!
"#$%$&$'() * +,-./ 0
1!2,-./ 01!1#) 3 4
%+
1.1. Nhân tố chủ quan và vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1. Khái niệm: “nhân tố chủ quan”
1.1.2. Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.3. Vai trò của nhân tố chủ quan trong giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc
1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở Phú Thọ
1.2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội và lịch sử của dân tộc Dao ở Phú Thọ
1.2.2. Bản sắc văn hóa của người Dao ở Phú Thọ
5 ! "#$%$&$'
2) * +,-./ 01!1#6 ) 3
4 %+7 89$2$-) *)
2.1.
Thực trạng vai trò của nhân tố chủ quan trong giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở Phú Thọ
2.1.1. Thực trạng hoạt động của các chủ thể lãnh đạo đối với việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở Phú Thọ
2.1.2. Thực trạng hoạt động của những người chủ di sản đối với việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở Phú Thọ
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong vai trò của nhân tố chủ
quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao tỉnh
Phú Thọ
2.3. Phương hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của nhân tố chủ
quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở
Phú Thọ hiện nay
2.3.1. Yêu cầu của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Dao ở Phú Thọ
2.3.2. Phương hướng của việc nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan
trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao tỉnh
Phú Thọ hiện nay
2.3.3. Giải pháp nhằm phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong
việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao tỉnh Phú
Thọ hiện nay
:;
1 2% : -#
)
2
,-$"+<=;.
ĐKKQ: Điều kiện khách quan
NTCQ: Nhân tố chủ quan
UBND: Ủy ban nhân dân
PT - TH: Phát thanh - truyền hình
TT&TT: Thông 'n và Truyền thông
VH - TT&DL: Văn hóa - Thể thao và Du lịch
VHNTDG: Văn học nghệ thuật dân gian
3
>?@ABCDB?EFGHBIC
Đất nước ta có 54 dân tộc cùng cư trú, mỗi dân tộc đều có bản sắc riêng
của mình được kết tinh cùng với lịch sử dân tộc trong quá trình hình thành và
phát triển. Cùng với dòng chảy thời gian và những biến động của lịch sử, văn
hóa của mỗi dân tộc cũng vận động và biến đổi theo những quy luật nhất định
với sự đan xen giữa các yếu tố mới và cũ để làm nên những nét độc đáo rất
riêng của mỗi dân tộc và góp phần tạo nên bản sắc văn hóa chung của cả dân
tộc Việt Nam.
Ngày nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia dân tộc trên thế
giới vừa có cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, có cơ hội giao lưu
và tạo thêm nhiều giá trị văn hóa mới làm giàu thêm cho bản sắc văn hóa của
dân tộc mình, đồng thời những nguy cơ về sự đồng hóa văn hóa, sự đánh mất
bản sắc văn hóa và sự bất bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa cũng xuất hiện.
Hơn nữa, các thế lực thù địch vẫn luôn tiến hành âm mưu diễn biến hòa bình,
đặc biệt là trên mặt trận văn hóa - tư tưởng nhằm chống lại sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta. Do vậy, việc khẳng định hệ giá trị văn hóa dân tộc và
bản sắc văn hóa dân tộc đang là vấn đề cấp thiết, vừa có tính thời sự, vừa có
tính lâu dài với nước ta. Trong nhiều văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà
nước đã đề ra chủ trương, giải pháp cụ thể về việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc đặc biệt là văn hóa các dân tộc thiểu số. Tổng kết 5 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Đảng Cộng sản Việt Nam
chủ trương: Phải tiếp tục cụ thể bằng hệ thống các chính sách mạnh, tạo điều
kiện cần thiết để văn hóa các dân tộc thiểu số phát triển trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam.
4
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa ở nước ta, nếu các điều
kiện khách quan là yếu tố quy định nên các đặc điểm và nội dung của văn hóa
thì nhân tố chủ quan đóng vai trò thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các
yếu tố văn hóa. Nhân tố chủ quan có thể kể đến như: sự lãnh đạo của Đảng,
vai trò quản lý điều hành của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân nhằm xây
dựng một môi trường văn hóa lành mạnh. Đặc biệt, sự sáng tạo của quần
chúng nhân dân chính là yếu tố cơ bản của sự tồn tại và phát triển văn hóa, là
chủ nhân thực sự của nền văn hóa dân tộc trong mọi thời đại.
