã thành

Theo hệ thống thông tin này, mỗi

huyện có một đường dây điện thoại chuyên sử dụng cho các vụ bạo lực gia đình.
Ngoài ra, ở nước này còn có một hệ thống Radio khẩn cấp được đặt ở những nơi
cần thiết để các cơ quan chức năng có thể tiếp cận một cách nhanh nhất với các
nạn nhân và thủ phạm bạo lực gia đình. Với các biện pháp như vậy, công tác
PCBLGĐ

sẽ đạt được hiệu quả, các vụ bạo lực gia đình sẽ được phát hiện kịp thời

đồng thời các chủ thể sẽ khác sẽ sợ không thực hiện hành vi bạo lực gia đình vì
có nguy cơ bị phát hiện. Các chủ thể sẽ tuân thủ pháp luật một cách nghiêm
chỉnh.
1.3.3. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Trung Quốc
Đây là một quốc gia phát triển mạnh về mọi mặt ở Châu Á, Trung Quốc là
quốc gia có dân số đông nhất thế giới (1,4 tỉ người). Trung Quốc có, nhiều kinh
nghiệm trong việc PCBLGĐ đối với phụ nữ. Mặc dù bị ảnh hưởng trong một
thời gian dài tư tưởng trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không có vai trò gì
trong xã hội, nhưng cho đến nay, Trung Quốc đã đạt được kết quả khá cao trong


×