Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 84 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC </b>
Chun ngành: Quản lý Tài ngun và Mơi trường Mã số: 8850101
<i><b>Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Phương Mai </b></i>
<b>THÁI NGUYÊN - 2022</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>LỜI CẢM ƠN </b>
Được sự quan tâm của Khoa Tài nguyên và Môi trường, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và sự đồng ý cũng như nhiệt tình hướng dẫn,
<b>dìu dắt của giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Phương Mai, em đã tiến hành </b>
<i><b>tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài: “Nghiên cứu các yếu tố tác động và đề xuất giải pháp bảo tồn hệ sinh thái rạn san hô tại khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần, tỉnh Quảng Ninh”. </b></i>
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cơ đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Chân thành cảm ơn chính quyền và các hộ dân sinh sống trên địa bàn nghiên cứu đã tận tình giúp đỡ tơi trong quá trình khảo sát thực tế tại địa phương.
Trong quá trình thu thập tài liệu, đọc, tổng hợp kiến thức, cũng như nghiên cứu, thực hiện đề tài em đã nhận được sự quan tâm và hướng dẫn tận tình
<b>của TS. Nguyễn Thị Phương Mai, nếu khơng có những lời hướng dẫn, chỉ bảo </b>
của cơ thì em khó có thể hồn thành đề tài một cách hoàn thiện được. Em xin chân thành cảm ơn cơ vì đã tận tình hướng dẫn và góp ý để em có thể thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên, chia sẻ cùng em trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện đề tài.
<i> Quảng Ninh, ngày tháng năm2022 </i>
<b>Tác giả luận văn </b>
<b>Phạm Chi Linh </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>LỜI CAM ĐOAN </b>
“<b>Tôi là Phạm Chi Linh, xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu do cá nhân tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Phương Mai, khơng sao chép các cơng trình nghiên cứu của người khác. Số liệu </b>
và kết quả của luận văn chưa từng được công bố ở bất kì một cơng trình khoa học nào khác.
Các thông tin thứ cấp sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, trung thực và đúng qui cách.
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn.”
<b>Tác giả luận văn </b>
<b>Phạm Chi Linh </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>MỤC LỤC </b>
MỞ ĐẦU ... 1
1. Lý do chọn đề tài ... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ... 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ... 2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ... 3
1.1. Giới thiệu khái quát về san hô và hệ sinh thái rạn san hô ... 3
1.1.1. Cấu trúc san hô ... 3
1.1.2. Các kiểu rạn san hô ... 4
1.1.3. Điều kiện môi trường tự nhiên của san hô ... 6
1.1.4. Các mối quan hệ trong hệ sinh thái san hô ... 8
1.2. Tầm quan trọng của hệ sinh thái rạn san hô ... 10
1.2.1. Năng suất sinh học ... 11
1.2.2. Sinh vật rạn san hô ... 11
1.2.3. Giá trị khác của san hô ... 13
1.2.4. Các giá trị gián tiếp ... 14
1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam ... 15
1.3.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới ... 15
1.3.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu tại Việt Nam ... 17
1.4. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần 18 1.4.1. Đặc điểm tự nhiên ... 18
1.4.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ... 25
CHƯƠNG 2:ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 32 2.1. Đối tượng nghiên cứu ... 32
2.2. Phạm vi nghiên cứu ... 32
2.3. Nội dung nghiên cứu ... 32
2.4. Phương pháp nghiên cứu ... 32
2.4.1. Phương pháp kế thừa và tổng hợp tài liệu ... 32
2.4.2. Phương pháp điều tra ... 32
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">2.4.3. Phương pháp đánh giá ... 33
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ... 36
3.1. Hiện trạng HST rạn san hô tại khu bảo tồn biển Cô Tô – Đảo Trần ... 36
3.2. Vai trị của hệ sinh thái rạn san hơ đối với môi trường và cộng đồng tại khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần ... 45
3.2.1. Vai trị của hệ sinh thái rạn san hơ đối với môi trường tại khu bảo tồn biển Cô Tơ - Đảo Trần ... 45
3.2.2. Vai trị của hệ sinh thái rạn san hô đối với cộng đồng tại Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần ... 47
3.3. Các yếu tố tác động tới hệ sinh thái rạn san hô tại Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần ... 49
3.3.1. Các yếu tố tự nhiên ... 50
3.3.2. Các yếu tố do hoạt động của con người ... 52
3.4. Các giải pháp bảo tồn hệ sinh thái rạn san hô tại Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần ... 56
3.4.1. Giải pháp liên quan đến công tác quản lý ... 56
3.4.2. Giải pháp liên quan đến nâng cao nhận thức ... 58
3.4.3. Giải pháp liên quan đến phát triển nguồn nhân lực ... 60
3.4.4. Giải pháp liên quan đến khoa học, công nghệ thông tin ... 60
3.4.5. Giải pháp liên quan đến hợp tác trong nước, quốc tế ... 61
3.4.6. Giải pháp liên quan đến các mơ hình phát triển sinh kế cho người dân61 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 66
PHỤ LỤC ... 69
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>DANH MỤC HÌNH </b>
Hình 1.1. Cấu tạo một polyp Công cụ bắt mồi của san hô ... 3
Hình 1.2. Các polyp và tảo (zooxanthollae) gắn trên nhánh xương san hơ ... 4
Hình 1.3. Hình dạng của rạn riềm; (a): thiết diện, (b): hình chiếu ... 5
Hình 1.4. Hình dạng của rạn chắn (a): thiết diện, (b): hình chiếu ... 5
Hình 1.5. Hình dạng của rạn vịng ... 6
Hình 1.6. Bản đồ vị trí khu vực Cơ Tơ ... 19
Hình 1.7. Bản đồ vị trí khu vực Đảo Trần ... 20
Hình 3.1. Bản đồ phân bố HST biển đặc thù tại Cô Tô - Thanh Lân ... 38
Hình 3.2. Bản đồ phân bố HST biển đặc thù tại Đảo Trần ... 43
Hình 3.4. Sự đồng thuận của các bên trong công tác bảo tồn hệ sinh thái rạn san hô tại Khu bảo tồn biển Cô Tơ - Đảo Trần ... 57
Hình 3.5. Các điểm tham quan du lịch trên đảo Cô Tô ... 63
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>DANH MỤC BẢNG </b>
Bảng 2.1. Phương pháp nghiên cứu ... 34
Bảng 3.1. Thành phần lồi san hơ ghi nhận được ở quần đảo Cô Tô (2019) ... 36
Bảng 3.2. Tỷ lệ suy giảm số lượng loài san hô qua các lần khảo sát ... 39
Bảng 3.3. Độ phủ san hô khu vực Cô Tô năm 1994 ... 39
Bảng 3.4. Độ phủ san hô khu vực Cô Tô năm 2003 ... 40
Bảng 3.5. Độ phủ san hô khu vực Cô Tô năm 2009 ... 40
Bảng 3.6. Thành phần lồi san hơ ghi nhận được ở Đảo Trần (2019) ... 42
Bảng 3.7. Độ phủ san hô khu vực Đảo Trần năm 2019 ... 44
Bảng 3.8. Kết quả điều tra nhận thức người dân về vai trò của HST rạn san hô đối với môi trường ... 47
Bảng 3.9. Kết quả điều tra nhận thức người dân về vai trị của HST rạn san hơ đối với cộng đồng ... 49
Bảng 3.10. Kết quả điều tra nhận thức người dân về tác động của tự nhiên lên HST rạn san hô ... 52
Bảng 3.11. Dân số Cô Tô qua các năm ... 52
Bảng 3.12. Kết quả điều tra nhận thức người dân về tác động của con người lên HST rạn san hô ... 55
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>
Cô Tô là một huyện đặc biệt của tỉnh Quảng Ninh, bao gồm những hịn đảo ngồi tuyến khơi xa bờ nhất, huyện trẻ nhất (mới thành lập), diện tích nhỏ nhất, dân số ít nhất, nhưng lại giữ vị trí hết sức quan trọng của vùng biển đơng bắc Tổ Quốc. Cơ Tơ có tiềm năng kinh tế đa dạng, từng chịu nhiều biến động và hiện đang phát triển nhanh về kinh tế, xã hội. Đảo Trần, nằm phía đơng bắc quần đảo Cơ Tô và chỉ cách đường phân định vịnh Bắc Bộ 7 hải lý. Đây là hòn đảo thuộc xã Thanh Lân huyện Cơ Tơ với diện tích khoảng 5,5 km<sup>2</sup>. Đảo có vị trí rất quan trọng về an ninh quốc phịng và được ví là “Trường Sa vùng Đông Bắc”.
Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần được phê duyệt quy hoạch chi tiết theo quyết định số 1614/QĐ-UBND ngày 19/05/2021 của UBND tỉnh Quảng Ninh. Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần bao gồm 2 phân vùng là Cô Tô và đảo Trần với tổng diện tích ranh giới quy hoạch trên 18,414 ha. Đây là khu vực có nhiều hệ sinh thái (HST) biển quan trọng, đáng chú ý là các HST rạn san hơ với vai trị rất lớn đối với việc duy trì tài nguyên và môi trường biển. Rạn san hô là một hệ sinh thái có năng suất sinh học cao và là nơi cư ngụ của rất nhiều loài sinh vật rạn. Rạn san hô cung cấp nguồn protein dồi dào và lợi ích kinh tế to lớn cho người dân sống ở vùng có phân bố rạn. Đa số san hô ở Cô Tô là các cá thể dạng vòm và giá thể tự nhiên, san hô cứng có nhiều hơn san hơ mềm. Sự đa dạng của hệ quần thể này tạo nên cảnh quan đặc sắc cho vùng biển Cô Tô. Tuy nhiên, từ khi các hoạt động phát triển kinh tế xã hội trong thời gian gần đây đã tác động đến sự phát triển của các HST rạn san hô. Theo báo cáo tổng hợp từ Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, hệ sinh thái rạn san hô tại vùng biển Cô Tô đã mất đến 90% về độ phủ và phạm vi phân bố, nhiều rạn chết 100%, trở thành khu vực có mức độ và tốc độ suy thối lớn nhất và nhanh nhất được ghi nhận ở vùng ven biển Việt Nam. Cho đến nay, thành phần lồi san hơ ở Cơ Tơ cịn rất ít và đơn điệu, chỉ cịn 23 lồi phân bố rải rác trên nền đáy san hô chết [9].