Người Dao là một trong 54 dân tộc anh em sinh sống ở Việt Nam, với
nhiều nhóm khác nhau, cư trú tại các bản động vùng sâu, vùng xa thuộc nhiều
vùng, miền của đất nước trong đó có nhóm Dao Tiền và Dao Quần Chẹt định
cư ở Phú Thọ. Mặc dù số lượng cư dân không lớn, song dân tộc Dao vẫn giữ
được nét văn hóa độc đáo của mình, không bị trộn lẫn với bất cứ dân tộc nào
khác. ở địa hình tỉnh trung du và miền núi như Phú Thọ, sự phong phú về
cảnh quan, môi trường đã tác động lớn đến đời sống văn hóa người Dao nơi
đây, làm nên những nét văn hóa dân gian khá đa dạng của người Dao như lễ
hội, trang phục, thơ, ca, tín ngưỡng, các điệu múa… mang đậm triết lý nhân
sinh. Tuy nhiên, trước những biến đổi không ngừng của hiện thực, trong sự
phát triển kinh tế và bối cảnh toàn cầu hóa đã làm biến thái và mai một ít
nhiều các giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Dao. Trong những
nguyên nhân dẫn tới sự biến đổi đó, có nguyên nhân quan trọng nằm trong
chính bản thân con người, những chủ nhân thực sự kế thừa văn hóa của dân
tộc ấy. Cho nên, việc bồi dưỡng, nâng cao nhận thức và vai trò lãnh, chỉ đạo
của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân; giáo dục ý thức, tinh
thần chủ động giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa của mỗi tộc người, mỗi
người dân là hết sức cần thiết.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Vai trò của nhân tố chủ
quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao tỉnh Phú
5
Thọ hiện nay” để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ chuyên ngành Triết học
của mình.
5JJCK?LMGHBIC
Nghiên cứu về nhân tố chủ quan, về văn hóa dân tộc Dao đã được sự
quan tâm của nhiều học giả thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể chia các
công trình nghiên cứu này thành những mảng sau:
- Những nghiên cứu về nhân tố chủ quan và vai trò của nhân tố chủ
quan trong hoạt động thực tiễn:
+ Nghiên cứu về nhân tố chủ quan và phát huy vai trò của nhân tố chủ
quan trong hoạt động thực tiễn được nhiều học giả quan tâm, có thể kể ra một
số công trình nghiên cứu và bài viết sau đây: “Điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan trong xây dựng con người mới ở Việt Nam”, Luận án Phó tiến sĩ
của Nguyễn Thế Kiệt, Hà Nội, 1988; “Phát huy vai trò của nhân tố chủ quan
trong việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc
sĩ của Phạm Thị Phương Thảo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2001; “Phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong hoạt động của hệ
thống chính trị cấp cơ sở ở Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay”, Luận án Tiến sĩ của
Nguyễn Hồng Lương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2005; “Những yếu tố cơ bản làm tăng cường chất lượng của nhân tố chủ
quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội” của Trần Bảo, Tạp chí Triết học số 3
tháng 9/1991; “Một cách tiếp cận về cặp phạm trù “điều kiện khách quan”
và “nhân tố chủ quan” của Phạm Văn Nhuận, Tạp chí Triết học số 6 tháng
6/1999.
+ Các công trình, bài viết của các tác giả này đã xuất phát từ quan điểm
duy vật biện chứng để xem xét cái khách quan, chủ quan, nhân tố chủ quan và
điều kiện khách quan, quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan, vấn đề phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, của quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
6
- Các công trình nghiên cứu về văn hóa và văn hóa các dân tộc thiểu
số nói chung:
+ Dưới góc độ triết học có các công trình, bài viết như: Vũ Thị Kim
Dung, Cách tiếp cận vấn đề văn hóa theo quan điểm triết học Mác, Tạp chí
Triết học, số 1/1998; Vũ Đức Khiển, Văn hóa với tư cách một khái niệm triết
học và vấn đề xác định bản sắc văn hóa dân tộc, Tạp chí Triết học, số 6/2000;
Nguyễn Huy Hoàng, Văn hóa trong nhận thức duy vật lịch sử của Các Mác,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000 và Mấy vấn đề triết học văn hóa, Nxb
Văn hóa Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội, 2002.
+ Các công trình, bài viết về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển
như: Chương trình nghiên cứu cấp nhà nước KX.06, "Văn hóa, văn minh vì
sự phát triển và tiến bộ xã hội"; Trần Ngọc Hiên, "Văn hóa và phát triển - từ
góc nhìn Việt Nam", Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993; Phạm Văn Đồng,
"Văn hóa và đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Phạm Xuân
Nam, "Văn hóa vì sự phát triển", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
+ Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có: Lò Giàng Páo, "Tìm
hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số", Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1997.
Ngô Văn Lệ, "Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1998. Nguyễn Khoa Điềm, "Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số
trong cuộc sống hôm nay", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 7/2000. “Góp
phần nghiên cứu văn hóa và tộc người”, Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí văn
hóa nghệ thuật Hà Nội, 2003. “Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thái ở Tây Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La)”, Luận văn thạc sĩ triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006 của Phạm Thị Thảo…
+ Các công trình nghiên cứu này cũng đã xem xét, nghiên cứu về văn
hóa theo quan điểm duy vật biện chứng, mối quan hệ giữa văn hóa với sự phát
triển và tiến bộ xã hội, văn hóa của các dân tộc thiểu số trong mối quan hệ với
sự phát triển và tiến bộ xã hội, tiến lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề giữ gìn và
7
phát huy bản sắc văn hóa của các tộc người trong sự vận động và phát triển
của dân tộc.
