Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu Luận - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới - Đề Tài - Phong Trào Văn Hóa Phục Hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.06 KB, 31 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>PHONG TRÀO VĂN HÓA PHỤC HƯNGA. Hồn cảnh ra đời</b>

<b>1. Điều kiện hình thành</b>

<i>Phục Hưng (tiếng Pháp: Renaissance,Phát âm tiếng Pháp: [ʁənɛsɑ̃ːs], </i>

<i>tiếng Ý: Rinascimento, từ ri- "lần nữa" và nascere "được sinh ra") là một phong trào văn </i>

hóa thường được xem là bao phủ giai đoạn từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, khởi đầu

tại Firenzi(Ý)vào Hậu kì trung đại,sau đó lan rộng ra phần còn lại của châuÂu ở những quy mô và mức độ khác nhau. Người ta cũng dùng từ Phục Hưng để chỉ, một cách không nhất quán, thời kỳ lịch sử diễn ra phong trào văn hóa nói trên.

Với tư cách một phong trào văn hóa, Phục Hưng bao hàm sự nở rộ của các nền văn học tiếng Latin cũng như các tiếng dân tộc, bắt đầu từ sự phục hồi việc nghiên cứu các tư liệu cổ điển, sự phát triển của phép phối cảnh tuyến tính và các kỹ thuật nhằm biểu diễn hiện thực tự nhiên hơn trong mỹ thuật, và một cuộc cải cách giáo dục tiệm tiến nhưng phổ cập.

<b>Điều kiện chủ yếu dẫn đến sự ra đời của văn hóa Phục hung là do sự xuất hiện của quan hệ tư bản chủ nghĩa.Trong khi đó ,những thành tựu về văn hóa từ thế kỉ 11-13</b>

còn xa mới đáp ứng được nhu cầu của giai cấp tư sản mới ra đời,đồng thời cho đến lúc bấy giờ,tư tưởng tình cảm của con người vẫn bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng khắt khe của giáo hội thiên chúa.Chính vì thế,giai cấp tư sản cần phải có hệ tư tưởng và nền văn hóa riêng phục vụ cho đời sống tinh thần của mình,để đấu tranh với hệ tư tưởng lỗi thời của giáo hội và giai cấp quý tộc phong kiến đang cản trở sự phát triển của xã hội

Diễn ra trong bối cảnh Tây Âu diễn ra nhiều sự kiện:

+ Các máy móc như: vành sắt, máy ngựa, vai cày, xe cút kít, cối xay gió, đồng hồ cơ học, giải toán học,..

+ Nhiều cuộc phát kiến lớn về địa lý mang lại những kết quả to lớn vầ sâu sắc đã thúc đẩy sự phát triển KT và thương mại mang tính chất thế giới rõ rệt, làm cho Tây Âu giàu lên nhanh chóng thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của giai cấp TS Châu Âu.

+ Đây là thời kỳ bùng nổ các cuộc cải cách tôn giáo và cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân chống lại các lãnh chúa phong kiến. Tiêu biểu là cải cách tôn giáo và chiến tranh nông dân Đức thế kỷ XVI.

+ Đây là thời kỳ CN chuyên chế thằng lợi sỏ một số nước lớn, CN dân tộc được hình thành.

+ Riêng Italia sở dĩ trở thành quê hương đầu tiên của Vh Phục Hưng vì phong trào ở đây ra đời sớm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

 <i><b>Đây vốn là quê hương của nền Vh La Mã cổ đại. La Mã lại tiếp thu nền văn minh Hy Lạp.</b></i>

<b>2. Nguyên nhân phong trào Văn hóa Phục hưng bắt nguồn từ Ý</b>

Có rất nhiều quan điểm khác nhau giải thích cho sự bắt đầu của phong trào Phục hưng tại Ý

Nhiều học giả cho rằng tư tưởng đặc trưng cho Phục hưng bắt nguồn từ thành

<b>phố Firenze (tức Florence) vào cuối thế kỷ 13, với văn chương của Dante </b>

<b>Alighieri (1265-1321) và Francesco Petrarca (1304-1374), cũng như các họa phẩm của Giotto di Bondone (1267-1337). Một số nhà văn xác định cụ thể điểm bắt đầu là năm 1401, khi hai tài năng kình địch Lorenzo Ghiberti và Filippo Brunelleschi tranh đua để giành hợp đồng xây dựng Nhà thờ Firenze . Những người khác sử gia nhận thấy sự cạnh tranh rộng rãi giữa các nghệ sĩ, bác học như Brunelleschi, Ghiberti, Donatello, vàMasaccio về phận sự của nghệ thuật như một sự khuấy động sức sáng tạo của Phục </b>

Hưng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều tranh luận về lý do tại sao thời kỳ Phục hưng lại bắt đầu tại Ý, và tại sao nó lại bắt đầu vào một thời điểm như thế.Bởi vậy, một số giả thuyết đã được đưa ra để giải thích nguồn gốc của Thời kỳ Phục Hưng.

<i><b>a. Tuy bị phân tán về chính tị nhưng do những điều kiện thuận lợi về địa lí,quan hệ</b></i>

<i>tư bản chủ nghĩa ở đây ra đời sớm nhất.Từ thế kỉ 13,ở miền bắc nước Ý có nhiềuthành phố rất phồn thịnh và thành lập thành những nước cộng hòa thành thị như: Phirenxê, Vênêxia, Giênova…,trong đó Phirenxê chủ yếu phát triển về cơng nghiệp,cịn Vênêxia và Giênơva chủ yếu phát triển thương nghiệp.</i>

Thành phố Phirenxê có hơn 300 xí nghiệp len dạ,trong đó thuê rất nhiều thợ làm việc.Đó là những cơng trường thủ cơng tư bản chủ nghĩa.Ngồi các nhà tư sản cơng thương nghiệp,ở đây cịn có hơn 100 chủ ngan hàng.

Vênêxia là một thành phố công thương nghiệp rất nổi tiếng ở châu Âu.Đặc biệt sau các cuộc viễn chinh của quân Thập tự,Vênêxia đã giàu mạnh rất nhanh chóng,với 3000 chiếc thuyền bn với khoảng 30000 thủy thủ thường xuyên tung hoành trên Địa Trung Hải để chuyên chở các mặt hàng như tơ lụa,hồ tiêu,quế đường…của phương Đông sang bán cho các nước ở phương Tây.Đồng tiền vàng đucát của Vênêxia được sử dụng rộng khắp toàn châu Âu.Bên cạnh thương nghiệp,các ngành cơng nghiệp như dệt tơ,đóng thuyền ,làm đồ thủy tinh… cũng rất nổi tiếng.