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i><b>Do đó việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu các yếu tố tác động và đề xuất giải pháp bảo tồn hệ sinh thái rạn san hô tại khu bảo tồn biển Cô Tô – Đảo Trần, tỉnh Quảng Ninh” là hết sức cần thiết nhằm đưa ra các biện pháp quản lý, </b></i>
sử dụng, khai thác và bảo tồn một cách hiệu quả hướng tới phát triển bền vững.
<b>2. Mục tiêu nghiên cứu </b>
- Nghiên cứu các yếu tố tác động tới hệ sinh thái rạn san hô tại khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần, tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất giải pháp bảo tồn hệ sinh thái rạn san hô tại khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần, tỉnh Quảng Ninh.
<b>3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn </b>
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung dữ liệu về Hệ sinh thái rạn san hô tại Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần , Quảng Ninh.
- Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho các nhà quản lý trong công tác xây dựng các giải pháp bảo tồn Hệ sinh thái rạn san hô trong chiến lược phát triển bền vững KT-XH gắn với bảo vệ môi trường Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung theo quan điểm “bảo tồn để phát triển” và “phát triển phục vụ bảo tồn”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Giới thiệu khái quát về san hô và hệ sinh thái rạn san hô </b>
<i><b>1.1.1. Cấu trúc san hô </b></i>
San hô là những sinh vật khá đơn giản tồn tại ở cả vùng biển nông và sâu, thuộc lớp san hô (Anthozoa), ngành động vật ruột khoang (Coelenterata). San hô là những cá thể hình trụ rất nhỏ (polyp) có hàng xúc tu trên đầu để bắt mồi dưới nước, khi phát triển dạng tập đoàn theo số lượng lớn sẽ hình thành nên bộ xương chung.
<i>Nguồn: [9] </i>
<b>Hình 1.1. Cấu tạo một polyp Cơng cụ bắt mồi của san hơ </b>
Có 3 nhóm san hơ chính là san hô cứng, san hô sừng và san hô mềm. San hơ cứng có bộ xương bằng đá vơi và thường tăng trưởng rất chậm, có loại chỉ vào khoảng 1 cm/năm. Điều đó có nghĩa là một khối san hô với đường kính khoảng 1 m có thể đã trải qua cuộc đời hàng thế kỷ. Khi chết, bộ xương san hơ có màu trắng. San hơ cứng, thành phần chính cấu tạo nên rạn san hơ, phân bố hạn chế ở những vùng biển nông, ấm áp và cấu trúc đá vôi do chúng liên kết lại tạo thành rạn san hô. Tuy nhiên, các rạn san hơ có cấu trúc mảnh nên dễ dàng bị tàn phá do gió bão và neo tàu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Trên thế giới có hàng ngàn rạn san hơ với diện tích bao phủ lên đến 600 ngàn km<sup>2</sup>, phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ khoảng 30<sup>0</sup> vĩ tuyến bắc đến 30<small>0</small>
vĩ tuyến nam, những nơi có nhiệt độ nước biển hiếm khi xuống dưới 18<sup>0</sup>C [9].
San hơ sừng là san hơ có phần lõi là vật liệu sừng hoặc đá vôi, được bao bọc bởi lớp đá vơi bên ngồi. Tập đồn san hơ sừng có dạng như những chiếc quạt hoặc cành cây mềm mại. Khi chết đi, phần còn lại là bộ xương màu đỏ hoặc đen hay trắng. San hô sừng thường sinh trưởng rất chậm.
San hô mềm tiêu giảm bộ xương bên trong và chỉ cịn lại các trâm xương đá vơi nhỏ. Một số loại mềm dẻo đến mức có thể đu đưa theo dịng nước. San hơ mềm thường tan theo nước, khơng cịn gì để lại sau khi chết đi.
<i>Nguồn: [9] </i>
<b>Hình 1.2. Các polyp và tảo (zooxanthollae) gắn trên nhánh xương san hô </b>
<i><b>1.1.2. Các kiểu rạn san hô </b></i>
San hô tồn tại và phát triển tùy thuộc vào địa hình (độ sâu và hình dạng) của nền đáy, lịch sử phát triển địa chất của vùng và các nhân tố môi trường, đặt biệt là nhiệt độ và mức độ chịu đựng sóng gió. Do san hơ tạo rạn chỉ sinh trưởng trong những vùng nước ấm, có chiếu sáng tốt và cần nền đáy cứng để bám vào, nên chúng chỉ phân bố ở những vùng biển cạn, đáy cứng. Bộ xương san hô cung cấp môi trường cho sự phát triển của nhiều san hô và các sinh vật khác. Sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">phát triển lên phía trên của cấu trúc rạn có thể cho phép san hô tiếp tục tăng trưởng lên vùng cạn hơn. Qua nhiều quá trình biến động của địa chất biển, đã hình thành các kiểu rạn hô khác nhau:
- Rạn riềm (fringing reef): là kiểu cấu trúc đơn giản nhất và phát triển theo hướng đi lên của nền đá vôi từ sườn đốc thoải ven biển, ven đảo. Rạn riềm phân bố phổ biến xung quanh các đảo nhiệt đới và đôi khi dọc theo bờ đất liền. Do tồn tại ở gần bờ, bị ảnh hưởng bởi độ đục của nước biển, nên chúng hiếm khi vươn đến độ sâu lớn.
<i>Nguồn: [9] </i>
<b>Hình 1.3. Hình dạng của rạn riềm; (a): thiết diện, (b): hình chiếu </b>
- Rạn dạng nền (platform reef): là một cấu trúc đơn giản đặc trưng bởi sự cách biệt với đường bờ và có thể thay đổi lớn về hình dạng. Kích thước của chúng có thể rất lớn, đến 20 km<sup>2</sup> chiều ngang. Lịch sử địa chất của chúng cũng rất khác nhau với nguồn gốc hình thành khá đa dạng.
- Rạn chắn (barrier reef): được phát triển trên gờ của thềm lục địa. Rạn chắn là cấu trúc rạn nổi lên từ biển sâu và nằm xa bờ. Một số vốn nguyên thủy là dạng riềm nhưng do vùng bờ bị chìm xuống hay bị ngập nước khi biển dâng lên.
<i>Nguồn: [9] </i>
<b>Hình 1.4. Hình dạng của rạn chắn (a): thiết diện, (b): hình chiếu </b>
- Rạn san hơ vịng (atoll): là những vùng rạn rộng lớn nằm ở vùng biển sâu. Mỗi một đảo san hô vòng là tập hợp của các đảo nổi và bãi ngầm bao bọc
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">một lagoon rộng lớn với đường kính có thể lên đến 50 km. Kiểu rạn này chỉ có ở vùng biển sâu nằm ở ngồi thềm lục địa.
<i>Nguồn: [9] </i>
<b>Hình 1.5. Hình dạng của rạn vịng </b>
<i><b>1.1.3. Điều kiện mơi trường tự nhiên của san hô </b></i>
<i>* Ánh sáng </i>
Ánh sáng là yếu tố quan trọng cho quá trình quang hợp của tảo cộng sinh trong nội bào của san hô khi san hô tạo rạn. Ánh sáng thay đổi theo độ sâu cả về cường độ và thành phần. Do đó, giới hạn ánh sáng kiểm sốt độ sâu mà san hô sinh trưởng khiến các lồi san hơ khác nhau có sức chịu đựng khác nhau đối với mức độ chiếu sáng cực đại và cực tiểu. Sự thay đổi ánh sáng là nguyên nhân chính tạo ra sự đa dạng về cấu trúc quần xã rạn của san hơ.
<i>* Trầm tích </i>
Các kiểu trầm tích bao phủ trên và xung quanh rạn gồm vụn san hô thô, cát và bùn mịn. Trầm tích trên rạn phụ thuộc vào sóng và dịng chảy trong khu vực. Trầm tích gần bờ chủ yếu xuất phát từ đất liền theo hệ thống sông, suối chảy ra biển, dễ bị khuấy động bởi sóng, có thành phần hữu cơ cao và có thể giữ lại lơ lững trong nước một thời gian dài, làm đục nước do đó hạn chế độ xuyên sáng. Sự sa lắng của trầm tích có thể giết chết các sinh vật như san hô, hoặc làm nghẹt các polyp không đủ khả năng đẩy chúng ra.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><i>* Độ muối </i>
Độ muối thấp có ảnh hưởng quan trọng và thường xuyên hơn đối với sự phân bố rạn và phân vùng san hô. San hô không thể phát triển ở những vùng cửa sơng, nước lợ, là yếu tố chính kiểm sốt quần xã san hơ ven bờ. Tác động chủ yếu của độ muối lên phân bố rạn và phân vùng san hô là do nước mưa. San hơ nói chung có khả năng chịu đựng độ muối thấp trong một giai đoạn ngắn, nhưng khi mưa rất to cùng với triều thấp rạn có thể bị hại, thậm chí bị phá hủy hồn tồn.
<i>* Biên độ triều </i>
Sự thay đổi của biên độ triều giữa các khu vực khác nhau ảnh hưởng đáng kể đến sự phân vùng của quần xã san hô. Triều càng lên cao sự bày khô của san hô càng lớn, do ảnh hưởng của sự ngập triều và khả năng vận chuyển chất dinh dưỡng của môi trường.
