Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 120 trang )

Giới Thiệu Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
1.1 Mục đích của cuốn sách
Mục đích của cuốn sách là nhằm đưa ra các chỉ dẫn rõ ràng và tương đối đơn giản
cho việc tiến hành một cách chuẩn xác các phân tích lợi ích-chi phí (Cost-Benefit
Analysis ~ CBA) đối với các dự án đã và đang được đề xuất triển khai. Hay nói
một cách khác, mục đích của cuốn sách là nhằm giúp độc giả có thể nhìn nhận một
cách phê phán các CBA họ gặp phải trong quá trình làm việc hay nghiên cứu.
Đúng là chúng ta nên tin tưởng rằng tất cả các nghiên cứu đều được tiến hành một
cách có trách nhiệm và chuẩn xác. Song những nghiên cứu hiện hành thể hiện
những khác biệt lớn về cấp độ chất lượng. Cuốn sách không đưa ra những thảo
luận thấu đáo về các khái niệm, kỹ thuật CBA mà chỉ tóm lược những điểm quan
trọng nhất của một nghiên cứu CBA. Tuy nhiên, những kỹ thuật được phác thảo ở
đây sẽ giúp các bạn thực hiện được những phân tích một cách chuẩn xác. Bất kỳ ai
có kiến thức tốt về kinh tế học đều có thể tiếp cận được với cuốn sách này.
Một ưu điểm lớn của CBA là nó cung cấp cho ta một khung mục đích mà trong đó
chúng ta có thể thảo luận, sửa chữa và bổ sung. Rủi ro lớn nhất xảy ra khi dữ liệu
cứng lại có xu hướng bị coi là dữ liệu mềm. Cần phải lưu ý chú trọng đúng mức
đến các tác động chưa được số lượng hóa hay được số lượng hóa một cách thô sơ.
Để làm được điều này chúng ta nên coi CBA như một công cụ hỗ trợ cho quá trình
thương thuyết và đưa ra quyết định thay vì coi bản thân nó là quá trình ra quyết
định.
Không nên coi CBA là một quá trình bí hiểm. Một cách đơn giản, CBA là quá
trình chúng ta tính toán giá trị của tất cả các đầu vào và đầu ra của một dự án rồi
sau đó lấy hiệu số của đầu ra trừ đi đầu vào. Đôi lúc, chúng ta có thể sử dụng một
số quy trình phức tạp để xác định giá trị của một mặt hàng chưa được xác định
mức giá song các khái niệm cốt lõi của CBA thì tương đối đơn giản.
Độc giả nên nhận biết một điều rằng CBA không phải là công cụ duy nhất để đánh
giá một dự án. Một dự án có thể được đánh giá dựa trên một cơ sở nào đó khác
hơn là lợi ích ròng mà dự án đó đem lại. Đôi khi phương thức này lại được ưa
thích hơn. Có nhiều dự án vẫn được thông qua nhằm thúc đầy một quá trình chính


trị nào đó ngay cả khi phân tích lợi ích ròng của dự án đưa ra kết luận là không
nên tiến hành dự án. Trong phân tích CBA, có thể có những giá trị không được số
số lượng hóa hay không thể được số số lượng hóa. Điều này đồng nghĩa với việc
một dự án tuy không vượt qua được một cuộc kiểm tra CBA nghiêm ngặt song
vẫn có vẻ là đáng để triển khai. Tuy nhiên, xu hướng chung cho thấy các kết quả
thu được qua CBA dù sao cũng buộc những người muốn đưa ra quyết định trái
ngược có nghĩa vụ phải tìm cách biện chứng cho quyết định của mình. Vì lý do
này, các chính trị gia thường phản đối CBA vì họ cảm thấy rằng những phân tích
kiểu này có thể sẽ hạn chế các khả năng lựa chọn của họ. Dù sao thì ít nhất CBA
cũng cho phép ta tính toán chi phí rõ ràng cho những dự án không qua được kiểm
tra CBA hay các dự án mà các mục tiêu đề ra lớn hơn so với những gì mà theo
CBA dự án có thể đạt được.