Giênôva cũng là một thành phố thương nghiệp quan trọng và là đối thủ của Vênêxia trong lĩnh vực buôn bán.Đến thế kỉ 15,ngân hàng thánh Gioóc ở đây đã phát hành giấy bạc đầu tiên và được thông dụng trên khắp thị trường châu Âu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i><b>b. Sự phục hồi văn minh La Mã cổ đại</b></i>

Ý vốn là quê hương của nền văn minh La Mã cổ đại,do đó cho đến thời bấy giờ ở đây vẫn giữ được nhiều di sản văn hóa về mặt kiến trúc,điêu khắc,văn học…Vì vậy,hơn ai hết ,các nhà văn nghệ sĩ Ý đã kế thừa truyền thống văn hóa rực rỡ của đất nước mình.Đến thế kỉ 14,15 khi về mặt kinh tế xã hội có những biến đổi quan trọng,họ đã có điều kiện để làm sống lại và phát triển thành tựu văn hóa đó. Đối lập hoàn toàn với thời Trung kỳ Trung Đại, khi các học giả Latin tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các cơng trình tiếng Hy Lạp và Ả Rập về khoa học tự nhiên, triết học và khoa học, các học giả Phục Hưng quan tâm chủ yếu đến việc khôi phục và nghiên cứu các tác phẩm văn học, lịch sử và hùng biện tiếng Latin và Hy Lạp. Nói một cách khái quát, điều này bắt đầu từ thế kỉ 14 với một giai đoạn Latin, khi các học giả Phục Hưng

như Petrarch, Coluccio Salutati (1331-1406), Niccolò de' Niccoli (1364-1437) và Poggio Bracciolini (1380-1459) lùng sục các thư viện châu Âu để tìm kiếm các cơng trình

của Cicero, Livy và SenecaTới đầu thế kỉ 15, một khối lượng lớn tư liệu Latin được khôi phục, và các học giả phương Tây bắt đầu chuyển sự chú ý sang các tác phẩm thần học, hùng biện, văn học, lịch sử Hy Lạp.

Khác với tư liệu Latin, những tư liệu Hy Lạp nhận được sự quan tâm rất hạn chế những thế kỷ đầu thời Trung Đại, trừ Byzantine vẫn tiếp tục nghiên cứu chúng như là di sản văn hóa chính thống của họ. Sự kiện thường được cho là đánh dấu sự trở lại của ngôn ngữ Hy Lạp trong nền học thuật châu Âu là vào cuối thế kỷ 14 khi Coluccio Salutati mời nhà ngoại giao và học giả Byzantine Manuel Chrysoloras tới Florence để dạy tiếng Hy Lạp.Đặc biệt các cuộc Thập tự chinh và sau đó là sự sụp đổ của thành Constantinopolis năm 1453 đã dẫn đến làn sóng tỵ nạn của các học giả Byzantine sang châu Âu định cư, mang theo một khối tư liệu Hy Lạp vô cùng quý giá

<i><b>c. Kinh</b> tế phát triển</i>

Do thời kì này kinh tế phát triển,trong các nước cộng hòa,thành thị ở Ý xuất hiện một tầng lớp rất giàu có. Để phơ trương cho sự giàu có của mình, họ đã xây dựng những lâu đài tráng lệ được trang sức bằng những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Tình hình đó đã có tác dụng khuyến khích rất lớn đến sự sáng tạo nghệ thuật của các nghệ sĩ mà trước hết là các nhà họa sĩ và điêu khăc.

Hơn nữa lúc bấy giờ các nhà văn nghệ sĩ còn nhận được sự bảo trợ của những người đứng đầu các nhà nước như họ Mêđixi ở Phirenxê,..thậm chí cả các giáo hoàng Xixtơ 4,Giulo 2…ở La Mã nữa. Nhờ vậy họ càng có điều kiện tập trung trítuệ và tàinăng của mình vào cơng việc lao động sáng tạo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>d. Dịch</b> hạch</i>

Một số người lập luận rằng sự tàn phá của Cái chết Đen ở Firenze, đổ bộ vào châu Âu vào những năm 1348-1350, dẫn đến một sự thay đổi thế giới quan của người Italia thế kỉ 14. Italia là nơi chịu ảnh hưởng đặc biệt khốc hại của trận dịch hạch này, và người ta phỏng đốn rằng sự quen thuộc với chết chóc và bất lực của đức tin đã khiến cho nhiều nhà tư tưởng nhìn vào hiện thực trên trần gian hơn là tính tinh thần và thế giới bên kia. Có người suy luận hồn tồn khác, cho rằng Cái chết Đen đã làm gia tăng lòng mộ đạo thể hiện trong sự bảo trợ các tác phẩm nghệ thuật tơn giáo . Nhưng dù sao thì dịch hạch chỉ là một yếu tố, kết hợp với các yếu tố trên để giải thích sự xuất hiện Phục Hưng ở Ý.

Mầm mống bệnh dịch đến từ những chiếc thuyền buồm trở về từ các cảng

<b>châu Á mang theo bọ chét và nhanh chóng lan rộng ro sự thiếu vệ sinh và y tế đương </b>

thời. Dân số Florence đã giảm gần một nửa chỉ trong năm 1347, kéo theo đó là một sự thiếu hụt nhân công lao động. Lương của người lao động tăng đáng kể, và người bình dân nhờ đó mà có nhiều tự do hơn, thậm chí cịn du hành đi tìm những nơi có điều kiện làm việc thuận lợi nhất.

Sự suy giảm nhân khẩu đột ngột gây ra nhiều hậu quả kinh tế khác: giá thực phẩm và giá đất đai tụt mạnh từ 30 tới 40% ở nhiều miền ở châu Âu trong một nửa thế kỉ 1350-1400.Những người sống sót trận dịch hạch hưởng quyền thừa kế những tài sản của những người quá cố, cũng như giá nhu yếu phẩm dễ chịu. Ở Firenze, đã có lúc thành phố rơi vào hỗn loạn tới mức hội đồng thành phố khơng thể nhóm họp, nhưng nhìn chung chính quyền vẫn duy trì hoạt động trong thời kì này.

Đến thế kỉ 15 và nhất là thế kỉ 16 chủ nghĩa tư bản cũng ra đời ở Anh và tiếp đó lan ra các nước Tây Âu khác như Pháp,Tây Ban Nha, Nêđéclan,Đức…Vì vậy phong trào Văn hóa Phục hưng có điều kiện phát triển sang các nước Tây Âu khác.

<b>B. Những thành tựu chính</b>

<b>I.Văn học</b>

<i>Mỗi thời đại lịch sử đều có một nền nghệ thuật tương xứng “xã hội thế nào thì vănnghệ thế ấy”. Khi đề cập đến nền văn học Phục hưng – nền văn học đã góp phần thanh tốn thời trung cổ phong kiến, người ta nghĩ ngay đến một nền văn học mn màu mn sắc. Đây là thời kì nền văn học châu Âu bước vào một trào lưu mới với chủ nghĩa nhân văn làm nền tảng cơ bản. Thời kì đó kéo dài trong hai thế kỉ XV-XVI, là một bước ngoặt </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>lịch sử với việc làm sống lại, làm mới lại một nền văn hóa đã bị “bóng mà thời trung cổ”nhấn chìm. </i>

<i>Nền văn học Phục hưng về cả ba thể loại thơ, tiểu thuyết, kịch đều có những tác phẩm cógiá trị, gắn liền với tên tuổi nhiều tác giả nổi tiếng.</i>

<b>1. Thơ</b>

<b>a. Dante</b>

Nhà thơ lớn nhất đồng thời là người mở đầu cho phong trào văn hóa phục hưng là Dante (1265-1321).