<i>* Thức ăn và các chất dinh dưỡng vô cơ </i>
San hơ sinh trưởng cần có cả thức ăn và chất dinh dưỡng vô cơ. Thức ăn của san hô là những mảnh nhỏ lơ lửng trong nước biển, bao gồm cả sinh vật đang sống. Chuỗi thức ăn được hình thành trên rạn khi có những sinh vật ăn các sinh vật này và bị ăn bởi các sinh vật khác, khiến chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau và với môi trường xung quanh. Phải tách rời nhu cầu của một lồi, nhóm lồi với nhu cầu của tồn rạn khi quan tâm đến nhu cầu thức ăn của sinh vật rạn, bởi để đạt được sự bền vững lâu dài cần có một cân bằng tổng thể trong chu trình dinh dưỡng của chúng. Rạn vừa tạo vừa tiêu thụ các chất dinh dưỡng, nhưng trao đổi với vùng biển xung quanh nhỏ so với vật chất sản sinh bên trong từ chu trình liên tục. Các dinh dưỡng đi vào rạn thường là từ sơng, nhưng nếu khơng có sơng, đối với các rạn ở xa đất liền, chất dinh dưỡng chỉ đến qua dịng chảy bề mặt.
Đơi khi dịng chảy qua rạn khiến nước ở tầng sâu chuyển lên bề mặt như một kiểu cung cấp dinh dưỡng vô cơ khác cho san hô. Loại nước trồi này thường giàu phospho và các chất hóa học phân tử. Nhiều rạn có sự thay đổi theo mùa về
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">nguồn dinh dưỡng, đặc biệt là những rạn có vĩ độ cao nơi mà ảnh hưởng các mùa rõ rệt hơn.
<i>* Nhiệt độ và độ sâu </i>
Nhiệt độ là một trong những yếu tố quan trọng giới hạn sinh trưởng san hô và phát triển rạn. Nhiệt độ thay đổi theo độ sâu tương tự như ánh sáng, kiểm sốt chủ yếu hình dạng của rạn và sự phân bổ rạn.
<i><b>1.1.4. Các mối quan hệ trong hệ sinh thái san hơ </b></i>
Mỗi lồi san hơ có sự sắp xếp riêng về chiến lược sinh trưởng, nhu cầu thức ăn và khả năng sinh sản. Mỗi một lồi cũng thích ứng riêng với sự tác động của bão tố, sinh vật ăn thịt, bệnh tật và sinh vật hại. Mỗi loài cạnh tranh với lồi khác về khơng gian, ánh sáng và các lợi ích khác. Kết quả cuối cùng của tất cả các mối quan hệ và sự cân bằng làm cho quần xã san hô trở nên đa dạng nhất trong tất cả các quần xã trên trái đất. Với san hô những mối quan hệ cần được xem xét bao gồm: thức ăn, địch hại và sự cạnh tranh lãnh thổ giữa chúng với nhau.
<i>* Tìm kiếm thức ăn </i>
Ngồi phương pháp tự bắt mồi, thì san hơ cịn có nguồn thức ăn khác đến từ các hợp phần hữu cơ được tạo ra và bài tiết bởi tảo cộng sinh Zooxanthellae trong mô san hô. Có thể nói nguồn thức ăn từ tảo đáp ứng khoảng 80% trong nhu cầu thức ăn của san hô. Đồng thời, san hô cũng cung cấp cho tảo nơi sống và các chất bài tiết như phospho và nitrat.
Ở những khu vực nước nông trong suốt với độ chiếu sáng cao, san hơ thường có polyp nhỏ, bắt được các động vật nổi nhỏ. Ngược lại, ở các khu vực nước đục, san hơ thường có các polyp lớn. Tuy nhiên các polyp này khơng có bộ tế bào gây độc trên các xúc tu như polyp ăn sinh vật nổi, nên nguồn thức ăn của chúng chủ yếu là mùn bã hữu cơ.
Do các cá thể san hô và tảo cộng sinh Zoothanllae có thể hấp thụ chất dinh dưỡng từ môi trường xung quanh, nên dù hầu hết tồn tại trong môi trường
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">nghèo chất dinh dưỡng vô cơ như phosphat, nitrat, sắt nhưng các rạn san hơ có năng suất xấp xỉ bằng HST rừng nhiệt đới.
<i>* Quan hệ hội sinh </i>
Sinh vật hội sinh là các sinh vật sống cùng với san hô mà không gây ra một tác hại nào trong điều kiện bình thường, bao gồm nhiều lồi khác nhau như tôm, cua, cá, rắn biển, giun dẹt, giun nhiều tơ, thân mềm và sao biển. Trong hầu hết các trường hợp, mối quan hệ giữa san hô và sinh vật hội sinh là không bắt buộc và sinh vật hội sinh có thể sống với nhiều san hơ khác nhau hoặc có thể sống độc lập. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt, sinh vật hội sinh có thể liên kết bắt buộc với một loài hoặc một nhóm lồi riêng biệt làm biến đổi màu sắc, tập tính, thậm chí cả chu trình sinh sản của san hơ.
<i>* Địch hại của san hô </i>
Địch hại của san hô ln tồn tại từ giai đoạn san hơ cịn là ấu trùng đến khi tập đoàn trưởng thành. Trong đó nổi bật nhất là Sao biển gai Acanthaster Planci (The Crown of Thorns Seastar). Sao biển gai từng được ghi nhận tiêu diệt nhiều vùng san hô rộng lớn khắp Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Các nhà khoa học giải thích về sự bùng nổ này như sau: lượng mưa lớn và sự tăng cao chất dinh dưỡng từ sông trong mùa lũ làm số lượng ấu trùng sao biển gai gia tăng nhanh chóng. Con người khơng phải tác nhân chính gây ra sự bùng nổ này nhưng đã làm tăng sự khốc liệt bởi khai thác các loài địch hại của sao biển gai. Ngoài ra, sự bổ sung chất dinh dưỡng cho các dịng sơng thông qua việc phá rừng và phân bón nơng nghiệp cũng làm tăng sức sống của ấu trùng sao biển [7]. Một số loài địch hại khác của san hơ có thể kể đến như loài thân mềm đục lỗ Lithophaga, loài giun Spirobranchus gigianiteus hay loài ốc ăn san hô Drupella. Ốc ăn san hô được ghi nhận từng phá hoại nhiều diện tích rạn rộng lớn khu vực Tây Thái Bình Dương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Đặc biệt, các loài cá được coi là địch hại nghiệm trọng nhất đối với san hơ. Nhiều lồi có răng thích hợp để ăn các polyp san hơ, gây ra tác động xấu đối với cấu trúc quần xã san hô và sự phân bố rạn trong phạm vi rộng.
Hiện nay, những nghiên cứu về bệnh của san hơ hãy cịn rất ít. Bệnh phổ biến nhất gọi là tẩy trắng san hô (Bleaching). San hô trục xuất tảo cộng sinh hoặc tảo bị chết và trở nên trắng và chết một cách từ từ.
<i>* Cạnh tranh giữa các san hơ </i>
Vào ban ngày ít có dấu hiệu chứng tỏ các lồi san hơ xâm lấn lẫn nhau, ngoại trừ khi một tập đoàn phát triển trùm lên một tập đoàn khác. Tuy nhiên vào ban đêm, các xúc tu san hơ thị ra có thể tấn cơng lẫn nhau. Chúng có thể đẩy các sợi màng ruột ra và tiêu hóa mơ của người láng giềng. Một loài khác phát triển với một số lượng nhỏ các xúc tu rất dài gọi là các xúc tu qt có khả năng tấn cơng các tập đồn lân cận đơi khi xa tới vài cm. Sự xâm lấn thể hiện rõ ràng hơn khi các tập đoàn cạnh tranh về không gian bằng cách phát triển vượt lên nhau. San hô khối sinh trưởng chậm, dễ bị vượt lên nhất nhưng chúng cũng ít bị phá hủy do bão hoặc do các sinh vật đục lỗ. Những yếu tố này thường phá hủy các tập đoàn lân cận phát triển nhanh.
<b>1.2. Tầm quan trọng của hệ sinh thái rạn san hô </b>
Các quần xã san hơ góp phần quan trọng vào việc hình thành và bảo vệ nhiều hòn đảo lớn, vùng ven bờ, đặc biệt là ở các quốc gia nhiệt đới. Giá trị của rạn san hô được đánh giá không giống nhau giữa các nước và các cộng đồng do sự khác nhau về yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa. Đối với các cộng đồng phát triển, rạn san hơ được coi là tài ngun văn hóa - xã hội bên cạnh giá trị kinh tế trên phương diện giải trí và du lịch. Các chương trình nghiên cứu khoa học được hỗ trợ bởi các cộng đồng phát triển ngày càng nhiều, giúp tăng hiểu biết cộng đồng về tầm quan trọng của các rạn san hô đối với môi trường biển và lục địa. Sau đây là những đặc tính góp phần tạo nên giá trị của rạn san hô về mặt văn hóa - xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><i><b>1.2.1. Năng suất sinh học </b></i>
Các rạn san hô được đánh giá là một trong những HST có năng suất sinh học cao nhất trên thế giới. Chúng chiếm khoảng 0,1% diện tích bề mặt trái đất, khiến nền ngư nghiệp liên quan đến rạn san hô mang lại khoảng 10% tổng sản lượng ngư nghiệp trên thế giới. Nhờ chu trình chuyển hóa vật chất hiệu quả mà rạn san hơ có sức sản xuất sơ cấp tương đối cao. Tảo cộng sinh Zooxanthellea có khả năng cố định N và vi khuẩn sống trong trầm tích đóng vai trị quyết định cho năng suất sinh học của quần xã san hơ. Nhóm san hơ tạo rạn có khả năng tự dưỡng nhờ tảo cộng sinh nội bào, có thể cung cấp hơn 50% dòng năng lượng cho hệ sinh thái trong điều kiện chiếu sáng thích hợp. Các vùng có rạn thường có sức sản xuất sơ cấp cao hơn vùng ngồi rạn hàng trăm lần. HST san hơ được nhận định là là cơ sở dinh dưỡng hữu cơ, và là nguồn cung cấp thức ăn cho vùng biển xung quanh cũng như các loài sinh vật sống trong rạn. Rạn san hơ thường có mối quan hệ mật thiết với thảm cỏ biển và rừng ngập mặn nên chúng tạo năng suất sinh học cao cho thủy vực. Hàng năm, rạn san hô cung cấp hàng triệu tấn carbon cần thiết cho các vùng nước lận cận.