- Những công trình, bài viết về văn hóa dân tộc Dao ở Phú Thọ:
+ Nguyễn Hữu Nhàn “Lịch sử người Dao ở Phú Thọ”, Sở Văn hóa
Thông tin Thể thao và Hội Văn nghệ Dân gian Phú Thọ, 2002. Trần Quang,
“Từ việc nghiên cứu phong tục, tập quán dân tộc Mường, Dao nghĩ về cuộc
vận động xây dựng nếp sống mới với đồng bào dân tộc ít người”, Tổng tập
VNDG đất tổ, Sở Văn hóa Thông tin Thể thao và Hội Văn nghệ Dân gian Phú
Thọ, 2002. Nguyễn Tham Thiện Kế, “Trang phục của người Dao và của
nhóm Dao Tiền”, Sở Văn hóa Thông tin Thể thao và Hội Văn nghệ Dân gian
Phú Thọ, 2002. Đặng Xuân Tuyên, “Tục cấp sắc của người Dao quần chẹt
dưới chân núi Vọ”, Sở Văn hóa Thông tin Thể thao và Hội Văn nghệ Dân
gian Phú Thọ, 2002.
+ Những công trình, bài viết trên đã tìm hiểu được lịch sử của người
Dao ở Phú Thọ, những nét văn hóa đặc thù của dân tộc Dao, giới thiệu được
những phong tục, tập quán, lễ hội, trang phục… truyền thống của người Dao
ở Phú Thọ.
Các công trình trên đã làm rõ được một số nội dung cơ bản về nhân tố
chủ quan, mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan với điều kiện khách quan, về
văn hoá, văn hoá dân tộc Dao, về mối quan hệ giữa các yếu tố khách quan với
văn hóa, đề cập tới vai trò của nhân tố chủ quan trong việc xây dựng và phát
triển văn hóa, tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề:
“Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Dao ở tỉnh Phú Thọ hiện nay”. Đó chính là hướng nghiên cứu
chính mà đề tài muốn tiếp cận.
NO?G>?PICQRPOCK?LM
3.1. Mục đích của luận văn:
- Trên cơ sở hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về nhân tố chủ
quan và vai trò của nhân tố chủ quan; về các giá trị văn hoá dân tộc Dao ở
8
Phú Thọ, luận văn đi vào phân tích thực trạng vai trò của nhân tố chủ quan
với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Dao ở Phú Thọ, từ
đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của nhân tố
chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở tỉnh Phú
Thọ trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về nhân tố chủ quan và vai
trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Trình bày các điều kiện cho sự ra đời của văn hóa Dao, chỉ ra nét đặc
thù của văn hóa dân tộc Dao ở Phú Thọ.
- Phân tích thực trạng vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở Phú Thọ.
- Nêu một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò
của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
Dao ở Phú Thọ hiện nay.
STCBUPIAVRPCCK?LM
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: vai trò của nhân tố chủ quan với
việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Dao.
Phạm vi nghiên cứu: dân tộc Dao ở Tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
WXYZ[ZM\PIAA]ACK?LM
5.1. Cơ sở lý luận:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
- Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã công bố có nội dung liên
quan đến luận văn.
9
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề như : lịch sử
và logic, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, khái quát hóa, trừu
tượng hóa
^__A?EFZM\P`
- Góp phần tìm hiểu những nét văn hóa đặc thù của dân tộc Dao ở Phú Thọ
- Tìm hiểu thực trạng vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc Dao ở tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai
trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc Dao ở Phú Thọ hiện nay.
a:DB?@M?EFZM\P`
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 2 chương, 5 tiết:
: Một số vấn đề lý luận về nhân tố chủ quan trong việc giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc Dao ở tỉnh
Phú Thọ hiện nay.
5: Vai trò của nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc Dao tỉnh Phú Thọ hiện nay: Thực trạng và giải pháp.
10
!
"#$%$&$'() * +,-.
/ 01!2,-./ 01!1#
) 3 4 %+
bBT?EcMFPIPFCBde?EFbBT?EcMFBdfPCQ?
CgJPIA]BMhijXk?P`_FlbBm?
1.1.1. Khái niệm: “nhân tố chủ quan”
Mọi quá trình vận động và phát triển của xã hội đều diễn ra thông qua
sự tác động của cái khách quan và cái chủ quan, mà nội dung cơ bản của nó
chính là sự tác động qua lại giữa tính quyết định của cái khách quan và tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới của
nhân tố chủ quan của con người. Để làm rõ nội hàm khái niệm “nhân tố chủ
quan” trước hết cần làm rõ một số khái niệm có liên quan gần đến nó như các
khái niệm: “chủ quan”, “khách quan”, “chủ thể”, “khách thể”.
- Khái niệm “chủ quan”, “khách quan”, “chủ thể”, “khách thể”
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm “chủ quan”, tuy nhiên từ
cách tiếp cận triết học có thể hiểu: “Chủ quan là ý thức của chủ thể” [44,
tr.192]. Hoặc: “Chủ quan là những gì thuộc về chỉ đạo hoạt động của chủ thể”
[51, tr.92].