Dante xuất thân từ một gia đình kị sĩ suy tàn ở Firenze. Dante không chỉ say mê thơ ca cổ đại mà cịn có kiến thức un thâm về thần học, triết học, thiên văn học. Năm 1295, Dante tham gia hoạt động chính trị, đứng về phía đảng Trắng (phái ủng hộ nhà vua). Đảng Trắng thất bại, ông bị trục xuất khỏi Firenze và phải sống lưu vong ở các thành thị miền Nam nước Ý cho đến chết. Chính trong thời gian lưu vong này, ông đã

<i>cho ra đời hai kiệt tác: Cuộc đời mới và Thần khúc.</i>

<i>“Cuộc đời mới” được sáng tác trong thời kì đầu. Tác phẩm bao gồm cả thơ và văn xuôi xen kẽ. Cuộc đời mới gồm 42 chương ngắn. Dante diễn giải mỗi bài thơ, đặt chúng </i>

trong bối cảnh của cuộc đời mình. Các bài thơ trong tác phẩm gồm có 3 phần: những câu chuyện ngắn bán tự truyện, những bài thơ trữ tình được Dante xuất khẩu thành thơ nhờ hoàn cảnh và các bài luận ngắn về các bài thơ.

Đây là tác phẩm Dante viết để tưởng nhớ người bạn gái thời thơ ấu là Beatrice. Beatrice là một cô gái ngây thơ xinh đẹp mà ngay từ hồi lên 9 tuổi ơng đã đem lịng u mến. Beatrice chỉ khẽ nghiêng mái đầu cúi chào mà đã làm cho chàng trai Dante lâng lâng khôn tả. Hễ nhìn thấy Beatrice là Dante lại luống cuống, xúc động, không thể làm chủ được bản thân và tự nhủ lịng sẽ khơng bao giờ tìm gặp Beatrice nữa. Tình yêu này được Dante miêu tả rất tỉ mỉ trong tác phẩm Cuộc đời mới. Mặt khác, vì rụt rè, nàng tưởng ông không yêu nên đi lấy chồng và chẳng may chết sớm năm 24 tuổi. Dante khóc suốt một năm rịng và tương truyền rằng người đời khơng bao giờ cịn được nhìn thấy ơng cười nữa.Tình u đối với Beatrice đã theo Dante cho đến hết cuộc đời, cả khi ông kết hơn và có con thì tình u này vẫn khơng hề thun giảm. Tình u này là nguồn cảm

<i>hứng bất tận cho Dante viết hai kiệt tác Cuộc đời mới và Thần khúc. </i>

Là tác phẩm Dante viết trong suốt 20 năm sống lưu vong, cho đến khi chết vẫn chưa hoàn thành trọn vẹn. Toàn bộ tập thơ gồm 100 chương với 14226 câu thơ, ngoài chương lời tựa, nội dung chính được chia làm 3 phần: Địa ngục, tĩnh giới (nơi rửa tội) và thiên đường, mỗi phần gồm 33 chương. Nội dung tác phẩm kể về giấc mộng mà tác giả

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

được nhà thơ nổi tiếng của La Mã cổ đại- Vergilius dẫn đi xem địa ngục và tĩnh giới, tiếp đó được nàng Beatrice- tình u cả đời của ơng dẫn đi xem thiên đường.

Trong tác phẩm vĩ đại này, Dante đặt ra cho mình một mục đích vĩ đại: giúp lồi người thoát khỏi nỗi sợ hãi trước cái chết. Nhiệm vụ này ở thời bấy giờ là vô cùng quan trọng: trong linh hồn con người có một nỗi sợ về những cực hình ở Địa ngục mà người ta vẫn nghe qua những lời rao giảng và thuyết giáo. Dante không khuyên người đời quên đi cái chết, Dante tin rằng Địa ngục là có thật và chỉ có sự can đảm, danh dự và tình

<i>u có thể giúp con người thoát khỏi địa ngục. Thần khúc là một tác phẩm được trao một</i>

sứ mạng lịch sử đặc biệt: nó là sự tổng hợp những kiến thức triết học và nghệ thuật của văn hóa Trung cổ , đồng thời nó cũng là cầu nối liền với văn hóa thời đại Phục hưng. Tính chất Phục hưng trong tác phẩm nổi bật ở thái độ khẳng định và tôn vinh cuộc sống với những hoan lạc trần thế, niềm khát khao hiểu biết thế giới, những ước mơ cuộc sống hạnh phúc, trong sạch, đẹp đẽ hiện hữu ở thế giới thực tại này chứ không phải là ở thế giới bên kia. Người ta vẫn gọi Thần khúc là “kinh thánh của thời trung cổ”.

<b>b. Petrarca</b>

Ngồi Dante, cịn có nhà thơ trữ tình Ý- Petrarca (1304-1374), người được xem như ông tổ của thơ mới châu Âu. Trong tác phẩm của mình, ơng ca ngợi tình u lí tưởng, ca ngợi sắc đẹp, ca ngợi sự tự do tư tưởng và chống lại sự gị bó kinh điển.Thi

<i>phẩm nổi tiếng nhất của ông, tập Quyển sách những bài ca là tập thơ ca ngợi tình yêu</i>

tặng nàng Laura, người mà ông yêu suốt đời và trở thành bất tử trong thơ của ông. Tập

<i>thơ gồm 366 bài sonneto mẫu mực và nhiều bài thơ khác, chia làm 2 phần: Những bài ca</i>

<i>về cuộc đời của người đẹp Laura và Những bài ca về cái chết của người đẹp Laura. Petrarca nhìn thấy Laura buổi sáng ngày 6 tháng 4 năm 1327 trong 1 nhà thờ ở Avignon.</i>

Ngày thứ sáu định mệnh đó, chàng thi sĩ Petrarca đã yêu nàng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Khi đó Laura đã lấy chồng được 2 năm, sau này nàng có 11 đứa con. Cịn chàng thi sĩ sau lần gặp cái ánh mắt ấy suốt 21 năm trời ngồi làm thơ ca ngợi một thiếu nữ trinh bạch và thanh khiết.