<i><b>1.2.2. Sinh vật rạn san hơ </b></i>
Có thể nhận định rằng rạn san hô là một trong những HST quan trọng nhất trên Trái Đất. Nhiều loài sinh vật rạn đại diện cho hầu hết các nhóm động vật biển như cá, rùa, tôm hùm, bạch tuộc, trai ốc và rong đỏ được khai thác làm thực phẩm. Các hang hốc của rạn cung cấp nơi sinh sống và trú ẩn cho các lồi cá, động vật khơng xương sống, đặc biệt là cá con.
Nguồn khai thác nhiều nhất là cá.“Sản lượng lớn nhất của cá khai thác quanh rạn thuộc về các nhóm cá di cư, chỉ vào rạn theo mùa như cá thu, cá ngừ,... Những cá này phân bố rộng trong đại dương nhưng trong một thời gian chúng đến gần các rạn để kiếm thức ăn và trong một số trường hợp là để sinh sản. Các loài cá trải qua cả cuộc đời trong rạn như cá mú, cá hồng,... có thể đánh bắt quanh năm nhưng sản lượng không lớn. Tôm hùm là nguồn lợi gắn liền với rạn có nhu
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">cầu rất lớn làm thực phẩm cho con người và bị khai thác ở nhiều vùng. Các nguồn lợi khác như bạch tuộc, trai tai tượng, trai ốc và các loại thực phẩm khác cũng được khai thác triệt để bằng các hình thức đơn giản và ít tốn kém.”
Các loại rong biển cũng được khai thác nhiều ở rạn san hơ. Một số trong chúng có giá trị dinh dưỡng cao do chứa nhiều viatmin và muối khoáng. Một số sinh vật khác được khai thác để làm đồ mỹ nghệ. San hô cứng được bán trong các cửa hàng lưu niệm và được sử dụng để trang trí hồ cá. Nhiều loài trai ốc được khai thác làm đồ lưu niệm, trang sức. Các loài rắn biển cũng đang được khai thác cho mục đích y học.
Trong những năm gần đây, cá cảnh biển trở thành nguồn cung cấp cho một thị trường sơi động.“Nhiều lồi cá và động vật không xương sống trở thành đối tượng xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển ở Châu Âu, Mỹ, Nhật. Phương pháp đánh bắt cá cảnh thường bất cẩn và làm hư hại lớn sinh thái rạn san hô. Các chất độc như cyanide, formalin đang được sử dụng để gây mê cá, chất độc cũng giết một phần các tập đồn rạn san hơ. Những hoạt động trên rạn để đánh bắt cá đã phá hủy nhiều rạn san hô cành vốn là vùng cư trú của cá cảnh.”
Một hoạt động trực tiếp nữa là khai thác san hô làm vật liệu xây dựng và nguyên liệu công nghiệp.“Cả san hô chết và sống đều bị khai thác để lấy về nung vôi (Sri Lanka, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Việt Nam), để làm đường giao thông (Indonesia, Ấn Độ), và để làm cảng, chắn bờ. Cát san hô được nạo vét để làm vôi trong nông nghiệp và xi măng. Các rạn san hơ cịn được coi là kho dược liệu dưới đáy biển do có mặt nhiều nhóm sinh vật có hoạt tính sinh học hoặc độc tố có giá trị dược liệu. Các lồi san hơ sừng, san hô mềm cho nhiều hoạt chất có giá trị dược liệu quý. Các nhóm sinh vật khác như hải miên, rắn biển, cầu gai, hải sâm, cá độc và nhiều loài rong biển đều có những chất có hoạt tính sinh học cao có thể sử dụng làm dược liệu.”
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Tính đa dạng của các lồi trên san hơ cao đến mức nhiều loài: đặc biệt là động vật không xương sống như giun, tôm vẫn chưa được mơ tả. Vì vậy rạn được coi là "kho dự trữ" gen. Chúng lưu trữ nhiều chứng cứ để chúng ta có thể hiểu được các quần thể động thực vật phát triển như thế nào và có chức năng gì, cũng như chúng có thể có những giá trị tiềm ẩn trong tương lai.
<i><b>1.2.3. Giá trị khác của san hô </b></i>
Sự phức tạp về quá trình hình thành, sự khác nhau về hình dạng, màu sắc và trạng thái của sinh vật đã làm cho rạn có vẻ đẹp hiếm có và lơi cuốn đối với con người. Rạn là nguồn cảm hứng và đối tượng cho các nhà nhiếp ảnh dưới nước và của các nhà khoa học.“Rạn cũng là nguồn lợi to lớn phục vụ cho giải trí và du lịch và được coi là có một giá trị văn hóa hiện đại. Bơi và lặn là một cơ sở cho việc phát triển kinh tế cho nhiều vùng đảo nhỏ, nơi mà tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là ánh nắng mặt trời, biển và thủy sản. Trước đây, câu và săn cá rạn là mơn thể thao chính trên rạn, giờ đây xem và chụp ảnh sinh vật rạn trở nên hấp dẫn hơn. Cư dân tại chỗ giải trí với rạn ít hơn là khách du lịch, tuy nhiên, du khách mang lại lợi ích nhờ tạo ra cơ hội buôn bán và việc làm.”
Trong vài thập niên gần đây do nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí tăng cao, rạn trở thành nguồn thu lớn cho ngành du lịch sinh thái. Rạn san hô là nơi các du khách tham quan bơi lội và lặn, hàng năm một lượng lớn du khách đến các đảo và vùng ven biển nơi có các rạn san hơ đẹp để thư giãn và khám phá vẻ đẹp kỳ diệu của các rạn san hơ. Những khu vực có quần thể san hơ lớn thu hút rất lớn khách du lịch và đem lại lợi nhuận hàng tỷ USD cho các quốc gia sở hữu. Điển hình như rạn san hơ lớn nhất trên thế giới Great Barrier Reef, Ôxtrâylia; rạn san hô thứ 2 Belize Barrier, từ Quintana Roo, miền Nam Mêhicô và dọc theo bờ biển Belize tới quần đảo Bay của Honduras; dải san hô Hồng Hải bờ biển của Ai Cập và A Rập Xê-ut; Pulley Ridge rạn san hô quang hợp sâu nhất, Florida, nhiều rạn san hô ở quốc đảo Maldives.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Du lịch lặn ở Việt Nam bắt đầu khởi sắc từ cuối những năm 1990. Thành phố Nha Trang được coi là trung tâm của du lịch biển Việt Nam, nơi có rạn san hơ đa dạng và tuyệt đẹp. Năm 2003, khách du lịch đến Nha Trang mang về cho tỉnh Khánh Hòa khoảng 300 tỷ đồng Việt Nam.
Khánh Hòa cũng là nơi đầu tiên ở Việt Nam khai thác rạn san hô như là nguồn cảm hứng cho các cuộc thi chụp ảnh. Tham quan rạn san hô cũng phát triển ở Cơn Đảo, nhưng cịn ở quy mô nhỏ và chưa trở thành hoạt động du lịch chính thức. Cơ Tơ, Đảo Trần đang định hướng phát triển du lịch biển song song với thiết lập khu bảo tồn biển. Khách du lịch cũng góp phần quan trọng cho sự phát triển của huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong những năm gần đây.
Khách du lịch Phú Quốc chủ yếu đi thăm khu rừng tự nhiên ở phía Bắc đảo và bơi lội ở các bãi tắm ở các đảo.
<i><b>1.2.4. Các giá trị gián tiếp </b></i>
Giá trị trực tiếp mà nghề cá và du lịch được coi là khá lớn.“Theo ước tính của các nhà khoa học cứ trung bình 1 km<sup>2 </sup> rạn có thể mang lại 108.000 USD từ nghề cá và 400.000 USD từ hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, rạn san hơ cịn gián tiếp mang lại cho con người nhiều lợi ích khác với giá trị khơng thể tính hết. Rạn san hơ có thể đóng vai trị quan trọng về phát triển kinh tế, tạo việc làm và phúc lợi xã hội. Nghề cá tạo ra việc làm cho phần lớn cư dân ở các đảo và ven biển trong hoạt động đánh bắt và một số công việc khác liên quan đến biển, các nhà máy chế biến sản phẩm từ biển là một ví dụ.”
Có thể coi rạn san hơ phịng thí nghiệm sống phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học khi là nơi ni dưỡng và bảo vệ nhiều lồi sinh vật quý hiếm, cung cấp một ngân hàng gen những lồi có giá trị nghiên cứu cao cả về y học và dược học. Rạn san hơ cịn được sử dụng cho giáo dục chính thức và khơng chính thức. Giáo dục khơng chính thức thơng qua hoạt động của các công viên biển và các khu bảo tồn, bao gồm cả xuất bản tài liệu và phát hành phim ảnh. Các hồ cá nhân tạo (aquarium) là một hình thức giáo dục khơng chính thức. Các chuyến thực địa cho
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">sinh viên, học sinh đến các rạn san hô và trạm nghiên cứu ở các vùng biển là một ví dụ về việc sử dụng rạn san hô để giáo dục chính thức.
Rạn san hơ cịn là rào chắn bảo vệ chống xói lở bờ biển cũng như bảo vệ cho vùng nước sau rạn khỏi sóng bão. Ước tính mỗi km<sup>2</sup> rạn san hô giúp tiết kiệm 190.000 USD/ năm cho chi phí bảo vệ vùng bờ. Các đầm phá (lagoon) phía trong rạn có thể khá sâu và có kênh thơng với biển đã trở thành các bến đậu của tàu thuyền và là cơ sở để hình thành các cụm dân cư ven bờ.