Có lẽ, hiểu cái chủ quan theo cách hiểu thứ hai sẽ chính xác hơn, vì khi
xem xét các hoạt động của con người với những sản phẩm của họat động đó
đều thấy: chúng bao giờ cũng chứa đựng những dấu ấn của cái chủ quan. Tất
nhiên không thể coi tất cả những cái mang dấu ấn chủ quan đều thuộc về cái
chủ quan. Hơn nữa, cái chủ quan cũng không chỉ đơn thuần chỉ là ý thức như
một số học giả quan niệm mà nó còn bao gồm cả yếu tố thể lực, yếu tố tinh
thần như: tri thức, tình cảm, ý chí… của con người, và chính cả bản thân hoạt
11
động của con người nữa. Như vậy, có thể khẳng định: chủ quan là tất cả
những gì thuộc về chủ thể và phụ thuộc vào chủ thể.
Về phạm trù “khách quan”, cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Từ
cách tiếp cận triết học khái niệm khách quan được hiểu là những gì tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức con người, tồn tại một cách tự nó, theo những
quy luật tất yếu trong hiện thực. Trên thực tế, khi muốn khẳng định cái gì là
khách quan phải đặt nó trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Khách
quan được hiểu là tất cả những gì tồn tại ngoài chủ thể và không phụ thuộc
vào ý thức, ý chí của chủ thể.
Vậy “chủ thể”, “khách thể” là gì?
Có học giả cho rằng “Chủ thể là con người (cá nhân hoặc nhóm) tiến
hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn” [51, tr.92]. Có học
giả lại khẳng định “Chủ thể là con người có ý thức, ý chí và đối lập với khách
thể bên ngoài” [51, tr.192].
Con người với tư cách là chủ thể, là con người thực tiễn, con người
hành động, với đặc trưng cơ bản là năng lực hoạt động sáng tạo khách thể
(bao gồm tự nhiên, xã hội) và chỉ trong quá trình nhận thức, cải tạo giới tự
nhiên và cải tạo đời sống xã hội thì con người mới bộc lộ mình với tư cách là
chủ thể của lịch sử.
Như vậy, có thể hiểu: “chủ thể” - đó là con người với những cấp độ
khác nhau (có thể là cá nhân, nhóm hay cả một giai cấp) đã và đang thực hiện
một quá trình hoạt động nhằm cải tạo khách thể tương ứng. Và nếu hiểu “chủ
thể” như vậy thì cũng có thể hiểu “khách thể” - là tất cả những gì mà chủ thể
hướng vào nhằm nhận thức và cải tạo nó.
Theo cách hiểu này khách thể chỉ là một bộ phận của thế giới khách
quan, được con người hướng vào nhận thức và cải tạo. Khách thể có thể là
những hiện tượng, quá trình của giới tự nhiên, cũng có thể là những gì con
12
người tạo ra trong hoạt động lao động sản xuất, là các quan hệ kinh tế - chính
trị - xã hội…
Chủ thể và khách thể có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định lẫn
nhau, mặt này làm tiền đề cho mặt kia. Chủ thể nhận thức và cải tạo khách thể
một cách tích cực và sáng tạo theo mục đích của mình, nhưng chính khách thể
lại quy định chủ thể, vì khách thể tồn tại độc lập với chủ thể và luôn vận động
theo các quy luật vốn có một cách khách quan, do vậy, chủ thể phải nhận thức
và hành động theo đúng quy luật của khách thể mới đem lại hiệu quả tích cực.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, chủ thể khi tác động lên khách thể
và biến đổi nó theo mục đích của mình. Không phải lúc nào chủ thể cũng sử
dụng tất cả năng lực, phẩm chất, yếu tố vốn có của mình mà chỉ huy đông một
phần, một bộ phận các yếu tố tạo thành cái chủ quan trong quá trình tương tác
với khách thể, cái đó tạo thành “nhân tố chủ quan”
- Khái niệm “nhân tố chủ quan”
Về khái niệm “nhân tố chủ quan” đã có nhiều quan điểm với những nội
dung và mức độ khái quát khác nhau. Có ý kiến đồng nhất NTCQ với hoạt
động có ý thức của con người nói chung. Có quan niệm lại đồng nhất NTCQ
với ý thức, tư tưởng xã hội hay hoạt động tự giác của con người. Những quan
niệm trên đây có tính hợp lý ở chỗ đã chỉ ra vai trò của ý thức, tính tự giác
trong hoạt động của con người. Nhưng chính sự nhấn mạnh này lại rất dễ dẫn
đến tình trạng “chủ quan hóa” hoạt động của con người. Về vấn đề này A.K.V
Leđôp đã viết: “…Nhân tố chủ quan không phải là ý thức nói chung (cũng hệt
như hoạt động), mà là cái ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và
phương châm của hoạt động. Nói cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm
nhất định của hành vi, của hoạt động của chủ thể” [60, tr.69].
Như vậy, giữa NTCQ và chủ thể có sự thống nhất nhưng không đồng
nhất. Sự thống nhất biểu hiện ở chỗ: nhân tố chủ quan thuộc về chủ thể, song
khác nhau ở chỗ: nhân tố chủ quan là khái niệm chung chỉ những yếu tố, đặc
13
trưng cấu thành phẩm chất của chủ thể, được chủ thể huy động và trực tiếp
tạo ra năng lực cũng như động lực của chủ thể nhằm nhận thức hoặc biến đổi
khách thể cụ thể. Vì vậy, A.K.V Le đôp khẳng định: “…Không phải chính
các giai cấp, tập đoàn, đảng phái, nhà nước… mà là những thuộc tính, những
phẩm chất, những trạng thái của chúng biểu hiện trong hoạt động đóng vai trò
nhân tố chủ quan” [60, tr.67].