<b>2. Tiểu thuyết</b>

<i><b>Nổi bật là 3 nhà văn lớn: Boccacio, F. Rabelais và Cervantes.</b></i>

<b>a. Boccaccio</b>

Về lĩnh vực này trước hết phải kể đến Boccacio (1313-1375), nhà văn Ý được đặt ngang hàng với hai nhà thơ Dante và Petrarca và được gọi chung là “Ba tác giả

<i>lỗi lạc”. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tập truyện ngắn Mười ngày. Tác phẩm gồm</i>

100 câu chuyện do 3 chàng kị sĩ trẻ và 7 cô gái kể cho nhau nghe để đỡ buồn trong 10 ngày về sống tại một ngôi nhà ở nông thôn để tránh nạn dịch hạch xảy ra ở Firenze năm 1348. Với lối văn châm biếm, dí dỏm, các câu chuyện ấy hoặc là kể lại những chuyện

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

trong thần thoại, truyền thuyết, hoặc là những câu chuyện của phương Đông, nhưng nhiều nhất vẫn là những câu chuyện khai thác trong xã hội đương thời, trong đó đề cập đến nhiều đối tượng như lái buôn, tu sĩ, quý tộc…Nội dung truyện gồm 2 phương diện: thứ nhất là phê phán, vạch trần sự tàn bạo của vua chúa phong kiến cũng như tội ác của giáo hội Kito. Thứ hai là ca ngợi sự tự do của nhân dân, đặc biệt là sự tự do tình yêu, ca ngợi sự thơng minh tài trí của nhân dân. Mười ngày là tác phẩm mang tính chất vạch thời đại cao, tác phẩm làm nổi bật hình ảnh con người bình thường với những tính chất nhân

<i>bản sâu sắc, đối lập với những kẻ cao sang quyền thế. Với Mười ngày, Boccacio cũng</i>

được đưa lên hàng ngũ những nhà nhân văn chủ nghĩa thế kỉ 14-15.

Sau khi phong trào Văn hóa Phục hưng lan rộng sang các nước Tây Âu khác, ở Pháp và Tây Ban Nha đã xuất hiện hai nhà văn nổi tiếng, đó là F.Rabelais và Cervantes.

<b>b. Rabelais</b>

Rabelais (1494-1558) lúc còn nhỏ đi tu, sau ra khỏi tu viện học ngành Y và khoa học tự nhiên. Ơng cịn tinh thơng các mặt văn học, triết học, pháp luật, thực vật

<i>học, kiến trúc. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết trào phúng Gargantua và</i>

<i>Pantagrue (Gácgăngchuya và Păngtagruyen).</i>

Gargantua là một người khổng lồ vừa mới lọt lòng mẹ đã đòi “uống”. Người ta phải lấy sữa của 170.913 con bò cho uống mới đủ. Con của Gargantua là Pantagruel cũng là một người khổng lồ. Anh có một người bạn tên là Panurge. Sau khi đôi bạn này đi đánh thắng giặc ngoại xâm trở về, Panurge có một băn khoăn là có nên lấy vợ hay khơng. Khơng ai giải đáp được thắc mắc đó nên hai người phải đi đến xứa Cate (Trung Quốc) để hỏi lọ nước thần

Chính trong cuộc hành trình ấy, họ đã đặt chân tới nhiều xứ sở kì lạ như đến hịn đảo của những người chuyên giơ lưng chịu đấm để đòi tiền bồi thường, đến hịn đảo của các lồi chim chỉ biết hót và ăn cho béo, của lồi mèo xồm chuyên môn ăn hối lộ…Cuối cùng họ đã đến được ngôi đền “Lọ nước thần” và được nghe phán mỗi một tiếng “Uống”!

Bề ngồi tác phẩm có vẻ hoang đường nhưng nội dung lại nói về người thực việc thực trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là giáo hồng, giáo sĩ, vua, quan, là cuộc sống lười biếng, ăn bám, là những việc làm xấu xa đầy rẫy trong cuộc sống hàng ngày. Đây là một tác phẩm phê phán rất có giá trị.

<b>c. Cervantes</b>

Cervantes (1547 – 1616) là một nhà văn lớn và là người đặt nền móng cho nền văn học mới Tây Ban Nha. Ông xuất thân từ một gia đình quý tộc sa sút, thời trẻ tính thích phiêu lưu mạo hiểm. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, đồng thời cũng là kiệt tác của văn học thế giới là Don quixote.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Câu chuyện theo bước chân của Quixada (Ki-xa-da), một nhà quý tộc nhỏ sa sút, khoảng 50 tuổi, vẫn chưa có vợ say mê truyện hiệp sĩ đến độ cuồng si. Quixada quyết định trở thành hiệp sĩ lang thang, chu du khắp bốn phương trời để cứu khốn phò nguy, diệt trừ yêu quái và những lũ khổng lồ, thử thách mình bằng các hiểm nguy như trong các truyện kiếm hiệp. Chàng ta đổi tên là Don Quixote de la Mancha (nhà hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Mancha) rồi nhờ một tên chủ quán, vốn xuất thân từ tầng lớp hạ lưu, phong cho mình là hiệp sĩ. Để có tiền đi hành hiệp, Don Quixote bán nhà và vay một số tiền khổng lồ từ một người bạn. Chàng đem bộ áo giáp của ông cha để lại đã bị han rỉ và thủng lỗ chỗ ra đánh bóng, phong cho con ngựa gầy cịm của mình cái tên rất kêu Rocinante (Rơ-xi-nan-tê), và để đúng mốt của một hiệp sĩ lang thang phải có một người tình xinh đẹp, chàng tơn thờ một phụ nữ nông dân làng bên chưa quen biết làm “bà chúa của lịng mình” và đặt cho cô ta cái tên duyên dáng, nàng Dunxine (Đun-xi-nê) xứ Tobozo.

Với bộ trang phục kị sĩ tổ tiên để lại, Don quixote cưỡi một con ngựa gầy cùng với Sancho Panza béo lùn cưỡi một con lừa thấp lè tè lên đường vào giang hồ. Từ đó, Don quixote có nhiều hành động vừa buồn cười vừa đáng thương như chiến đấu với cối xay gió vì tưởng đó là ma quỷ khổng lồ, đánh đàn cừu đang gặm cỏ vì tưởng là đồn qn tà giáo…

Cuối cùng, sau rất nhiều cuộc phiêu lưu, kiệt sức, Don Quixote trở về nhà trong tình trạng ốm thập tử nhất sinh. Khi chết, Đôn Ki-hô-tê tỏ ra là một người đáng mến, tỉnh táo và nhận thức được tai hại của những cuốn truyện hiệp sĩ mà mình đã từng đọc.

Trong tác phẩm, Don quixote được miêu tả trở thành một người có phẩm chất cao quý, là kẻ bảo vệ tự do và chính nghĩa. Người nơng dân Sancho Panza tuy có vẻ ngây ngơ nhưng lại thơng minh lanh lợi, chí cơng vơ tư. Xây dựng một người nơng dân thành một trong hai nhân vật chính của tác phẩm và gán cho nhân vật những phẩm chất tốt đẹp như vậy là điều rất hiếm thấy lúc bấy giờ.

<b>3. Kịch</b>

William Shakespeare (1564 – 1616) được đánh giá là nhà văn vĩ đại nhất nước Anh và nhà soạn kịch đi trước thời đại. Những vở kịch của ông đã được dịch ra thành rất nhiều ngôn ngữ lớn và được trình diễn nhiều hơn bất kì nhà viết kịch nào. Trước đó, việc diễn kịch trong dân gian ở nước Anh đã rất thịnh hành. Nhưng để nghệ thuật kịch đạt đến đỉnh cao phải nói đến những đóng góp to lớn, giá trị của Shakespeare. Trong 20 năm hoạt động sáng tác, Shakespeare đã để lại 36 vở kịch gồm hài kịch (Đêm thứ mười hai, Theo đuổi tình u vơ hiệu, Người lái bn thành Venezia…), bi kịch (Romeo và Juliet, Hamlet, Vua Lear, Othello…), kịch lịch sử (Richard II, Richard III, Henry IV…). Ông đã đưa lên sân khấu các nhân vật thuộc tất cả các tầng lớp trong xã hội, đề

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

cập đến nhiều mặt, nhiều mâu thuẫn phức tạp trong cuộc sống xã hội vào giai đoạn cuối phong kiến, đầu tư bản.