Trong ngưỡng lý tưởng, nhờ sự phân hủy nhanh của vi khuẩn mà rạn san hơ có khả năng tiếp nhận và xử lý chất thải. Tuy nhiên, khi lượng chất thải quá lớn sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các loại tảo, trầm tích hoặc cầu gai ăn mùn bã trong rạn khiến số lượng các loài cá và sinh vật rạn nhạy cảm khác cũng giảm theo.
<b>1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam </b>
<i><b>1.3.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới </b></i>
Các rạn san hô hiện đại bắt đầu xuất hiện từ khoảng 10.000 năm trước công nguyên khi mực nước biển dâng cao do băng tan chảy, kết thúc kỉ Pleistocen. Trong khoảng 5000 năm, mực nước biển tăng 110 đến 120 m (khoảng 240 cm mỗi 100 năm). Đây là thời kỳ HST rạn san hơ phát triển nhanh chóng khi san hô định cư trên đá vôi và các tầng phụ cứng khác ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Khoảng 1000 năm trước, loài người đã khai phá hầu hết vùng đất liền tiếp giáp với các rạn san hơ, bao gồm tồn bộ khu vực Thái Bình Dương, ngoại trừ một số đảo ở Ấn Độ Dương và các rạn san hô xa bờ. Con người khai thác san hô để làm thức ăn và vật liệu xây dựng, hầu hết là rạn san hô nguyên sinh với cấu trúc tốt, cộng đồng cá và sinh vật rạn tự nhiên lớn.
Kể từ Hội nghị chuyên đề về rạn san hô quốc tế lần thứ 4 tại Manila vào tháng 5 năm 1981, các nghiên cứu về rạn san hô và công tác quản lý rạn san hô trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều. Có nhiều đề tài nghiên cứu của các khoa học khác nhau liên quan tới HST rạn san hô và tác động cục bộ tới HST rạn san
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">hô như nhưng phải đến năm 1992, Quyển sách Bảo tồn Rạn san hô của hai tác giả Isabelle M. Côté và John D. Reynolds được xuất bản thì cơng tác bảo tồn rạn san hô mới trở thành mối quan tâm toàn cầu.
Bud Demeier (1993) đã phát biểu tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro về các mối đe dọa đối với HST rạn san hô và những dự đoán đáng báo động về một tương lai ảm đạm nếu khơng có biện pháp khắc phục kịp thời [18]. Goreau (1959) và Hughes (1989, 1994) có những báo cáo về sự suy giảm là sự sụp đổ của rạn san hô Discovery Bay ở Jamaica trong một hội nghị tại Miami [21] [22]. Các hội nghị này đóng vai trò là chất xúc tác để khởi xướng Sáng kiến Rạn san hô Quốc tế (ICRI) vào năm 1995 và Mạng lưới Giám sát Rạn San hơ Tồn cầu (GCRMN) vào năm 1996. Sự suy giảm của các rạn san hô đã được xác nhận với 14 báo cáo được trình bày tại Hội nghị chuyên đề Rạn san hô Quốc tế lần thứ 8 ở Panama, 1996, sau đó được sử dụng để đưa ra Báo cáo Tình trạng các rạn san hô đầu tiên trên thế giới của Mạng lưới Giám sát Rạn San hơ Tồn cầu (Wilkinson, 1998) [19] [24].
Wilkinson đã thực hiện Báo cáo Tình trạng các rạn san hô trên Thế giới vào năm 2004 với một số nội dung chính như sau: 20% rạn san hô trên thế giới đã bị phá hủy triệt để và khơng có triển vọng phục hồi; khoảng 40% trong số 16% rạn san hô trên thế giới bị tàn phá nghiêm trọng do tẩy trắng san hô vào năm 1998 đang phục hồi tốt hoặc đã phục hồi; khoảng 24% các rạn san hơ cịn lại trên thế giới đang có nguy cơ bị phá hủy do sức ép của con người. Theo Wilkinson, các hoạt động của con người được cho là nguyên nhân chính gây ra sự suy giảm cả về số lượng và chất lượng của rạn san hô trên thế giới: Công tác quản lý kém dẫn đến việc giải phóng các chất trầm tích, chất dinh dưỡng và các chất ô nhiễm khác hủy hoại môi trường biển; đánh bắt quá mức và đặc biệt là đánh bắt cá bằng các phương pháp hủy diệt; nóng lên toàn cầu gây ra hiện tượng tẩy trắng san hô và làm trầm trọng thêm các bệnh về san hô [20].
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><i><b>1.3.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu tại Việt Nam </b></i>
Các rạn san hô của Việt Nam phân bố rộng khắp trên các vùng biển từ Bắc vào Nam với tổng diện tích khoảng 1.222 km<sup>2</sup>, chủ yếu ở khu vực Nam Trung bộ và Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. San hô tại Việt Nam được nhận định có đa dạng sinh học cao, sức sản xuất sơ cấp lớn, nhiều hình thù màu sắc tạo nên cảnh quan kỳ thú. Sự đa dạng và phong phú của san hô tại Việt Nam thể hiện ở số lượng 350 loài tạo rạn cùng 3.000 loài sinh vật khác có đời sống liên quan và gắn bó với vùng rạn. Trong đó, thống kê được khoảng 500 loài cá, 2.000 loài sinh vật đáy, và nhiều lồi có giá trị kinh tế cao như hải sâm
<i>(Holothuria), bào ngư (Haliotis diversicolor), tôm hùm (Panulirus), trai ngọc (Pteria martensi),... sống gắn bó trực tiếp với rạn. Tại Cơn Đảo, phát hiện 219 </i>
lồi san hơ, tập trung thành khu vực lớn kèm theo 160 loài cá rạn. Tại vịnh Hạ Long, thống kê được tổng cộng 205 loài san hô cứng và 27 lồi san hơ mềm khác nhau [13].
San hô Việt Nam bắt đầu được nghiên cứu từ cuối thế kỉ 19, gắn liền với các cuộc khảo sát biển Ðông của các cơ quan khoa học nước ngồi. Cơng trình đầu tiên là của Basseth - Smith (1890), sau đó là Bernard (1897), cả hai đều nói về san hơ đảo Nam Yết (Tizard Island) thuộc quần đảo Trường Sa [17]. Sang thế kỉ 20, việc nghiên cứu san hô nước ta chủ yếu do Viện Hải dương học Nha Trang thực hiện, nhưng chủ yếu ở miền Trung và Nam Việt Nam. Tuy vậy, san hô và rạn san hô nước ta chỉ được tập trung nghiên cứu từ sau khi đất nước thống nhất. Sau năm 1975 đến 1990 là thời kì có nhiều chương trình nghiên cứu lớn của Nhà nước và hợp tác với Liên Xô. Những nghiên cứu cơ bản về rạn san hô được chú ý trong các chương trình khoa học biển của Nhà nước và nhất là trong các chuyến khảo sát hỗn hợp Việt Xơ. Các cơng trình xuất bản trong thời kì này đã cung cấp những dẫn liệu cơ bản về phân bố, quần xã sinh vật rạn, thành phần lồi san hơ tạo rạn và hiện trạng của nhiều vùng rạn san hô ở vùng biển ven bờ và quần đảo Trường Sa. Từ năm 1991 đến nay, nghiên cứu rạn san hô tập trung vào những vấn đề liên quan đến tiềm năng đa dạng sinh học, hiện
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">trạng khai thác sử dụng và cơ sở khoa học cho việc thiết lập các khu bảo tồn thiên nhiên biển, có thể tổng hợp và liệt kê một số nghiên cứu nổi bật như sau: Nguyễn Huy Yết (1999) đã điều tra, nghiên cứu sự suy thối san hơ ở vùng biển ven bờ phía Bắc để từ đó đề xuất các giải phảp bảo vệ và phục hồi [15]. Đăng Ngọc Thanh và Nguyễn Huy Yết (2009) trong quyển Bảo tồn đa dạng sinh học biển Việt Nam đã có nghiên cứu về hiện trạng độ phủ và sự suy giảm về độ phủ san hô sống trên rạn ở một số khu vực chủ yếu vùng ven bờ Việt Nam [11]. Dư Văn Toán (2011) thực hiện nghiên cứu một số vấn đề về san hô thế giới trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đề xuất cho vùng biển Việt Nam [12]. Nguyễn Tác An (1999) cũng đã tiến hành khảo sát rạn san hô tại 8 khu vực của vịnh Vân Phong kéo dài từ Hòn Đen đến Bãi cỏ - Ninh Tịnh trong đề tài nghiên cứu "Đánh giá khả năng khai thác các hệ sinh thái điển hình phục vụ hoạt động du lịch vịnh Vân Phong - Đại Lãnh" [1]. Hợp tác giữa Viện Hải dương học với hợp phần SUMA (2004) đã khảo sát hiện trạng rạn san hô tại 6 điểm thuộc Vịnh Vân Phong theo phương pháp cùa English et ai (1997) [4].
<b>1.4. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần </b>
<i><b>1.4.1. Đặc điểm tự nhiên </b></i>
<i>1) Vị trí địa lý </i>
Huyện Cơ Tơ có địa giới hành chính bao gồm các hịn đảo ngồi khơi vịnh Bắc Bộ, cách đất liền 60 hải lý. Huyện có diện tích 50,1 km², gồm 30 hịn đảo lớn nhỏ, trong đó ba đảo lớn nhất là đảo Cô Tô Lớn, đảo Thanh Lân và đảo Trần. Đảo Cô Tô Lớn và đảo Trần nằm gần nhau và cùng với các đảo nhỏ hơn ở lân cận tạo thành quần đảo Cô Tô.
Vùng biển Cơ Tơ có vị trí địa lý: Phía Đơng và phía Nam giáp vùng biển ngồi khơi vịnh Bắc Bộ; Phía Tây giáp vùng biển huyện Vân Đồn; Phía Bắc giáp vùng biển huyện Hải Hà và thành phố Móng Cái (Hình 1.6).