1.2 CBA là gì
Phân tích lợi ích chi phí là một kỹ thuật phân tích để đi đến quyết định xem đây có
nên tiến hành các dự án đã triển khai hay không hay hiện tại có nên cho triển khai
các dự án được đề xuất hay không. Phân tích lợi ích chi phí cũng được dùng để
đưa ra quyết định lựa chọn giữa hai hay nhiều các đề xuất dự án loại trừ lẫn nhau.
Người ta tiến hành CBA thông qua việc gắn giá trị tiền tệ cho mỗi một đầu vào
cũng như đầu ra của dự án. Sau đó so sánh các giá trị của các đầu vào và các đầu
ra. Cơ bản mà nói, nếu lợi ích dự án đem lại có giá trị lớn hơn chi phí mà nó tiêu
tốn, dự án đó sẽ được coi là đáng giá và nên được triển khai.
Những dự án mà phân tích CBA xếp vào loại đáng được triển khai là những dự án
cho đầu ra có giá trị lớn hơn đầu vào đã sử dụng. Trong trường hợp phải chọn một
dự án trong số nhiều dự án được đề xuất, CBA sẽ giúp chọn được dự án đem lại
lợi ích ròng lớn nhất. Cũng có thể dùng CBA để đánh giá mức độ nhạy cảm của
các đầu ra trong dự án đối với rủi ro và bất chắc.
Mặc dù ý tưởng thì đơn giản song trong thực tế sẽ có nhiều khó khăn để có thể tiến
hành được một CBA có chất lượng. Chỉ đơn giản là việc xác định đâu là chi phí,
đâu là lợi ích cũng đã đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng. Cũng có thể có
nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề này. Trong khi một số đầu vào, đầu ra

có thể có các mức giá phổ biến và ổn định thì một số khác lại có mức giá biến đổi
trong quá trình triển khai dự án. Và có thể có một số đầu vào, đầu ra không được
đưa ra buôn bán trên thị trường. Điều này khiến cho chúng ta cần phải đưa ra
những phương pháp định giá khác nhau.
CBA mặc định rằng tất cả các mặt hàng đều có một giá trị tiền tệ nhất định. Điều
này là cần thiết trong việc so sánh giữa đầu vào và đầu ra để quyết định xem liệu
một dự án có khả thi về mặt kinh tế hay không. Trong khi chúng ta có những kỹ
năng thích hợp để quy ra tiền với phần lớn các mặt hàng thì chúng ta khó có thể
làm như vậy với một số mặt hàng nhất định. Ví dụ như không khí trong lành và
sức khỏe tốt đều rất đáng quý song sẽ là một thách thức lớn để có thể xác định
chính xác lợi ích ròng của một chương trình mang lại không khí trong lành và sức
khỏe tốt cho mọi người. Tuy nhiên, ta có thể xác định được một khoảng chi phí
nào đó mà nếu chi phí của chương trình nằm trong khoảng đó thì chương trình là
có giá trị và ngược lại.
Cần phải nhận thấy một điều rằng người ta đưa các quyết định liên quan đến các
dự án không chỉ đơn thuần dựa trên cơ sở CBA. Các tính toán chính trị và xã hội
nằm ngoài CBA có thể có tầm quan trọng ít nhất là ngang bằng với các lợi ích
kinh tế trong việc quyết định có nên triển khai dự án hay không. Điều này đúng
nhất là trong trường hợp đưa ra các quyết định công. Lúc đó, các tài nguyên
thường được phân bổ dựa trên các lý do khác chứ không phải là hiệu quả kinh tế.
Những vấn đề công bằng, bình đẳng trong các trường hợp này có thể sẽ thế chỗ
cho thậm chí là những nguồn lợi ròng lớn về kinh tế. Nhưng ít nhất cũng có thể hy
vọng rằng một CBA có thể tác động tới quyết định của một người còn đang do dự
hay có thể đưa chúng ta đến với lựa chọn tối ưu giữa các dự án có tác động chính
trị, xã hội tương tự như nhau.
