Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

DÂN TỘC TÀY & NHỮNG NÉT VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.23 KB, 7 trang )

DÂN TỘC TÀY
&
NHỮNG NÉT VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG
Đất nước Việt Nam, đất nước của năm mươi tư dân tộc anh em. Năm mươi tư dân
tộc đều là cháu con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, cùng bước ra từ trăm trứng và cùng
nhau xây dựng nên đất nước Việt Nam thái bình yên vui ngày nay. Mỗi dân tộc với bản
sắc riêng của mình như một loài hoa qúy, góp thêm hương sắc cho rừng hoa lớn – dân tộc
Việt Nam. Bài viết này muốn nói đến một trong năm mươi tư dân tộc ở Việt Nam, sinh
sống chủ yêu ở vùng rừng núi phía Bắc, đó là dân tộc Tày.
Là dân tộc có số dân số đông thứ hai sau dân
tộc Kinh, người Tày có khoảng 1.477.514
người và có những đặc trưng nổi bật khác như
sau. Người Tày tập trung cư trú ở các tỉnh như
Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang,
Bắc Cạn, Yên Bái, Thái Nguyên, Lào Cai, Đắk
Lawsk, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hòa Bình,
Lâm Đồng. Người Tày có ngôn ngữ riêng là
tiếng Tày hay còn gọi là tiếng Thổ. Họ theo các tôn giáo như Vật linh, Phật giáo, Đạo
giáo.
Về kinh tế, người Tày sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Người Tày có một nền
nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai... và rau
quả mùa nào thức đó. Người Tày có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết
thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp
phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Về tổ chức cộng đồng, người Tày sống thành các bản,
thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường được gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng,
khúc sông. Mỗi bản có từ mười lăm đến hai mươi nóc nhà, nếu là bản lớn sẽ chia thành
những xóm nhỏ.
1
Về hôn nhân, gia đình, trong gia đình người Tày thường quí trọng người con
trai hơn và có các quy định rõ ràng giữa các thành viên trong gia đình. Vợ chồng
người tày yêu thương nhau, ít li hôn, đã từ lâu không còn tục ở rể. Nam nữ được tự


do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào
bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ
hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới
hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình.
Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới
về ở hẳn bên nhà chồng.Về việc sinh đẻ, khi có mang cũng như trong thời gian đầu
sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ
tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại. Sau
khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn
mừng và đặt tên cho trẻ.
Về âm nhạc, người Tày được biết đến với các thể loại hát
then, hát lượn, hát sli, các bài dân ca như lượn, phong slư, phuối
pác, phuối,rọi, vén eng.... Nhạc cụ chủ yếu của họ là đàn tính, lúc
lắc. Các hoạt động văn nghệ đặc trưng cùng các loại nhạc cụ này
vẫn được tiếp tục bảo tồn và lưu truyền đến tận ngày nay trong
các lễ hội lớn cũng như các mục đích sinh
hoạt khác nhau.
Những nhà truyền thống thường là nhà sàn, nhà đất mái lợp cỏ gianh và một số
vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở
trong buồng. Phổ biến là loại nhà đất ba gian, hai mái (không có
chái), tường trình đất hoặc thưng phên nứa, gỗ xung quanh, mái lợp cỏ tranh, ngói âm
dương hoặc tấm Prôximăng. Bố trí mặt bằng sinh hoạt được quy định thống nhất qua
2
từng vị trí trong ngôi nhà. Người Tày sống định cư quây quần thành từng bản, có quan hệ
gần gũi với người Nùng và người Choang (Trung Quốc).

(Hình ảnh về nhà của Người Tày tại một số địa phương)
Về trang phục, người Tày có một gu thẩm mỹ
rất riêng. Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ
vải bong tự dệt, nhuộm chàm hầu như không thêu

thùa, trang trí. Những nét riêng trong trang phục cũng
là một cơ sở đặc sắc để phân biệt dân tộc Tày với các
dân tộc khác trong cùng một địa bàn sinh sống. Dân
tộc Tày được biết đến với màu áo chàm quen thuộc
được tạo nên từ những chất liệu trong tự nhiên đã từng
đi vào thơ ca.
“Áo chàm đưa buổi phân li
3
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
(Hồ Chí Minh)
Ngoài ra, người Tày còn nổi tiếng với một sản phẩm thủ công truyền thống là thổ
cẩm. Nghề thủ công này đã có lịch sử rất lâu đời, hiện nay vẫn có thể thấy ở một số vùng
thuộc các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Cạn. Nguyên liệu dệt là sợi bông, sợi tơ tằm
được nhuộm các màu khác nhau. Công cụ và kĩ thuật dệt thổ cẩm gần giống như dệt vải
thông thường, có khác chăng là khung dệt thổ cẩm gồm nhiều go hơn. Mẫu hoa văn càng
phức tạp thì số go càng nhiều, có khi lên tới một trăm năm mươi chiếc và chỉ những
người có tay nghề cao mới có thể làm được những sản phẩm như vậy. Các go này được
bố trí theo một trật tự nhất định tùy theo kiểu dáng hoa văn hay cách trang trí của người
dệt. Khi dêt, người ta bỏ dần từng go rồi đưa thoi luồn sợi ngang tạo thành từng mảng
hoa văn. Những mô tuýp hoa văn thường gặp hơn cả trong sản phẩm thổ cẩm của người
Tày là hình ngôi sao tám cánh, hoa lê, hoa nhội, lá mía… Thổ cẩm được dung làm màn
gió, mặt chăn, mặt địu, túi, khăn… Những sản phẩm thổ cẩm độc đáo ấy của người Tày
từ lâu đã được biết đến và ưa chuộng bởi du khách trong và ngoài nước.
Phong tục thờ cúng của người Tày cũng mang những đặc trưng riêng. Họ chủ yếu
thờ cúng tổ tiên, ngoài ra cũng thờ thổ công, vua bếp, bà mụ. Ðám ma thường được
tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết
4
về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên
bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định. Bàn thờ tổ tiên
của người Tày đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và được cung

kính hết mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không được phép ngồi hay nằm
trên ghế, giường trước bàn thờ. Họ thường dùng bữa sau 2 giờ chiều và 8 giờ tối.
Hình ảnh dưới đây cho thấy cách sắp xếp bàn thờ trong gia đình người Tày.
Một điều dễ thấy là người Tày theo âm lịch. Hàng năm, người Tày có nhiều
ngày tết với những ý nghĩa rất khác nhau. Trong đó, Tết Nguyên đán, mở đầu năm
mới và tết rằm tháng bảy, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình
hơn cả. Bên cạnh đó, người Tày còn có tục tổ chức Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào
mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là
những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước. Trong các dịp lễ tết,
hội hè, người Tày cùng tổ chức các hoạt động văn nghệ, múa hát rất phong phú, độc
đáo và mang đậm bản sắc riêng như màn múa kiếm đón mừng năm mới trong hình
ảnh dưới đây.
5

×