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><i>Nguồn: [6] </i>
<b>Hình 1.6. Bản đồ vị trí khu vực Cơ Tơ </b>
Đảo Trần là điểm tiền tiêu của vùng biển Đông Bắc Tổ quốc (nằm phía đơng bắc quần đảo Cơ Tơ và chỉ cách đường phân định vịnh Bắc Bộ 7 hải lý). Đây là hòn đảo thuộc xã Thanh Lân huyện Cơ Tơ với diện tích khoảng 5.5 km2. Đảo có vị trí rất quan trọng về an ninh quốc phịng và được ví là “Trường Sa vùng Đơng Bắc” (hình 1.7).
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><i>Nguồn: [6] </i>
<b>Hình 1.7. Bản đồ vị trí khu vực Đảo Trần </b>
<i>2) Đặc điểm địa chất </i>
Các đảo thuộc quần đảo Cô Tô được cấu thành bởi thành tạo trầm tích khá đồng nhất có tuổi Ocdovic muộn - Silua sớm, hệ tầng Cô Tô (O3-S1ct1). Về cấu trúc kiến tạo, quần đảo Cô Tô thuộc phức nếp lồi Quảng Ninh. Các thành tạo trầm tích tồn tại dưới dạng flis thuộc các đá lục nguyên, được chia thành hai phụ hệ tầng: dưới và trên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">- Phụ hệ tầng dưới (O3-S1ct1): chủ yếu gồm cát kết, cát kết tufogen, xen các thấu kính sạn kết và các lớp mỏng bột kết chứa hoá đá. Chiều dày khoảng 800m.
- Phụ hệ tầng trên (O3-S1ct2): bột kết, sét kết, xen kẽ dạng nhịp với cát kết tufogen và đá phiến silic, chứa hoá đá. Dày khoảng 700m.
Bề mặt các đảo được phủ bởi một lớp trầm tích Đệ Tứ có nguồn gốc biển, deluvi, eluvi; ở chân đảo là những bãi tích tụ cát và cát bùn nguồn gốc biển. Khu vực đảo Trần còn tồn tại hệ tầng Đồ Sơn (D1đs) phân bố thành một dải phía Bắc, phía Tây và phía Nam đảo, nằm bất chỉnh hợp trên trầm tích Ocdovic-Silur của hệ tầng Cơ Tơ.
Các thành tạo trầm tích hệ tầng Cơ Tơ cịn bị uốn nếp rất mạnh mẽ, tạo nên các nếp uốn dạng tuyến, kéo dài theo phương Đông Bắc - Tây Nam. Trên các đảo tồn tại một hệ thống các đứt gãy tạo nên đới cấu trúc dập vỡ mạnh mẽ, gây ra sự dịch chuyển ngang của các uốn nếp làm cho chúng bị biến dạng.
Quần đảo Cô Tô bị sự chi phối, tác động mạnh mẽ của các yếu tố biển và hải dương và thường xuyên phải chịu ảnh hưởng của các trận bão lớn, áp thấp nhiệt đới, chế độ thuỷ triều, gió mùa,… đã gây ra các tai biến như xói lở, bồi tụ, mài mịn đường bờ. Ngồi ra, tại các khu vực núi cao, độ dốc lớn thường xảy ra hiện tượng sạt lở. Về động đất, khu vực huyện đảo trong vùng dự báo động đất với cường độ lớn nhất tại chấn tâm đạt mức 4- 4,5 độ Richte.
<i>3) Địa hình - địa mạo </i>
a. Địa hình
- Quần đảo Cơ Tơ có địa hình dạng đồi núi thấp, bị chia cắt mạnh, sườn dốc, không đối xứng. Đỉnh cao nhất trên các đảo không quá 200m, cao nhất là đảo Thanh Lam (đỉnh cao nhất đạt 199m), tiếp đến là đảo Trần (đỉnh Mỡ Lợn 187m), đứng thứ ba là đảo Cô Tô (núi Ngang 174m). Độ dốc sườn phần lớn trên 200, nhiều nơi trên 50-600, ở những nơi núi lan ra sát biển và đang bị biển phá mòn, rất phổ biến những vách dốc đứng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">- Sự phân bố xen kẽ các đồng bằng giữa khu vực đồi núi: do đặc điểm hình thành quần đảo nên dạng địa hình đồng bằng nguồn gốc lục địa hầu như khơng có. Trong khi đó, các dạng đồng bằng nguồn gốc biển chưa phát triển. Vì có đảo Thanh Lam che chắn bên ngồi nên địa hình đồng bằng hình thành do tác động của biển chủ yếu tồn tại trên đảo Cô Tô lớn và đảo Cơ Tơ con.
- Diện tích của các đảo Cơ Tơ và Thanh Lam thuộc loại trung bình, điều đó cho phép hình thành nên những bồn thu nước, tạo điều kiện cho dòng chảy phát triển, đặc biệt là các dịng chảy thường xun, góp phần hình thành nên các vạt tích tụ thung lũng, khá bằng phẳng, chủ yếu gồm các vật chất từ trên sườn trơi xuống nên thích hợp để canh tác nông nghiệp. Đây cũng là các điểm định cư chính của người dân, trên đảo Cơ Tơ giữa các dãy núi phía Bắc và cụm đồi phía Nam là một khu đồng bằng trung tâm lượn sóng, dạng máng trũng, hình thành từ thung lũng của các sơng suối.
- Địa hình bãi biển và thềm biển: các bãi cát dài tương đối bằng phẳng có độ cao từ 2-6m, độ dốc trung bình 0-30 được thành tạo bởi cát hạt trung là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch tắm biển. Trên đảo Thanh Lam, đảo Trần, các bãi biển có diện tích nhỏ, phân bố manh mún nên ít có giá trị khai thác để đưa vào phục vụ kinh tế.
- Sự thành tạo các vách mài mòn là nét đặc sắc của quần đảo: Các dạng địa hình này phân bố chủ yếu ở bờ đông, đông bắc và đông nam của các đảo. Một số đồi ăn sát ra mép biển, bị mài mòn mạnh mẽ, tạo ra những vách dốc đứng rất hiểm trở và trở thành những thắng cảnh đẹp.
- Các thềm mài mòn phát triển mạnh: Các bãi đá gốc có nguồn gốc mài mịn xuất hiện ở khắp nơi, diện tích khá rộng. Do dao động thủy triều khá cao nên thường có sự lẫn lộn giữa đá nổi và đá ngầm. Dạng địa hình này đặc biệt phát triển ở phía bắc đảo Thanh Lam, đảo Trần. Có thể tận dụng để phục vụ cho các mục đích phịng thủ trong quốc phòng, an ninh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">b. Địa mạo
Trên cơ sở nguyên tắc hình thái phát sinh và nguồn gốc lịch sử, bản đồ địa mạo huyện đảo Cô Tô đã được thành lập, phân ra 25 dạng địa hình, trong đó có 21 dạng địa hình thuộc phần đảo nổi và 4 dạng địa hình thuộc đáy biển ven đảo.
<i>4) Khí hậu </i>
Quảng Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có một mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều, một mùa đơng lạnh ít mưa và tính nhiệt đới nóng ẩm là bao trùm nhất; tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam vừa có nét riêng của một tỉnh miền núi ven biển. Trong khi đó các quần đảo ở huyện Cơ Tơ và đảo Trần có đặc trưng của khí hậu đại dương. Thành phần nhiệt độ: được xác định có mùa đơng lạnh, nhiệt độ khơng khí trung bình ổn định dưới 20<small>o</small>
C. Mùa nóng có nhiệt độ trung bình ổn định trên 25<sup>o</sup>C. Còn về lượng mưa: theo quy ước chung, thời kỳ có lượng mưa ổn định trên 1000mm là mùa mưa, cịn mùa khơ là mùa có lượng mưa tháng ổn định dưới 1000mm.
<i>5) Chế độ gió </i>
Chế độ gió ở khu vực chịu ảnh hưởng của hồn lưu chung của khí quyển và thay đổi theo mùa. Mùa Đông trùng với mùa gió Đơng Bắc với hướng gió thịnh hành là Bắc và Đơng Bắc. Hàng tháng trung bình có 3 - 4 đợt, có tháng 5 - 6 đợt, mỗi đợt kéo dài 3 - 5 ngày. Tốc độ gió Đơng Bắc đạt trung bình cấp 5 - 6, mạnh nhất cấp 7 -8. Vào đầu mùa Đơng gió có hướng chủ yếu là Bắc và Đông Bắc, sau đổi dần sang Đông - Đông Bắc. Mùa Hè trùng với mùa gió Tây Nam. Do ảnh hưởng của địa hình lục địa, hệ thống gió mùa này đã thay đổi đáng kể trong vùng vịnh Bắc Bộ cũng như trong vùng vịnh, vì vậy hướng gió chủ yếu là Đơng Nam và Nam. Tốc độ gió trung bình 2,5 - 3m/s. Đặc biệt về mùa này thường xuất hiện bão (tốc độ gió bão có lúc đạt tới 35 - 50m/s) và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng rất lớn đến thời tiết toàn bộ khu vực vịnh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><i>6) Nhiệt độ khơng khí </i>
Chế độ nhiệt trong vùng chịu ảnh hưởng rõ nét của hai hệ thống gió mùa: gió mùa Đơng Bắc sinh ra khơ lạnh, gió mùa Tây Nam sinh ra nóng ẩm. Nhiệt độ khơng khí trung bình năm dao động trong khoảng từ 22,5 đến 23,5°C. Về mùa Đông, nhiệt độ khơng khí trung bình khoảng 15,0°C đến 17,0°C. Nhiệt độ khơng khí thấp nhất đã ghi được ở Cơ Tơ là 4,4°C (ngày 31/1/1977), ở Hịn Dấu là 6,5<sup>o</sup>C (ngày 22/1/1983).