1.3 Các bước tiến hành CBA
Phân tích lợi ích chi phí có thể được nghĩ đến như một quá trình vận hành trong đó
có một số bước nổi bật. Không phải phân tích nào cũng yêu cầu phải thực hiện đầy
đủ tất cả các bước đi này. Một dự án ngắn hạn sẽ không đòi hỏi phải chiết khấu lợi
ích trong tương lai. Một dự án đã triển khai nhiều lần có thể sẽ không gặp phải rủi

ro hay bất chắc. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, để cân nhắc có nên
triển khai một dự án hay không hay nên chọn triển khai dự án nào giữa các dự án
được đề xuất, chúng ta cần bám theo các bước sau:
1. Làm rõ vấn đề chỗ đứng/vị thế
Khi bắt đầu một phân tích, cần phải chỉ rõ nghiên cứu này là do ai làm, chi phí ai
phải chi, lợi ích ai được hưởng. Chúng ta luôn phải rõ ràng và nhất quán trong việc
giải quyết những vấn đề này cũng như trong việc tính toán lợi ích và chi phí cho
những người/nhóm người khác nhau.
2. Xác định những phương án thay thế
Một phân tích cần phải nêu rõ được dự án hay các dự án là đối tượng xem xét.
Chúng có loại trừ lẫn nhau hay không. Cần phải đưa được các lựa chọn thay thế
tương ứng vào phân tích. Mốc chuẩn để so sánh là lựa chọn không tiến hành dự
án. Song đó có thể chỉ là một cơ sở để so sánh. Ví dụ như trong thảo luận về Đập
Tellico, chính quyền Thung lũng Tennesee đã không so sánh được việc xây đập
với một lựa chọn thay thế khác là tận dụng dòng chảy của con sông để vận hành
một chiếc tuốc-bin phát điện. Những thiếu sót kiểu này không phải là hiện tượng
hiếm khi xảy ra. Khi chúng ta thay đổi quy mô, thời hạn thực hiện của một dự án,
chúng ta có thể có được những thay thế thích ứng. Ví dụ như, một chương trình
tiêm chủng có thể không qua được kiểm nghiệm CBA ở quy mô toàn quốc song
lại có thể vượt qua kiểm nghiệm CBA đối với một vùng có tỷ lệ mắc bệnh cao liên
quan đến loại vắcxin sẽ được tiêm chủng.
3. Đưa ra các Giả định
Giả định là một phần thiết yếu của một phân tích. Có thể giả định này tốt hơn giả
định kia. Cũng có thể dùng giả định cho hàng loạt các yếu tố số lượng hàng, chi
phí, điều kiện thị trường, thời hạn hay các mức lãi sất. Trong một phân tích được
tiến hành một cách có trách nhiệm, những giả định này được nêu một cách rõ ràng.
Nếu có thể chúng được phân bổ cho những nguồn lực đáng tin cậy. Nếu đưa ra
một diện giá trị giả định thì phải có quy định rõ ràng về diện giá trị được đưa ra.
4. Lập danh sách các Tác động của mỗi Dự án Thay thế
Nên liệt kê các tác động tiềm tàng của mỗi dự án một cách đầy đủ nhất có thể. Có

thể liệt kê tác động của một hay nhiều dự án cụ thể được xem xét cũng như tác
động của các lựa chọn thay thế: giữ nguyên hiện trạng hay không triển khai bất kỳ
dự án nào.
Điều quan trọng là tiến hành số lượng hóa các tác động nếu có thể. Để đánh giá
chuẩn xác một dự án đòi hỏi phải biết được lượng đầu vào và đầu ra cần có. Khi
không thể số lượng hóa được một tác động thì ít nhất ta cũng phải đề cập đến tác
động đó. Một dự án hạn chế quyền tự do cá nhân nên đề cập đến tác động này
ngay cả khi không có nỗ lực nào được đưa ra để định giá quyền tự do cá nhân.
5. Quy các Giá trị Cụ thể cho những Tác động này
Có thể quy mỗi tác động này ra một giá trị tiền tệ nhất định nếu có thể.