Theo cách tiếp cận của triết học Mác-Lênin, có thể hiểu:
“Nhân tố chủ quan là những gì thuộc về chủ thể (thuộc về con người),
tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động của chủ thể và cả bản thân hoạt
động đó” [32, tr.16].
Như vậy, NTCQ không phải là mọi yếu tố tạo thành cái chủ quan, mà
nó chỉ là cái trực tiếp tham gia vào hoạt động của chủ thể, NTCQ là một bộ
phận của cái chủ quan được chủ thể huy động sử dụng trực tiếp trong quá
trình tác động lên khách thể của chủ thể. NTCQ không phải là ý thức nói
chung của chủ thể, mà nó là ý thức trực tiếp chỉ đạo hoạt động của chủ thể.
Ngoài các yếu tố như năng lực thể chất, ý thức chỉ đạo và định hướng hoạt
động thực tiễn thì NTCQ còn bao hàm ngay cả bản thân hoạt động đó nữa,
nếu thiếu hoạt động của con người sẽ không thay đổi được hiện thực và
không thể trở thành NTCQ.
Cũng cần lưu ý: khái niệm NTCQ cũng không đồng nhất với khái niệm
nhân tố con người. Nhân tố con người là tất cả những gì thuộc về con người
trong hoạt động cải tạo thế giới, NTCQ có phạm vi hẹp hơn nhân tố con
người vì nó chỉ thể hiện vai trò của chủ thể trong một hoạt động xác định.
Về mặt cấu trúc, NTCQ bao gồm: Tri thức, ý thức, tình cảm và năng
lực tổ chức hoạt động thực tiễn của chủ thể, được biểu hiện ra trong hoạt động
của chủ thể. Những phẩm chất này bao giờ cũng có hai mặt tích cực hoặc tiêu
cực. Trong cấu trúc của NTCQ, các nhân tố cấu thành đều có vai trò quan
trọng và có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đa số các nhà nghiên cứu cho
14
rằng nhân tố tri thức là cơ bản nhất vì nó là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh
của ý thức chủ thể.
Tri thức, quan điểm tư tưởng sẽ tạo niềm tin của chủ thể trong hoạt
động, là ý chí quyết tâm của chủ thể trong quá trình cải tạo thế giới. ý thức
của chủ thể tồn tại với tư cách là yếu tố của NTCQ, là bộ phận ý thức đã trở
thành sự chỉ đạo, sự kích thích và phương châm của hoạt động. Khi tri thức,
quan điểm, niềm tin và ý chí của chủ thể hòa quyện và thống nhất biện chứng
với nhau sẽ tạo thành nhân tố chủ quan.
Nói tới NTCQ là nói tới hoạt động có ý thức của chủ thể để sáng tạo ra
lịch sử, là nói tới những hoạt động thực tiễn của họ để giải quyết những
nhiệm vụ lịch sử nhất định. Mác viết: “Tư tưởng căn bản không thực hiện
được gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn” [34, tr.76]. Như vậy cấu thành NTCQ còn bao gồm cả quá
trình hoạt động thực tiễn của chủ thể đối với một khách thể xác định.
Gắn liền với khái niệm NTCQ cũng cần làm rõ về “điều kiện khách
quan”. Khi nói tới ĐKKQ, các học giả cũng đưa ra nhiều cách tiếp cận khác
nhau như “ĐKKQ là những gì tạo nên một hoàn cảnh hiện thực”, “ĐKKQ là
một phần của cái khách quan”, tuy nhiên, nó đều thống nhất với nhau ở một
quan điểm cơ bản là: “ĐKKQ là những gì tồn tại không phụ thuộc vào ý thức,
ý chí của chủ thể và chi phối hoạt động của chủ thể” [31, tr.16].
Chúng tôi thống nhất với quan điểm: ĐKKQ là tổng thể những mặt,
những nhân tố tạo nên hoàn cảnh hiện thực, trong đó chủ thể sống và thực
hiện mọi hoạt động ở những thời điểm nhất định.
ĐKKQ luôn mang tính cụ thể, nó chính là những yếu tố vật chất, tinh
thần, những quy luật khách quan, những khả năng tiềm ẩn có thể xảy ra trong
tương lai… Đây là những điều kiện cụ thể để tạo nên hoàn cảnh, môi trường,
ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của chủ thể tại một thời điểm lịch sử nhất
định. Nó quyết định hoạt động của chủ thể, do vậy việc lựa chọn nắm bắt
15
hoàn cảnh như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động thực tiễn
của chủ thể.