Mùa Hè nhiệt độ trung bình khoảng 28,5°C - 29°C. Nhiệt độ khơng khí cao nhất đã quan trắc được ở Cô Tô là 36,2°C (ngày 25/7/1976) ở Hòn Dấu là 38,6°C (nhiều lần, nhiều ngày). Biến động nhiệt trong năm có đỉnh lớn nhất vào tháng 7, thấp nhất vào tháng 1 (trong đất liền), vào tháng 2 (ở các đảo xa). Ở vùng ven bờ Quảng Ninh biên độ nhiệt trong năm có xu thế giảm dần từ Bắc xuống Nam (Móng Cái 12,8°C và Hịn Gai 12°C) và từ ngoài khơi vào sâu trong lục địa (Cơ Tơ 13,2°C, Hịn Gai 12,0°C và Phương Đơng 11,6°C).
<i>7) Nắng và bức xạ nhiệt </i>
Trung bình hàng năm có 1600 - 1800 giờ nắng. Biến trình năm có hai dạng đỉnh. Đỉnh lớn nhất vào tháng 7 chiếm tới 182 giờ (Quảng Hà) đến 224 giờ (Cô Tô). Đỉnh thứ hai vào tháng 9 với 193 giờ (Quảng Hà) và 205 giờ (Cơ Tơ). Số giờ nắng ít nhất vào tháng 2 từ 45 - 51 giờ và tháng 8 từ 100 - 180 giờ. Do độ cao mặt trời các tháng trong năm đều lớn nên bức xạ mặt trời có giá trị khá cao. Bức xạ nhiệt trung bình năm lớn hơn 200Kcal/cm<sup>2</sup>, trung bình tháng 17Kcal/cm<sup>2</sup>, tháng ít nhất cũng trên 10Kcal/cm<sup>2</sup>.
<i>8) Lượng mưa và lượng bốc hơi </i>
Lượng mưa trung bình nhiều năm ở vùng ven biển Quảng Ninh rất lớn đạt từ 2000 - 5000mm, cao hơn so với vùng phía Tây của tỉnh từ 1600 đến 2400mm. Mưa phân bố theo mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa đạt trung bình 296mm/tháng, cao nhất vào tháng 8 đạt trên 500mm. Số ngày mưa trong tháng mùa mưa thường trên 10 ngày. Lượng mưa trong mùa này do bão và áp
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">thấp nhiệt đới gây ra rất lớn. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, lượng mưa trung bình chỉ khoảng 36mm/tháng và thấp nhất vào tháng 1. Đầu mùa khơ mỗi tháng có 7 - 8 ngày mưa, đến các tháng cuối mùa (tháng 2 đến tháng 4) tăng lên 10 - 12 ngày. Đặc biệt trong tháng 2 và 3 mỗi tháng trung bình có 10 - 14 ngày mưa phùn. Số ngày mưa trong năm đạt 100 - 150 ngày, chủ yếu tập trung vào các tháng 6 đến 9. Có 24 ngày mưa phùn trong năm.
<i><b>1.4.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội </b></i>
<i>1) Dân số </i>
Dân số huyện Cô Tô đến năm 2019 là 6285 người. Tốc độ tăng dân số tại đây rất cao, giai đoạn 2006-2010 khoảng 1,4%, giai đoạn 2011 – 2016 tăng từ 3,1 đến 4,5%/năm. Phần lớn dân cư tập trung trên đảo Cô Tô (thuộc TT Cô Tô và xã Đồng Tiến). Xã Thanh Lân tập trung ít dân cư hơn do địa hình ít bằng phẳng (đảo Thanh Lân), hoặc hầu như khơng có dân định cư (đảo Trần) tại đây hiện có 16 hộ gia đình tự nguyện ra đảo sinh sống, định cư [6].
Số người trong độ tuổi lao động là 4150 (chiếm 67%), tập trung chủ yếu trong lĩnh vực ngư nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Tỷ lệ đã được qua đào tạo cịn khá thấp, chỉ có khoảng 27% đã được đào tạo (2019), phần lớn tập trung làm việc tại các cơ quan nhà nước, phần lớn lao động cịn lại trong lĩnh vực nơng-lâm-ngư nghiệp và dịch vụ vẫn chủ yếu theo kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau. Do đó, nguồn nhân lực này chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của địa phương trong thời gian tới, đặc biết là hướng du lịch - dịch vụ chất lượng cao [6].
Bên cạnh đó, khu vực đảo Cô Tô - Thanh Lân hiện đang trở thành khu vực thu hút khách du lịch. Theo báo cáo của UBND huyện Cơ Tơ, năm 2017 đã đón 320.000 lượt khách du lịch, tập trung chủ yếu vào các tháng hè (từ tháng 5 đến tháng 9) và vào dịp cuối tuần. Có những thời điểm đảo phải đón tiếp lượng du khách lên đến 10.000 người, gấp đơi so với dân số của tồn đảo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34"><i>2) Cơ sở hạ tầng </i>
a. Giao thơng đường thủy
Do nằm ở vị trí xa đất liền nên giao thơng đường thủy có ý nghĩa quyết định đến phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Hiện tại, do nhu cầu đi lại tăng của khách du lịch đặc biệt trong mùa hè, có 72 tàu hoạt động vận chuyển hành khách trên các tuyến đường thủy nội địa từ cảng Cái Rồng, Hịn Gai, Vũng Đục ra đảo Cơ Tô, Thanh Lân và các xã đảo thuộc huyện Vân Đồn, trong đó có 26 tàu vỏ gỗ, 2 tàu vỏ thép và 44 tàu vỏ FRP. Việc phát triển đội tàu cao tốc đã giúp giảm thời gian di chuyển từ đất liền ra đảo, tạo điều kiện đi lại thuận lợi cho người dân và du khách. Hoạt động vận tải khách trên các tuyến đường thủy nội địa đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế cũng như du lịch của tỉnh. Hiện tại huyện có một cảng quân sự Bắc Vàn và hai cảng khác là cảng Thanh Lân nối xã với huyện và cảng Cô Tô nối huyện với đất liền. Tuy nhiên, bên cạnh việc thuận lợi thì cũng gặp khơng ít khó khăn như hoạt động mùa vụ dẫn đến công suất vận tải vào các mùa thấp điểm thấp, cơ sở hạ tầng cảng, bến, luồng, tuyến, quản lý phương tiện chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn khi thời tiết xấu.
b. Hệ thống giao thông đường bộ
Hệ thống đường giao thông đô thị từng bước được đầu tư, nâng cấp, đảm bảo nhu cầu giao thông đi lại của các phương tiện giao thông và nhân dân trên đảo, hệ thống đường nội thị đã được bê tơng hóa với các trục chính:“Đường từ Ban quản lý cảng đến Ngân hàng chính sách 1,77 km; Đường từ ngã ba cảng đến Tượng đài Bác Hồ 0,66 km; Đường từ Nhà khách Ủy ban Nhân dân huyện đến Bưu điện huyện 0,22 km; Đường từ Bưu điện huyện đến cảng đi Thanh Lân 1,18 km; Đường ven biển từ Ban quản lý cảng đến tượng đài Bác Hồ 0,64 km; Đường Ký Con có chiều dài 0,27 km; Đường trước từ UBND huyện đến tượng đài Bác Hồ 0,24 km; Đường từ ngã ba cảng ra Trung tâm hậu cần nghề cá 1,80 km; Đường nhựa từ khu di tích tượng đài Bác Hồ đến giáp địa giới hành chính xã Đồng Tiến 1,16 km. Hệ thống đường giao thông xã Đồng Tiến được nối liền
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">với trung tâm thị trấn Cô Tô bằng tuyến đường xuyên đảo đến cảng quân sự Bắc Vàn có bề rộng mặt đường 5 m, lề đường được rải nhựa 4 m, tổng chiều dài 7 km; Các trục đường chính vào các thơn và khu dân cư được bê tơng hóa với bề rộng mặt đường 3 m, có tổng chiều dài là 5,93 km. Tuyến đường bê tông ven biển khu bãi tắm Hồng Vàn có mặt cắt 3 m, chiều dài tuyến là 3,2 km. Hệ thống giao thông xã Thanh Lân được đầu tư xây dựng theo chương trình quốc phịng, các tuyến đường xuyên đảo nối với các khu vực quân sự và các khu dân cư của các thôn khá hoàn chỉnh, bề rộng lề đường 5 m, mặt đường được bê tơng hóa với bề rộng 4 m, có tổng chiều dài là 17,9 km.
c. Mạng lưới điện
Việc kéo lưới điện quốc gia từ đất liền ra đảo là một bước tiến vượt bậc, tạo ra một sức sống mới cho tồn bộ đảo Cơ Tơ và Thanh Lân, có tác động lớn khơng chỉ tới sinh hoạt của người dân mà nó cịn tạo môi trường đầu tư hấp dẫn và ổn định. Từ đó tạo tiền đề cho phát triển mở rộng sang các ngành, lĩnh vực khác giúp diện mạo đô thị và kinh tế của huyện thay đổi tích cực. Ngay khi dự án điện lưới ra đảo được khởi động, các cơng trình xây dựng nhà nghỉ, khu dịch vụ đã bắt đầu phát triển nhanh chóng. Từ năm 2012 cho đến nay tồn bộ hộ gia đình trên đảo đã được sử dụng điện lưới.
d. Mạng lưới cấp, thoát nước
Mạng lưới cung cấp nước cho huyện trong thời gian qua đã được chính quyền huyện quan tâm đầu tư đặc biệt là hồ Trường Xuân và hồ C4. Xã Thanh Lân đã xây dựng được hệ thống hồ đập với diện tích 3 ha; xã Đồng Tiến đã xây dựng được hệ thống hồ đập với diện tích là 4 ha; thị trấn Cô Tô đã xây dựng được hệ thống hồđập với diện tích là 21 ha. Nhìn chung với hệ thống hồ đập và kênh mương như hiện nay, thì nhu cầu về nước để phục vụ cho đời sống sinh hoạt và hoạt động sản xuất của huyện đã được đáp ứng đầy đủ.