6. Xử lý các Tác động Không được Số lượng hóa
Cần phải kiệt kê rõ ràng bất kỳ tác động nào chưa được quy ra giá trị vật chất cụ
thể . Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể cân nhắc giữa chúng với những chi
phí và lợi ích đã được định giá cụ thể.
Một cách tiếp cận với các lợi ích phi số lượng hóa là tính toán xem các lợi ích này
lớn đến mức độ nào thì đủ để đảo ngược các kết quả của CBA. Thông thường
người ta có thể đưa ra một đánh giá chung chung về việc những lợi ích này có khả
năng đảo ngược quyết định hay không. Bằng cách xem xét rõ ràng những tác động
như vậy theo cách này, chúng ta sẽ tránh được tình trạng lâm vào phân tích bị chi
phối bởi các dữ liệu cứng.
Ví dụ như, khi cân nhắc một dự án hạn chế quyền tự do cá nhân, có thể dùng các
lợi ích và chi phí khác để tính mức lợi ích ròng của dự án đó, bỏ qua bất kỳ một
cân nhắc về quyền tự do cá nhân nào. Sau đó, có thể dành cho độc giả quyền tự
quyết định xem những lợi ích ròng khác có đủ để bù đắp hạn chế về quyền tự do
cá nhân hay không, việc tiến hành dự án có phải là một quyết định đúng đắn hay
không.
7. Chiết khấu giá trị tương lai để có được giá trị hiện tại
Đối với phần lớn các dự án, cần phải tính chi phí và lợi ích được chiết khấu tại
những thời điểm khác nhau. Người ta thường thực hiện điều này bằng cách sử
dụng biện pháp chiết khấu lũy thừa (exponential discounting) để tính giá trị hiện

tại của chi phí lợi ích. Rất khó để có thể lựa chọn được một mức lãi suất chiết khấu
đúng. Tuy nhiên, nhiều tổ chức nghiên cứu đưa ra những mức lãi suất chuẩn dùng
cho các phân tích.
8. Xác định và lý giải độ bất chắc
Có lẽ khiếm khuyết hay gặp nhất trong phân tích CBA là thất bại trong việc xử lý
rủi ro và bất chắc. Bất chắc có thể tiềm ẩn trong nhiều khía cạnh của dự án. Phải
xác định được đầy đủ nguyên nhân gây ra các bất chắc này một cách đầy đủ nhất
có thể. Chẳng hạn như kinh phí dự toán cho một công trình xây dựng, điều kiện
thời tiết bất ổn khiến cho các hoạt động ngoài trời trở nên khó khăn hơn hay mức
tăng trưởng dân số dẫn đến mật độ sử dụng các thiết bị tiện dụng tăng lên.
Nên nỗ lực trong việc nhận thức được rủi ro hay bất chắc của dự án. Có thể dùng
cách đơn giản như đưa ra một phân tích độ nhạy cảm. Phân tích này sẽ tính toán
giá trị của dự án theo những kết quả dài hạn khác nhau. Cũng có thể dùng cách
phức tạp hơn như phân tích các lựa chọn thực. Phân tích này cố tìm cách tính được
giá trị chính xác của dự án có tính đến yếu tố rủi ro.
9. So sánh Lợi ích và Chi phí
Sau khi đã tính toán được (hay ít nhất là đã liệt kê ra được) các chi phí và lợi ích,
chúng ta phải so sánh chúng với nhau để xác định xem giá trị hiện tại (Net Present
Value ~ NPV) của dự án có thể mang giá trị dương không. Nếu đang xem xét lựa
chọn giữa nhiều dự án thì dự án có mức NPV cao nhất là dự án sẽ được chọn.
10. Tiến hành phân tích sau khi dự án kết thúc
Khi có thể, nên tiến hành phân tích sau khi hoàn thành dự án nhằm đưa ra định
hướng cho các giám đốc dự án, xác định giá trị của phân tích gốc nhằm cải thiện
các phân tích và các dự án được tiến hành sau này.