Giữa NTCQ và ĐKKQ có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau,
trong đó: ĐKKQ quy định vai trò của NTCQ còn NTCQ có tác động đến sự
biến đổi của ĐKKQ. Trong mối quan hệ này, ĐKKQ là tính thứ nhất, quy
định NTCQ cả về nội dung, phương hướng và hoạt động thực tiễn. Nhưng
NTCQ không bị động trước hoàn cảnh mà luôn lấy ĐKKQ làm điểm xuất
phát, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. NTCQ là những cái
thuộc về chủ thể, cho nên nó không thụ động trước ĐKKQ. Vai trò tích cực,
sáng tạo của NTCQ thể hiện ở chỗ: trong hoạt động xã hội, cùng với sự chín
muồi của những yếu tố khách quan thì cũng phải có sự chín muồi của NTCQ
mới có thể biến khả năng trở thành hiện thực. Thực chất vai trò của NTCQ ở
đây chính là sự phát hiện ra những khả năng khách quan trên cơ sở những
điều kiện, phương tiện vật chất vốn có của hoàn cảnh để biến đổi hoàn cảnh
theo quy luật vận động vốn có của nó.
Muốn phát huy vai trò của NTCQ không thể tách rời những ĐKKQ
đang có, không thể hoạt động một cách tùy tiện, không tính tới các quy luật
của tự nhiên, xã hội. Đó phải là sự biến đổi không ngừng của bản thân chủ thể
mới có thể thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, cải tạo thế giới khách quan
thành công, ngày càng nâng cao hơn chất lượng cuộc sống cho con người cả
về vật chất và tinh thần và ngày càng hoàn thiện chính bản thân con người.
1.1.2. Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
- Một số khái niệm cơ bản về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
+ Khái niệm văn hóa: Tuy được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, song
khái niệm văn hóa bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu chính: nghĩa rộng
và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều
rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa
16
được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hóa, văn hóa nghệ
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị
trong từng lĩnh vực (văn hóa giao tiếp, văn hóa ứng xử…). Giới hạn theo
không gian, văn hóa dùng để chỉ các giá trị đặc thù của từng vùng (văn hóa
Tây Nguyên, văn hóa đồng bằng Bắc Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hóa
được dùng để chỉ các giá trị trong từng giai đoạn (văn hóa Hùng Vương, văn
hóa Đông Sơn…) [58, tr.5-6].
Theo nghĩa rộng, văn hóa thường được xem là tất cả những gì con
người sáng tạo ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và
các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn [40, tr.431].
Federico Mayo, Tổng giám đốc UNESCO đã viết trong tạp chí Người
đưa tin UNESCO (số 11- 1989) như sau: “Đối với một số người, văn hóa chỉ
bao gồm các kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với
những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng
đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa
họp năm 1970 tại Venise” [58, tr.18].
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn
hóa” tại Pháp (21/1/1998), Tổng thư kýý UNESCO định nghĩa:
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt
của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng
17
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một
hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [56, tr.23].
Như vậy, UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát
triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không
những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự
phát triển xã hội. Văn hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định
tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Nghiên cứu về văn hóa, các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định
nghĩa khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật
chất của hoạt động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công
nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một
cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau” [28, tr.11]. Định nghĩa này nhấn
mạnh trong văn hóa bao gồm các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị
các mẫu mực xử thế và các hệ thống hành vi. Vấn đề cần được nhấn mạnh ở
đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận hoặc
có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được truyền bá
cho các cá thể hoặc các nhóm trong cộng đồng.
“Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất
người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị -
cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động
thực tiễn và lịch sử xã hội của mình” [47, tr.14].
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến con người. Chúng ta có thể khẳng
định: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị (vật chất và tinh thần, tĩnh
và động, vật thể và phi vật thể…) do con người sáng tạo ra và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường xung quanh.
Lịch sử văn hóa là lịch sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn
hóa và văn hóa làm cho con người trở thành người. Điều đó có nghĩa là tất cả
18
những gì liên quan đến con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người
đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Có thể nói, văn hóa là sự phát triển lực
lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực
sản xuất vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hóa
được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy
nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật
chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các
giá trị văn hóa tinh thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy
tinh thần, mà thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài
ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính
tồn tại vật chất khách quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp,
ứng xử, lối sống, phong tục tập quán…
Ở Việt Nam, khi luận bàn về văn hóa của dân tộc thường được hiểu
theo hai nghĩa, hai cấp độ khác nhau: ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng
nghĩa với văn hóa của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người +
tộc danh, là một chi tiết của văn hóa nói chung. Phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là
văn hóa chung của cả cộng đồng tộc người sống trong cùng một quốc gia.
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng
như những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ
của một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán
riêng biệt được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. ở các quốc gia đa
dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét
chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa
đều có những giá trị riêng của nó.
+ Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá,
so sánh nền văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác, là cái
để xác định bản sắc văn hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền
19
thống, phong tục, tập quán, lối sống của một dân tộc trên nền tảng các giá trị
chân, thiện, ích, mỹ” [44, tr.19].
Bản chất đặc trưng của văn hóa là chiều cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo,
khát vọng nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của mỗi cá nhân, cộng đồng,
dân tộc. Mục đích của giá trị văn hóa là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản,
hướng tới sự hoàn thiện của mỗi cá nhân và của cộng đồng, dân tộc. Mặc dù,
tiêu chuẩn của các giá trị văn hóa của các cộng đồng, dân tộc là khác nhau.