Mạng lưới thoát nước và xử lý nước thải: Hệ thống thoát nước chủ yếu trên địa bàn huyện là hệ thống mương, rãnh gắn với các trục đường kết hợp với
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">thoát nước thải ra biển. Hiện tại trên địa bàn huyện đang xây dựng cơ sở xử lý rác thải sử dụng công nghệ đốt rác.
<i>3) Các ngành nghề chủ yếu </i>
a. Sản xuất ngư, nông, lâm nghiệp
Hiện tại, kinh tế huyện Cô Tô vẫn phụ thuộc vào ngành ngư, nơng, lâm nghiệp tuy nhiên có xu hướng giảm dần khi đóng góp của ngành dịch vụ gia tăng.
<i>* Ngư nghiệp: </i>
- Khai thác thủy sản: Sản lượng khai thác hàng năm phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên và có nhiều rủi ro. Năm 2019, tổng sản lượng thủy sản đạt 5.170 tấn, tăng 2,3% so với năm 2015, trong đó: cá 2.180 tấn, tơm 89 tấn, mực 265 tấn, hải sản khác 2.636 tấn. Tuy nhiên sản lượng khơng ổn định, có năm thuận lợi thì sản lượng cao nhưng có năm sản lượng thấp và xu hướng giảm dần trong những năm gần đây [6].
- Nuôi trồng thủy sản: Sản lượng nuôi trồng thủy sản năm 2016 ước đạt 250 tấn, diện tích ni trồng thủy sản là 72 ha. Nhìn chung sản lượng ni trồng thủy sản không đáng kể so với sản lượng đánh bắt hằng năm. Nguyên nhân chủ yếu là do diện tích mặt nước, bãi triều phù hợp cho ni trồng thủy sản tại huyện không cao.
<i>* Trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng tồn huyện đạt 220 ha, trong đó </i>
diện tích lúa 166ha, diện tích rau màu đạt 54ha. Năng suất lúa bình quân cả năm đạt 35 tạ/ha, tổng sản lượng lương thực cả năm 2016 là 580 tấn, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2015 [6].
<i>* Chăn nuôi: Tổng đàn gia súc, gia cầm hiện có trên địa bàn: 27.236 con, </i>
trong đó: đàn trâu 137 con, đàn bị 582 con, đàn lợn 2.251 con, gia cầm các loại 23.366 con [6].
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">b. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Trong các lĩnh vực thế mạnh của huyện Cô Tô không bao gồm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: năm 2019 giá trị sản xuất của tiểu thủ công nghiệp chỉ đạt khoảng 8,5 tỷ đồng với các sản phẩm chủ yếu là: muối, nước mắm và sản phẩm chế biến từ sứa. Chế biến sứa xuất sang Trung Quốc là ngành công nghiệp mang lại thu nhập cao cho người dân trên đảo. Tuy nhiên, phụ thuộc duy nhất vào mùa khai thác sứa chỉ kéo dài khoảng 3 tháng trong năm. Nếu thu hoạch sứa mất mùa sẽ làm giảm đáng kể giá trị sản xuất công nghiệp của huyện. Bên cạnh đó, chế biến sứa là ngành gây ô nhiễm môi trường nên huyện cần thực hiện quản lý hết sức chặt chẽ để đảm bảo không gây ra ảnh hưởng xấu tới phát triển du lịch địa phương.
c. Thương mại, dịch vụ, du lịch
<i>- Về thương mại: Hàng hóa bán lẻ trên địa bàn huyện Cô Tô chủ yếu là </i>
những mặt hàng thiết yếu đối với đời sống của người dân như: lương thực, thực phẩm, nhiên liệu xăng dầu, nguyên vật liệu xây dựng, và các mặt hàng gia dụng khác. Năm 2019, tổng giá trị hàng hóa bán lẻ đạt 27,5 tỉ đồng, tăng 19,5 % so với cùng kỳ 2018.
<i>- Về du lịch: Từ chỗ rất ít người biết đến, lượng khách du lịch tới Cô Tô </i>
đã gia tăng đột biến trong một vài năm trở lại đây. Năm 2019, lượng khách du lịch đến Cô Tô là 320.000 lượt khách, so với 2018 cao hơn 50.000 lượt, giá trị thu được từ các hoạt động du lịch, dịch vụ đạt khoảng 350 tỷ đồng, giải quyết nhu cầu việc làm trực tiếp và gián tiếp cho gần 2.000 lao động. Tuy nhiên ngành du lịch Cơ Tơ cịn nhiều hạn chế và tồn tại cần được khắc phục như: Chất lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao do lượng khách tăng đột biến, trình độ lao động còn thấp, cở sở hạ tầng - giao thông nghèo nàn, khơng có các dịch vụ chất lượng cao, giá trị đóng góp vào GDP từ du lịch không cao, chưa tương xứng với tiềm năng và tài ngun du lịch vốn có của Cơ Tơ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38"><i>- Chương trình nông thôn mới: Thủ tướng Chình phủ đã có Quyết định </i>
công nhận huyện Cô Tô đạt chuẩn Nông thôn mới. Cùng với sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị sự vào cuộc tích cực của nhân dân, vì vậy bộ mặt nơng thơn ngày càng được đổi mới, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư đạt kết quả cao, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng du lịch, dịch vụ; văn hóa xã hội được nâng cao về chất lượng; hệ thống chính trị, an ninh trật tự, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực.
d. Giáo dục và đào tạo
Hiện tại, Cơ Tơ có 10 trường ở 3 cấp học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở. Đến năm 2014, 9/10 trường học thuộc huyện đạt chuẩn quốc gia mức độ 1; tỷ lệ giáo viên có trình độ đạt chuẩn trở lên là 100%, trong đó giáo viên có trình độ trên chuẩn là 50%; tỷ lệ trẻ đi học đúng độ tuổi đạt 100%. Huyện cũng đầu tư nguồn vốn ngân sách để trang bị hệ thống bảng điện tử tương tác thông minh cho tất cả các trường học; tiết kiệm chi thường xuyên của bộ máy hành chính để hỗ trợ mỗi giáo viên 3 triệu đồng để mua máy tính bảng hoặc máy tính xách tay phục vụ giảng dạy. Cô Tô cũng là huyện đầu tiên trong toàn quốc thực hiện việc hỗ trợ tiền ăn trưa cho học sinh hệ mầm non ở tất cả các độ tuổi khi đến lớp. Ngành giáo dục huyện Cơ Tơ đã tập trung đào tạo chuẩn hóa, nâng cao trình độ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục mọi mặt cho học sinh. Chất lượng giáo viên của huyện ngày một nâng cao (đạt chuẩn 100%, trên chuẩn đạt 50%). Năm 2016, tổng số giáo viên trên địa bàn huyện là 221 giáo viên (26 giáo viên trung học phổ thông, 56 giáo viên trung học cơ sở), phụ trách 90 lớp học.
e. Y tế - dân số, kế hoạch hóa gia đình
Duy trì tốt cơng tác qn dân y kết hợp trong khám, chữa bệnh cho nhân dân; chủ động trong công tác phòng, chống dịch bệnh và đảm bảo vệ sinh an tồn thực phẩm, khơng để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Hiện nay 100% xã, thị
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">trấn đã có trạm y tế; 100% các thơn đều có nhân viên y tế hoạt động. Các xã và thị trấn đều có bác sĩ và cơ sở vật chất đều đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở. Các trang thiết bị phục vụ công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện đa khoa huyện đều được đầu tư hiện đại và đồng bộ, hạn chế tối đa số bệnh nhân chuyển tuyến điều trị. Cho đến năm 2016, cơ sở vật chất y tế thường xuyên được đảm bảo với tổng số 4 cơ sở khám chữa bệnh (1 bệnh viện), 34 giường bệnh, 42 cán bộ ngành y tế (trong đó có 7 bác sỹ) trên tồn huyện.
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40"><b>CHƯƠNG 2: </b>
<b>ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu </b>
HST rạn san hô và các yếu tố tác động tại khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần, tỉnh Quảng Ninh, bao gồm người dân và cán bộ tại khu vực nghiên cứu.
<b>2.2. Phạm vi nghiên cứu </b>
- Phạm vi không gian: Vùng biển Cô Tô - Đảo Trần thuộc tỉnh Quảng Ninh. - Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 8/2021 đến tháng 5/2022.
<b>2.3. Nội dung nghiên cứu </b>
- Hiện trạng và vai trị của HST rạn san hơ đối với môi trường và con người. - Tác động tới Hệ sinh thái rạn san hô tại khu vực nghiên cứu.
- Các giải pháp bảo tồn HST rạn san hô tại Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần.
<b>2.4. Phương pháp nghiên cứu </b>
<i><b>2.4.1. Phương pháp kế thừa và tổng hợp tài liệu </b></i>
- Kế thừa số liệu về danh pháp khoa học, tên tiếng việt, đặc điểm sinh thái, hình thái, phân bố loài tại khu vực nghiên cứu.
- Thu thập tài liệu, văn bản, nghiên cứu về giá trị loài, giá trị bảo tồn của san hô trong nước và trên thế giới.
- Thu thập các thông tin dữ liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
<i><b>2.4.2. Phương pháp điều tra </b></i>
Sử dụng phương pháp phân loại và hệ thống hóa để chia các đối tượng phỏng vấn làm 4 nhóm chính:
+ Nhóm khai thác thủy sản: Các cá nhân, hộ gia đình đánh bắt thủy sản, doanh nghiệp/ cơ sở khai thác thủy sản.
Nội dung phỏng vấn: giá trị của rạn san hô (giá trị kinh tế, giá trị đối với môi trường và đa dạng sinh học); tác động đối với hệ sinh thái rạn san hô.
+ Nhóm làm dịch vụ thủy sản: cơ sở thu mua, buôn bán, chế biến thủy sản.
</div>