<i><b>Hamlet là một trong những vở kịch tiêu biểu và nổi tiếng nhất của</b></i>

<i>Shakespeare. Hamlet là một vở bi kịch, cốt truyện có nguồn gốc từ truyện dân gian thờitrung cổ. Cốt truyện Hamlet xoay quanh nhân vật trung tâm là Hamlet, hoàng</i>

tử nước Đan Mạch. Chàng gặp một cảnh ngộ éo le: vua cha vừa chết được hai tháng thì mẹ chàng tái giá lấy Claudius, chú ruột của chàng. Hồn ma của vua cha hiện về báo cho chàng biết Claudius là kẻ đã giết mình để chiếm đoạt ngai vàng và Hồng hậu. Hamlet từ đó lịng tràn đầy căm phẫn, giả điên để che mắt kẻ thù. Tình hình trở nên căng thẳng hơn khi Hamlet cho mời một đoàn kịch vào hoàng cung diễn một vở kịch. Xem đến kịch cảnh một đôi gian phu dâm phụ mưu sát nhà vua, Claudius hoảng hốt bỏ về rồi vào phòng riêng cầu nguyện. Hamlet theo sát và đứng ngay sau y nhưng chàng lại không hành động. Claudius lập mưu trừ khử Hamlet, hắn cho hai tên tay sai hộ tống Hamlet sang Anh với mật lệnh giao cho vua Anh phải giết ngay Hamlet nhưng thất bại.Claudius tiếp tục tổ chức một cuộc đấu kiếm giữa Laertes (con của vị đại thần bị Hamlet giết) và Hamlet, mũi kiếm của Laertes tẩm thuốc độc. Hamlet bị đâm trúng. Khi biết được cạm bẫy của nhà vua, căm phẫn tột độ, Hamlet đã dùng mũi kiếm tẩm độc ấy kết liễu nhà vua. Vở bi kịch kết thúc với việc Fortinbras, sau khi chinh phục được Ba Lan trở về, lên ngơi vua trị vì vương quốc Đan Mạch trong tiếng đại bác, tiếng quân nhạc tiễn đưa linh hồn Hamlet về nơi yên nghỉ.

Tác phẩm phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Thực tế xã hội xấu xa mâu thuẫn với lý tưởng của Hamlet, khiến chàng phải đánh giá lại tất cả và tìm cho mình một thái độ cư xử phải đạo.Q trình đó đã gây ra trong tâm hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan, hoài nghi, do dự, từ đó đặt ra vấn đề “tồn tại hay khơng tồn tại”. Tác phẩm đã nhiều lần được chuyển thể thành phim, phiên bản gần đây nhất là vào năm 2009.

<b>II.Nghệ thuật hình khối</b>

Phục hưng ở Italia

phát triển rực rỡ trên cơ sở những phát minh khoa học: tìm ra luật viễn cận,tìm ra chất liệ u sơn dầu.sau đó lan rộng sang các nước khác…

Ở thời kỳ Phục Hưng, bản chất cái đẹo được đề cao. Các nghệ sĩ

cố gắng diễn tả một con người đẹp hồn hảo. Kích thước và tỉ lệ lý tưởng đều đóng một vai trị trong việc diễn tả cơ thể con người trong hội họa và điêu khắc cũng như trong phác thảo kiến trúc. Với cách phối cảnh cổ điển các nghệ sĩ đã phát triển một phương phá p để diễn tả sự rút ngắn trong chiều sâu khơng gian với tính chính xác của tốn học.

<b>III.Hội họa : </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b> Đặc điểm: Hội họa thời kỳ này nổi bật lên với chủ nghĩa hiện thực. Các </b>

họa sỹ thời phục Hưng thường lấy đề tài tôn giáo để thể hiện cái đẹp,để diễn tả cuộc sống và con người, họ khơng vẽ theo cơng thức

gị bó như nghệ thuật Trung cổ (tranh thời Trung cổ mang tính trang trí hơn tính tạo hình, chỉ diễn tả khơng gian hai chiều nên khơng diễn tả được chiều sâu; hình dáng con người thường còm nhom, ốm yếu, thiếu sức sống…) mà học hỏi cái đẹp từ thời Hy Lạp, La Mã, từ thiên nhiên.Chính vì thế mà phần lớn các bức tranh của nghệ thuật Phục Hưng là các bức tranh thờ và bích họa có nội dung tôn giáo được vẽ cho nhà thờ,tranh với các đề tài trần tục hay thần thoại không mang tính tơn giáo,huyền thoại anh hùng hay thần thánh lịch sử Cổ đại và chân dung cá nhân của những danh nhân đương thời.Bên cạnh đó cũng xuất hiện các tranh về phong cảnh và phong tục diễn tả cuộc sống thời bấy giờ.

Các họa sỹ thời phục Hưng đã từng bước phát tiển nền hội họa từ những cách vẽ đơn giản, chỉ mang tính trang trí,khơng đề cập đến khơng gian ba chiều chưa diễn đạt chiều sâu của khơng gian,hình tượng nhân vật

vẽ mảng bẹt, phẳng, ít tả khối, hoặc chỉ gợi khối đơn

giản…đến có sự xa dần sơ khai,có ánh sáng sơ bộ,rồi đến trình độ các nhân vật có sự sinh động linh hoạt,tranh mang nhiều nét thực,các nhân vật có xa gần,có phong cảnh làm nền,màu sắc bố cục cân đối hài hịa và sau đó là sự hoàn hảo đến tột cùng ; hệ thống ánh sáng trong tranh rõ ràng, các mảng sáng tối trên nhân vật sắc

nét, tương phản, được gợi khối trịn và có sự mềm mại. chiều thứ ba của không gian được diến tả tốt nhờ sự chắc chắn về hình đậm nhạt và tương quan nóng lạnh của máu sắc trong tranh. Ngoài cái đẹp vè hình thể, khối, tác giả cịn thể

hiện được rõ tình cảm trên khn mặt nhân vật trong tranh.Các hoạ sĩ đưa không gian thấ u thị vào tranh và áp dụng những luật vờn khối theo sáng tối họ diễn tả cơ thể khỏa thân của con người bằng các tỷ lệ lý tưởng. Cách cấu trúc tranh cân bằng hài hòa và đối xứng được hỗ trợ bằng những hình dáng tam giác, bán nguyệt hay hình trịn là phong cách cấu trúc thường được ưa chuộng,nhờ đó con người và thiên nhiên được diễn tả rất sâu về khối, tình

cảm, y phục và bối cảnh, các qui luật về bố cục, màu sắc không gian, tỉ lệ ánh sáng đến cách diễn tả đều đạt tới sự hoàn hảo.