Giá trị văn hóa còn mang tính khách quan, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì
từ bên ngoài áp đặt vào để trở thành văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc.
Không thể căn cứ vào văn hóa của một dân tộc nào đó để làm tiêu chí xem
xét, đánh giá nền văn hóa của các dân tộc còn lại là cao hay thấp, phát triển
hay không… điều đó sẽ rơi vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nô dịch hay sự áp
đặt về văn hóa.
Có thể nói, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã
di truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó,
đã được tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá
trình đó đã hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ. Cộng đồng sẽ
bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của
một nền văn hóa, bởi: “Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc; một dân tộc đánh
mất truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [46,
tr.13]. Một dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính
mình, một nền văn hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc
của dân tộc. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên
bản sắc văn hóa của dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự
tồn vong của mỗi dân tộc.
- Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc:
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc riêng, tạo
thành phẩm cách đặc biệt của một vật” [50, tr.87].
20
Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một
nền văn hóa cụ thể nào đó, là những nét văn hóa riêng có của nền văn hóa một
dân tộc. Những nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với
chính điều kiện môi sinh mà dân tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai
đoạn phát triển khác nhau của một dân tộc. Những giá trị văn hóa ấy, cho dù
có trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử nó không những không mất
đi, mà cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái hay, cái đẹp, cái phù
hợp của văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc hơn cho văn hóa
dân tộc mình, làm cho nó là nó chứ không phải là cái khác. Bản sắc văn hóa
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, ý thức của một cộng đồng, bao
gồm: cội nguồn, cách tư duy, lối sống, truyền thống, sáng tạo văn hóa, khoa
học kỹ thuật…
Khái niệm bản sắc văn hóa có hai quan hệ cơ bản: quan hệ bên ngoài là
dấu hiệu phân biệt các cộng đồng với nhau, quan hệ bên trong chỉ tính đồng
nhất mà mỗi cá thể trong cộng đồng phải có. Bản sắc văn hóa là sức mạnh nội
tại của dân tộc. Nó là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng
tạo truyền từ đời này qua đời khác. Bản sắc văn hóa làm cho một dân tộc luôn
là chính mình:
Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó
có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được
tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển
được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa
khóa của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập [9, tr.18].
Bản sắc văn hóa còn là mối liên hệ thường xuyên, có định hướng của
cái riêng (văn hóa dân tộc) và cái chung (văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc
trong quá trình giao lưu văn hóa, sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào
kho tàng văn hóa chung. Đồng thời tiếp nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá
21
trị của mình, tạo ra sự khác biệt trong cái đồng nhất đó chính là bản sắc văn
hóa của một dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc không phải là một biểu hiện
nhất thời, nó có mối liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền vững trong lịch sử và đời
sống văn hóa dân tộc.
Bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa và thường được biểu hiện thông
qua văn hóa. Vì vậy, có thể coi bản sắc dân tộc của văn hóa hoặc bản sắc văn
hóa dân tộc: “Bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn
hóa nào cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa
nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một cộng đồng văn hóa
khác là bản sắc” [59, tr.13].
“Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong
sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ
thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư
tưởng… trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc đó” [9, tr.37].
Khi nói tới bản sắc văn hóa của một dân tộc, cũng có nghĩa là nói tới
bản sắc riêng của dân tộc ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi
của bản sắc dân tộc. Bởi bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ
và rõ nét hơn ở văn hóa. Sức sống trường tồn của một nền văn hóa khẳng định
sự tồn tại của một dân tộc, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy.
Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị. Giá trị tinh thần bên trong
và biểu hiện bên ngoài của bản sắc dân tộc có mối quan hệ khăng khít củng cố
thúc đẩy nhau phát triển. Văn hóa không được rèn đúc trong lòng dân tộc để
có bản lĩnh, trở thành sức mạnh tiềm tàng bền vững thì bản sắc dân tộc của
văn hóa sẽ mờ phai. Ngược lại, nếu văn hóa tự mình làm mất đi những màu
sắc riêng biệt, độc đáo của mình, sẽ làm vơi chất keo gắn kết tạo thành sức
mạnh bản lĩnh của văn hóa.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc có thể do nhiều yếu tố
như: hoàn cảnh địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lýý, phương thức
22
hoạt động kinh tế… Nhưng bản sắc văn hóa dân tộc, không thể không xuất
phát từ những yếu tố tạo thành dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa
dân tộc phải hiểu theo khái niệm phát triển, khái niệm mở. Nó không chỉ là
hình thức mà còn là nội dung đời sống cộng đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ
các dân tộc Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH TW lần thứ V khóa VIII của
Đảng đã chỉ rõ:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ýý chí
tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - làng xã - Tổ quốc… Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình
thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [16, tr.21].
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức
sống của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền
thống văn hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai
thác và phát huy trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch
sử văn hóa các dân tộc. Khi đã được hình thành, truyền thống mang tính bền
vững và có chức năng định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành vi của cá nhân
và cộng đồng. Tuy nhiên, khái niệm bản sắc văn hóa không phải là sự bất
biến, cố định hoặc khép kín mà nó luôn vận động mang tính lịch sử cụ thể.