1.4 Quy đổi ra Giá trị bằng Tiền
CBA sử dụng các giá trị tiền mặt để so sánh các loại hàng hoá với nhau. Được gán
cho mỗi đầu vào và đầu ra của dự án, các giá trị này đại diện cho tầm quan trọng
của đầu vào và đầu ra trong phân tích. Nếu tổng giá trị của đầu ra lớn hơn tổng giá
trị của đầu vào thì dự án được coi là đáng được tiến hành vì lúc đó độ quan trọng
tổng thể của đầu ra đối với xã hội lớn hơn độ quan trọng tổng thể của đầu vào. Tuy

việc gán các giá trị thực cho các đầu vào, đầu ra rồi so sánh chúng với nhau là cần
thiết song đây cũng là một quá trình gây nhiều tranh cãi. Cần phải có một độ cẩn
trọng và tinh tế nhất định khi tiến hành quá trình này.
Nhiều loại đầu vào và đầu ra là các mặt hàng thường xuyên được buôn bán trên thị
trường với mức giá chung phổ biến và có thể đoán trước được. Giá trị của các đầu
vào như lao động, bê tông, thép, máy tính, xăng dầu hay các đầu ra như điện có
thể được xác định dựa trên mức giá thị trường, có điều chỉnh trong một số trường
hợp nhất định.
Các đầu vào và đầu ra khác không được trao đổi trực tiếp nên rất khó có thể được
định giá. Chẳng hạn như khoảng thời gian đi lại mà một dự án xây dựng đường
cao tốc tiết kiệm được, giá trị của dịch vụ thuỷ lợi do một dự án xây đập mang lại
hay tình hình sức khoẻ của cộng đồng được cải thiện thông qua việc xây dựng hệ
thống thoát nước và xử lý nước thải. Giá trị cho các loại hàng hoá này phải được
ước tính thông qua những tính toán gián tiếp, phức tạp và tương đối chủ quan.
Thường thì phương hướng hành động thích hợp nhất là tìm ra và sử dụng các mức
giá dự kiến đã được đưa ra trong các nghiên cứu trước đây.
Mục đích của cuốn sách này là nhằm tìm ra được các mức giá trị thị trường và phi
thị trường cho một loạt các mặt hàng khác nhau. Cuốn sách cũng đưa ra chỉ dẫn
phải xử lý thế nào với hàng loạt các loại giá trị tiềm tàng và phức tạp trong phân
tích của bạn.
1.5 Cơ cấu Thời gian của Chi phí và Lợi ích
Phần lớn các dự án được điều hành trong một khoảng thời gian nhất định. Khi tiến
hành phân tích CBA bạn nên xác định xem khi nào thì chi phí và lợi ích sẽ thay
đổi. Đâu là múi thời gian cuối cùng cho phân tích của bạn nếu không phải là của
toàn bộ dự án.
Ví dụ như một con đường cao tốc được mở trong vòng ba năm, đưa vào sử dụng
lâu dài và tiến hành những bảo dưỡng cần thiết năm năm một lần. Cứ sau một
khoảng thời gian nhất định thì chi phí xây dựng và bảo dưỡng mới xuất hiện trong
khi lợi ích mà con đường đem lại là liên tục. Có thể lợi ích này càng ngày càng
tăng khi dân số của một vùng tăng. Con đường có thể tồn tại vĩnh viễn. Song theo

chỉ dẫn hành chính thì khi đánh giá dự án có thể chỉ cần tính đến lợi ích dự án đem
lại trong vòng hai mươi năm đầu tiên.
Nhìn chung, có một thực tế vẫn được thừa nhận đó là các mức chi phí, lợi ích
trong tương lai có giá trị thấp hơn chi phí lợi ích hiện tại.
[1] Chính vì vậy, việc
khấu trừ chi phí lợi ích tương lai bằng cách sử dụng một mức lãi suất nào đó và
cách khấu trừ theo số mũ là một thông lệ được chấp nhận. Tuy có nhiều cơ quan
quy định cụ thể mức hay các mức lãi suất được nhiều nhóm, nhiều cơ quan khác
nhau dùng hay đồng tình song quyết định khó nhất gặp phải trong quá trình này
vẫn là xác định mức lãi suất thích hợp.