+Người mở đầu cho xu hướng hiện thực chủ nghĩa trong hội họa là Giotto, khơng những vì các nhân vật trong tranh sinh động mà cịn vì họa pháp lập thể do ông thể hiện.(tranh minh họa). Tuy nhiên Giotto mới chỉ là bước

đầu khám phá không gian vào trong tranh, có sự xa gần chưa cụ thể, mới chỉ là sơ khai, c hưa tách bạch, chiều sâu chưa lớn, chưa rõ ràng...,

<b>Giotto di Bondone (sinh 1267 - mất 8 tháng 1 1337), được biết đến với cái tên </b>

đơn giản Giotto, là một họa sĩ và kiến trúc sư người Ý. Ông được coi là một trong những hoạ sĩ vĩ đại nhất thời kỳ Phục hưng, là người “trong những thời kì đen tối nhất, đã chỉ ra cho những người tài giỏi đi sau con đường dẫn đến hoàn mỹ”.Các tác phẩm bích họa của ơng cho nhà thờ Scrovegni Chapel ở Padua, thường được gọi là Arena Chapel, hoàn

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

thành khoảng năm 1305, mô tả cuộc đời của Đức mẹ Đồng Trinh và chúa Jesus. Đây được coi là một trong những kiệt tác của thời kỳ đầu Phục Hưng. Giotto sau đó được chọn thiết kế campanile (tháp chuông) mới cho nhà thờ Florence. Sự tích về cuộc đời của Giotto cũng luôn là một đề tài bàn luận, như các vấn đề về: ngày sinh, nơi sinh của

Giotto, quãng đời khi ơng học nghề, liệu ơng có điêu khắc các bức bích họa tại Assisi, hay ơng được chơn ở đâu sau khi mất.

<b>Sau Giotto là Masaccio (1401-1428). Ông là người đã phát triển và đưa chủ </b>

nghĩa hiện thực trong hội họa lên một tầm cao mới cũng đồng thời là người phát hiện ra quy luật cận viễn.(thơng tin tìm vs từ khóa Lịch sử mỹ thuật thế giới – hội họa thời kì phục hưng)

 <i><b>NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG HỘI HOẠ THỜI PHỤC HƯNG</b></i>

Các tác phẩm mang tư tưởng nhân văn: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, sức mạnh con người.

Bỏ lối vẽ chi tiết cũ sang khái qt hóa hình thức hồnh tráng.

Tìm chỗ dựa ở nghệ thuật cổ đại Hy lạp - La mã. Nghiên cứu giải phẫu - xa gần. Họa sĩ phục hưng Italy, chỉ chuyên đề tài đạo thiên chúa.

Tranh của sự mẫu mực.

Tả chất vô cùng độc đáo với làn da mềm mại của người phụ nữ và cơ bắp của đàn ông…

Tạo hình khốc liệt, có sức mạnh chiều sâu của luật xa gần. Lần đầu tiên sử dụng sơn dầu làm chất liệu

Sử dụng luật phối cảnh tạo chiều sâu

Các hoạ sĩ vẽ rất nhiều tranh khỏa thân, ngay cả trong tôn giáo, các thiên thần, thánh thần…

 <b>Hội hoạ thời Phục Hưng là đỉnh cao của hội hoạ, là bước ngoặt củanền mĩ thuật thế giới, đóng vai trị quan trọng trong cơng cuộc phát triển nhiều lĩnh vực như: tìm ra chấtliệu sơn dầu, phát triển bộ mơn giải phẫu tạo hình, luật xa gần, phối cảnh, hình hoạ, nhiếpảnh…Là nơi sản sinh rất nhiều nhân tài nghệ thuật, nhiều hoạ sĩ nổi tiếng, nhiều tác phẩm để đời cho cả thế giới. </b>

<b>IV.Kiến trúc : </b>

_ Kiến trúc Phục Hưng thường được chia làm ba giai đoạn chính: +Phục Hưng hay Sơ kỳ Phục Hưng (thế kỉ 15),

+Trung kỳ Phục Hưng (1500-1525), +Trường phái kiểu cách (1525-1600).

_ Các tòa nhà thời kỳ Phục Hưng được xây theo phong cách mới, các kiến trúc sư nhấn mạnh vào tính đối xứng, tỷ lệ, tính đều đặn của các yếu tố.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

_ Một trong những cơng trình tiêu biểu nhất về kỹ thuật xây dựng mái vịm là Nhà thờ chính tịa Florence Nhà thờ Santa Maria del Fiore hay còn gọi là nhà thờ chính tịa nằm ở trung tâm thành phố Florence, Italy. Cơng trình được xây dựng theo lối kiến trúc Gothic – đặc trưng kiến trúc cổ của Italya trong khoảng từ thế kỷ XIII đến XV.

_ Santa Maria del Fiore là một trong 4 nhà thờ lớn nhất thế giới, được xây dựng từ năm 1296 do kiến trúc sư Arnolfo di Cambio thiết kế. Sau hơn một thế kỷ (năm 1436) cơng trình kiến trúc kỳ vĩ này mới được hoàn thành. Riêng các mái vòm của nhà thờ là thiết kế của kiến trúc sư Filippo Brunelleschi. Với đường kính 45m, mái vịm của nhà thờ là mái vòm lớn nhất thế giới.

Bên ngồi nhà thờ được trang trí hồn tồn bằng đá cẩm thạch với nhiều màu sắc độc đáo khác nhau như màu xanh lục hay màu hồng giáp trắng.

Sau khi xây xong, nhà thờ Santa Maria del Fiore đã trở thành nhà thờ lớn nhất Italy và không chỉ người dân ở Florence mà ở các vùng lân cận cũng thường xuyên đến đây cầu nguyện. Tuy nhiên, số lượng người đến cầu nguyện ngày một tăng khiến cho những người quyền lúc bấy giờ phải ra lệnh xây dựng thêm nhiều nhà thờ nhưng với quy mơ nhỏ hơn. Chính vì vậy, Santa Maria del Fiore trở thành nhà thờ chính tịa. Từ khoảng thế kỉ 16, kiến trúc Phục Hưng Ý bắt đầu lan ra các miền khác của châu Âu, thay thế dần cho phong cách Gothic đang thống trị đương thời. Nhiều nghệ sĩ Ý được các triều đình, lãnh chúa đón rước và trả cơng hậu hĩnh cho việc xây cất, tuy nhiên cũng xuất hiện một số kiến trúc sư khơng phải người Ý có tiếng tăm, như Philibert de l'Orme (Pháp), de Toledo (Tây Ban Nha) và Inigo Jones(Anh)

<b>V.Điêu khắc : </b>

Điêu khắc Phục Hưng được cho là có một điểm khởi đầu tương đối rõ ràng, với cuộc tranh đua giành hợp đồng xây dựng Nhà thờ Florence. Ghiberti, người chiến thắng, đã giới thiệu một phong cách cách tân rõ rệt so với nghệ thuật Gothic, với những chạm khắc bằng trên cánh cửa đồng của tu viện mang đậm nét cổ điển với nhiều tầng lớp có chiều sâu và hậu cảnh phong phú. Chất liệu được ưa chuộng thời kỳ đầu Phục Hưng là tượng đồng sử dụng phương pháp đúc mẫu chảy, sau đó chuyển dần sang tượng đá hoa cương, cẩm thạch