Trong quá trình này nó luôn đào thải những yếu tố bảo thủ, lạc hậu và tạo lập
những yếu tố mới để thích nghi với đòi hỏi của thời đại. Truyền thống cũng
không phải chỉ bao hàm các giá trị do dân tộc sáng tạo nên, mà còn bao hàm
cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp nhận một cách sáng tạo và đồng hóa nó,
biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc.
Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gồm nhiều loại hình, nhiều
tầng, nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau, tạo nên
giá trị to lớn là nền tảng bền vững của bản sắc dân tộc. Nguồn nuôi dưỡng vô
23
tận tâm hồn và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đây là kho của
cải vô giá, di sản vô cùng quý báu của văn hóa Việt Nam. Việc nhận diện
đúng về bản sắc văn hóa mỗi dân tộc và các dân tộc thành viên là việc làm hết
sức có ýý nghĩa. Bởi lẽ, việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc phải có sự chặt chẽ, hài hòa và thực hiện theo định hướng, đường lối của
Đảng, Nhà nước và ý thức dân chủ tự nguyện của nhân dân.
- Những yếu tố tác động tới bản sắc văn hóa dân tộc:
Thứ nhất: sự tác động của môi trường kinh tế.
Văn hóa và kinh tế là hai phương diện khác nhau của đời sống con
người, nhưng giữa chúng có mối quan hệ gắn bó với nhau. Trong mối quan hệ
đó, cơ sở kinh tế sẽ quyết định nội dung, tính chất, hình thức biểu hiện của
văn hóa.
C.Mác và Ph.Ăgghen khi tiếp cận văn hóa dưới góc độ chính trị học đã
chỉ rõ nguồn gốc phát sinh của văn hóa chính là từ cơ sở kinh tế, nền kinh tế
như thế nào thì sẽ sản sinh và quy định sắc thái văn hóa của xã hội như thế ấy.
Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) Đảng cộng sản Việt Nam đã viết:
“Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh
tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã
hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương…
biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển [16, tr.55]”
Trong thời đại hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa, văn hóa và bản sắc
văn hóa dân tộc chắc chắn sẽ có nhiều sự biến đổi. Khi hội nhập kinh tế quốc
tế sẽ đem lại nhiều cơ hội phát triển và tiến bộ cho xã hội bởi nó trực tiếp thúc
đẩy quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh sự
chuyên môn hóa sản xuất trong các quốc gia và giữa các quốc gia với nhau.
Các vấn đề liên quan tới nhu cầu cuộc sống của con người được thỏa mãn một
cách tối đa, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng cao rõ rệt, mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa theo đó cũng được khẳng
24
định. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, của thông tin đã tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá, lưu giữ, bảo tồn và phát triển
những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc. Nó cũng tạo cơ hội lớn cho việc
giao lưu, tìm hiểu, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu
thêm truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Bên cạnh đó, khi hội nhập kinh tế quốc tế, con người không chỉ tiếp thu
mặt tích cực mà còn tiếp thu cả những ảnh hưởng tiêu cực của nó. Đó là lối
sống thực dụng, ích kỷ, mê đắm lợi ích vật chất và xu hướng làm giàu không
lành mạnh. Nó dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, sự suy thoái về đạo đức và sự
tôn thờ những văn hóa lai căng, nó làm cho tệ nạn xã hội ngày càng tăng lên.
Không chỉ có vậy, sự phụ thuộc ngày càng lớn của các nước nghèo vào những
nước giàu dẫn tới nguy cơ bị đồng hóa về văn hóa, dần dần đánh mất đi bản
sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Trong tình hình ấy, văn hóa của
các dân tộc ít người cũng bị ảnh hưởng và tác động không nhỏ: kết cấu hạ
tầng (điện - đường - trường - trạm) được đầu tư để kinh tế đồng bào phát triển
nhưng ngược lại cũng làm mất dần đi cối xay tay, cối giã gạo. Cơ chế thị
trường, kinh tế hàng hóa phát triển thì nhà sàn, khung cửi, quần áo dân tộc
cũng mai một dần, thị trường âm nhạc ngày một rầm rộ, các kênh thông tin và
giải trí ngày càng nhiều thì nhu cầu thưởng thức âm nhạc dân gian cũng ngày
càng giảm, thậm chí nếu không muốn nói là có nguy cơ mất hẳn.
Tuy nhiên, cũng không thể không thừa nhận: quốc tế hóa là một xu thế
khách quan của lịch sử, nó sẽ còn tiếp tục phát triển, và chắc chắn nó diễn ra
thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, mỗi quốc gia cần nhận
thức đúng đắn bản chất của thời đại, lựa chọn đúng đắn con đường phát triển
để hạn chế thấp nhất những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa.
Thứ hai: tác động của lĩnh vực chính trị - tư tưởng.
Quá trình hợp tác và giao lưu văn hóa với các quốc gia khác đã tạo cơ
hội mở rộng khả năng tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho đời
sống của con người ngày càng được nâng cao. Nhưng cùng với nó, các thế lực
25