Phong cách của Ghiberti được tiếp nối bởi người từng là phụ tá của ơng, Donatello, sau đó là Andrea del Verrocchio và học trị của ơng là Leonardo da Vinci. Thời kỳ cũng chứng kiến xu hướng các tượng trong nhà thờ được trang trí bên trong thay vì các vườn tượng bên ngồi, trong khi các tượng đặt nơi công cộng như quảng trường, nhất là tượng bán thân, trở nên phổ biển, mô tả không chỉ những người đàn ông tiếng tăm

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

mà đôi khi cả phụ nữ, trẻ em. Điêu khắc Phục Hưng đạt đến đỉnh cao với Michelangelo, với khoảng 20 năm đầu thế kỉ 16 ông dành cho nghệ thuật đã để lại các kiệt tác về mô tả cơ thể và cảm xúc con người như David, Pietà, Moses, cụm tượng mộ Giáo hoàng Julius II

<b>Sang đầu thế kỉ 16, nền nghệ thuật thời phục hưng đạt đến đỉnh cao.Nổi bật</b>

lên là tên tuổi của các danh họa, các nhà điêu khắc không thể không kể đến. Mà đầu tiên là Leonardo da Vinci.

<b>Leonardo da Vinci : </b>

(1452-1519) sinh ở thị trấn Vinci vùng Tuscan,thuộc thung lũng hạ lưu sơng Arno vùng lãnh thổ cộng hịa Medici –cộng hịa Florence. Ơng là con ngồi giá thú của công chứng viên Ser Piero và con gái của một người nơng dân.Leonardo lớn lên trong gia đình của cha ông và sống phần lớn thời gian thời niên thiếu tại

Florence .Năm 1470 Da Vinci vào làm việc tại xưởng vẽ của Verocchio- một nghệ nhân hàng đầu trong nghề hoàn kim,điêu khắc và trong hội họa đương thời.Chẳng bao lâu thì ơng đã học hết tất cả những gì Verocchio dạy mà thậm chí cịn làm tốt hơn thế.Năm 1972,ở tuổi 20 ông đã có tên trong danh sách của phường hội họa sỹ thành phố

Florence.Ơng nhanh chóng có được sự đón nhận của giới nghệ thuật vafboir những tác phẩm kiệt xuất của mình .

Ơng khơng những là một họa sĩ lớn mà cịn là một ng có kiến thức uyên bác về toán học, vật lý, thiên văn học, địa lý học, giải phẫu học, triết học, âm nhạc, điêu khắc,...Ơng là người có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình,đặc biệt là khái niệm máy bay trực thăng,xe tăng, dù nhảy, ...

Ơng thiên về mơ tả tính cách,nội tâm và hoạt động nhân vật.

 <i><b>Một số tác phẩm nổi tiếng : </b></i>

<b>+ </b>

<i><b> Bữa tiệc cuối cùng</b></i><b> (nhà thờ Santa Maria delle Grazie)(ảnh)</b>

Bức tranh của Vinci mô tả lại một đoạn trong sách Kinh Thánh rằng: Judas — một trong số các môn đệ của Chúa Giêsu — nộp Thầy của mình cho các lực lượng đối lập với Chúa Giêsu lúc bấy giờ, là giới lãnh đạo tôn giáo và nhà cầm quyền La Mã để đổi lấy 30 đồng bạc. Ở bữa ăn tối cuối cùng, Chúa Giêsu (ở chính giữa bức tranh), đang nói với các mơn đồ: "Trong các con có kẻ muốn nộp Ta".

Bức tranh làm cho người xem cảm nhận được những ẩn ý sâu sắc trong thị giác mỗi người, đồng thời cũng đề cập đến một khía cạnh hồn tồn mới của Kinh Thánh Tân Ước. Chúa ngồi ở giữa, tay trái đặt ngửa giữa bàn (tay của trái tim), tay phải lật úp cùng lời Ngài vừa phán ra: "Trong số các con có kẻ sẽ phản bội Ta. Mặc dù Ta phải ra đi như đã ấn định, nhưng tội lỗi cho kẻ nào phản Ta." Câu nói ấy của Chúa gây những phản ứng khác nhau trên từng khuôn mặt và hành động của các Thánh tơng đồ, từ phải sang trái, từng nhóm ba người một. Kinh ngạc, nghi ngờ, đau xót, căm giận. Mười hai môn đồ ngồi trong bàn ăn, mỗi người có một vẻ mặt khác nhau: ba người thì thầm bàn bạc; ba người tỏ vẻ giận dữ (trong đó có một người đập mạnh tay xuống bàn); một người lộ vẻ nghi ngờ; một người tỏ ra ngạc nhiên; một người ngồi ngay ngắn tỏ lòng trung thành; hai người nữa

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

lộ vẻ xúc động. Chỉ có một mơn đồ mặt tái nhợt, lưng hơi ngả về sau, tay nắm chặt túi tiền — đó chính là Judas. Sau lưng Judas là một khoảng tối, cịn sau lưng chúa Jesus là hình ảnh cửa sổ đầy ánh sáng. Những tia sáng chiếu vào gương mặt Jesus làm ánh lên vẻ điềm tĩnh, hiền từ và cương nghị. Sự tương phản này được cho là biểu đạt được sự căm thù của tác giả đối với gian ác, cũng như sự ngưỡng vọng đối với chính nghĩa.

Bức tranh đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới.

<i><b>+ Nàng Joconde (mona lisa) : </b></i>

<i><b>Mona Lisa (La Gioconda hay La Joconde, Chân dung Lisa Gherardini, vợ của Francesco del Giocondo) là một bức chân dung thế kỷ 16 được vẽ bằng sơn dầu trên một</b></i>

tấm gỗ dương tại Florence bởi Leonardo da Vinci trong thời kì Phục Hưng Italia. Tác phẩm thuộc sở hữu của Chính phủ Pháp và hiện được trưng bày tại bảo tàng Louvre ở

<i>Paris, Pháp với tên gọi Chân dung Lisa Gherardini, vợ của Francesco del Giocondo.</i>

Bức tranh là một bức chân dung nửa người và thể hiện một phụ nữ có những nét thể hiện trên khuôn mặt thường được miêu tả là bí ẩn. Sự mơ hồ trong nét thể hiện của người mẫu, sự lạ thường của thành phần nửa khuôn mặt, và sự huyền ảo của các kiểu mẫu hình thức và khơng khí hư ảo là những tính chất mới lạ góp phần vào sức mê hoặc của bức tranh. Có lẽ nó là bức tranh nổi tiếng nhất từng bị đánh cắp và được thu hồi về bảo tàng Louvre.

Nó được Da Vinci bắt đầu vẽ vào khoảng năm 1503. Đã có nghiên cứu cho rằng,ông đã bỏ quên tác phẩm trong 4 năm,và khi chuyển sang Pháp ông mới tiếp tục vẽ và hồn thành nó một thời gian ngắn trước khi qua đời vào năm 1519. Mãi tới giữa thế kỷ

<i>19 Mona Lisa mới bắt đầu nổi tiếng khi các nghệ sĩ của phong trào Biểu tượng bắt đầu ca</i>

ngợi nó, và gắn nó với những ý tưởng của họ về sự bí ẩn của phụ nữ.

Khi xem tranh, cơng chúng thưởng thức nghệ thuật vô cùng khâm phục khả năng xử lý chất liệu sơn dầu của Lê-ô-na-đờ-Vanh-xi. Chân dung La-giơ-cơng-đơ sống động đến mức chúng ta có cảm giác như đang đối diện với một con người bằng xương, bằng thịt và thế giới tâm hồn phong phú ẩn sâu bên trong. Đứng ở góc độ nghệ thuật, đây là một bức chân dung đặc tả tính cách nhân vật thành cơng. Vẻ đẹp ngoại hình kết hợp với vẻ đẹp nội tâm đã tạo nên sự hài hồ, cân bằng cho hình tượng nghệ thuật. Ngoài việc diễn tả chất da thịt sống động, tác phẩm cịn thành cơng ở việc diễn tả gương mặt của La-giô-công-đơ. Đặc biệt nhất là nụ cười của nhân vật. Hoạ sỹ đã nhấn mạnh hai khoé môi, kết hợp với đường cong lên của mắt, mũi, miệng đã tạo được một nụ cười đặc biệt, tồn tại theo thời gian, làm say đắm lòng người. Phía sau nhân vật là phong cảnh núi non xa xa trập trùng, mờ ảo. Tất cả điều đó đã biểu hiện rõ ràng lý tưởng thẩm mỹ của thời đại. Con người luôn được coi là trung tâm của vũ trụ, là báu vật của thiên nhiên. Ngày nay, vẽ chân dung một phụ nữ là một việc làm bình thường của các hoạ sỹ, khơng gây nên sự xáo động nào của xã hội vì người phụ nữ là hiện thân của cái đẹp, là nguồn cảm hứng vô tận của người hoạ sỹ. Nhưng với tranh của các hoạ sỹ thời Phục Hưng nói chung và của Lê-ơ-na-đờ-Vanh-xi nói riêng thì việc làm của họ thực sự là một cách mạng trong tư tưởng thẩm mỹ, trong nghệ thuật.

<i><b>+ </b></i>

<i><b> Michenlangio (1475-1564)</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Michelangelo sinh ngày 6 tháng 3 năm 1475 tại Caprese gần Arezzo,

Tuscany,Ý.Gia đình ơng từ nhiều thế hệ đã là các chủ nhà băng nhỏ tại Florence nhưng cha ông, Lodovico di Leonardo di Buonarroti di Simoni, đã không thể duy trì được tình hình tài chính của ngân hàng, và giữ các vị trí tạm thời trong chính phủ. Khi

Michelangelo ra đời, cha ông là nhân viên pháp lý tại thị trấn nhỏ Caprese và nhân viên địa phương của Chius. Nhiều tháng sau khi Michelangelo ra đời, gia đình ơng quay trở lại Florence và Michelangelo lớn lên tại đây. Ở những thời điểm sau này, trong những thời kỳ ốm yếu kéo dài và sau khi mẹ ông mất khi ông lên bảy tuổi, Michelangelo sống với một người thợ đá và vợ ông cùng gia đình ở thị trấn Settignano nơi cha ông có một mỏ đá mable và một nông trại nhỏ. Giorgio Vasari trích dẫn Michelangelo nói, "Nếu có thứ gì tốt đẹp ở trong tơi, nó bởi tơi đã sinh ra trong một khơng khí tinh tế tại Arezzo. Cùng với dịng sữa của người vú tơi đã nhận được sở trường sử dụng đục và búa, và tơi đã làm ra những ngón tay mình bằng chúng."

Con đường nghệ thuật : cũng giống như Vinci ông là một người đa tài,rất giỏi và rành trong nhiều lĩnh vực. Ông vừa là 1 họa sỹ, một nhà điêu khắc,vừa là một kiến trúc sư,một nhà thơ.... Và dù là ở mảng nghệ thuật nào thì ơng cũng có những tác phẩm nổi tiếng và được đánh giá cao. Khả năng sáng tạo của Michelangelo trong mọi lĩnh vực ông tham gia trong suốt cuộc đời dài của mình rất phi thường; khi tính cả các thư từ, phác thảo, ký sự cịn lại, ơng là nghệ sĩ được ghi chép đầy đủ nhất về cuộc đời ở thế kỷ 16. Hai

<i>trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông Đức Mẹ Sầu Bi và Vua David, được thực </i>

hiện trước khi ông sang tuổi 30. Dù ông không được đánh giá nhiều trong hội hoạ,

Michelangelo cũng đã tạo ra hai trong các tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất thuộc thể loại bích hoạ trong lịch sử Nghệ thuật phương Tây: Cảnh Thiên Chúa sáng thế trên trần Nhà

<i>nguyện Sistine và Sự phán xét cuối cùng trên bức tường bệ án thờ Nhà nguyện Sistine ở </i>

Roma. Là một kiến trúc sư, Michelangelo là người tiên phong trong phong cách Mannerist tại Thư viện Laurentian. Ở tuổi 74, ông kế tục Antonio da Sangallo Trẻ trở thành kiến trúc sư của Vương cung thánh đường Thánh Phêrơ. Michelangelo đã thay đổi đồ án, góc phía tây được hồn thiện theo thiết kế của Michelangelo, mái vịm được hồn thành sau khi ơng mất với một số sửa đổi.

Một ví dụ khác về vị trí độc nhất của Michelangelo: ơng là nghệ sĩ phương Tây đầu tiên có tiểu sử được xuất bản khi đang còn sống. Hai cuốn tiểu sử đã được xuất bản trong khi ông đang sống; một trong số đó bởi Giorgio Vasari, cho rằng ơng là động cơ của mọi thành tựu nghệ thuật từ khi bắt đầu thời kỳ Phục hưng, một quan điểm vẫn tiếp tục được ủng hộ trong lịch sử nghệ thuật trong nhiều thế kỷ. Trong đời mình, ơng cũng

<i>thường được gọi là Il Divino ("người siêu phàm"). Một trong những phẩm chất của ông được những người đương thời ngưỡng mộ nhất là terribilità, một cảm giác kính sợ trước </i>

sự vĩ đại, và các nỗ lực của những nghệ sĩ thời sau học theo phong cách say mê và rất cá nhân của ông đã dẫn tới Mannerism, phong trào lớn tiếp sau trong nghệ thuật phương Tây sau thời Đỉnh cao Phục hưng.

<b>VI.Hội họa </b>

Michenlangio trong lĩnh vực hội họa được biết đến như 1 bậc thầy của bích họa và những bức tranh vẽ trên trần nhà. Các tác phẩm của ông rất đồ sộ,chi tiết và vô cùng công phu.

</div>

×