1.6 Phân tích độ Nhạy cảm (Sensitivity analysis)
Bất kỳ một dự án nào đều gắn với hàng loạt các con số được đề xuất khác nhau.
Chúng là ước tính khối lượng vật liệu và lao động cần thiết, mức giá của các đầu
vào này, số người hưởng lợi cuối cùng, giá trị quy đổi của việc họ sử dụng sản
phẩm làm ra, mức lãi suất thích hợp dùng để khấu trừ chi phí và lợi ích của dự án.
Các con số này đều có nguy cơ bị dự đoán sai. Người ta cũng rất dễ lâm vào tình
trạng không thể nhất trí về một con số dự kiến nhất định. Câu trả lời có trách
nhiệm nhất cho việc có hàng loạt những giá trị ước tính hay gợi ý là đưa ra những
tính toán dựa trên nhiều kịch bản khác nhau rồi thảo luận những thay đổi trong
từng kịch bản tạo ra tác động gì trong phân tích độ nhạy cảm. Điều này có nghĩa là
nên chỉ rõ việc thay đổi các mức giá trị khác nhau có tác động như thế nào đến
đánh giá dự án. Ví dụ, nếu phí xây dựng thực tế cao hơn mức phí dự đoán là 10%
thì lợi ích ròng của dự án thay đổi như thế nào? Nếu dùng một mức lãi suất cao
hơn để khấu trừ các chi phí và lợi ích tương lai thì liệu dự án còn được mong đợi
nữa hay không? Nếu như giá trị cho các lợi ích của một dự án mang lại cho tình
hình sức khoẻ ở mức thấp chứ không phải ở mức cao trong miền lợi ích ước tính
thì giá trị của dự án thay đổi như thế nào?
Một cách tiếp cận thường gặp là tính toán khả năng tốt nhất, xấu nhất và các khả
năng trung bình. Phân tích này có nghĩa là thoạt đầu tính toán NPV của một dự án
bằng cách dùng các mức giá trị ước tính tối đa hoá giá trị của dự án, rồi dùng các

mức giá trị ước tính tối thiểu hoá giá trị của dự án và cuối cùng là dùng các mức
giá trị trung gian. Điều này sẽ cho các nhà hoạch định chính sách ý tưởng về tính
không chắc chắn của dự án cũng như tầm quan trọng của tính không chắc chắn
này có thể là bao nhiêu.
1.7 Các nguồn lực
Vấn đề thực tiễn lớn nhất trong việc tiến hành một phân tích CBA trên thực tế là
tìm được các mức giá trị thích hợp cho các đầu vào và các đầu ra của dự án. Các
nhà lên kế hoạch cho dự án nên có một vài ý tưởng nào đó về lượng đầu vào sẽ
được sử dụng và lượng đầu ra được tạo ra. Song làm thế nào để xác định được giá
trị của chúng?
Cuốn sách này sẽ cung cấp cho bạn nhiều thông số tham khảo về các nguồn lực
khác nhau được dùng làm đầu vào, đầu ra của dự án, các giá trị gắn liền với chúng,
mức lãi suất đề xuất trong khấu trừ, độ co dãn cung và độ co dãn cầu. Chúng tôi
cũng đưa ra những tham khảo về việc định giá các loại hàng hoá ít được trao đổi
trên thị trường và tập trung vào các kỹ thuật và các giá trị do các nhà nghiên cứu
khác đưa ra.
Tuy danh sách các nguồn lực được đưa ra không phải là một danh sách hoàn chỉnh
song ít nhất nó cũng đem lại cho độc giả một xuất phát điểm trong việc tìm ra các
mức giá trị cần thiết để phân tích một dự án hay đánh giá một cách phê phán một
nghiên cứu hiện tại.
1.8 Cơ cấu của Cuốn sách
Nội dung của cuốn sách được sắp xếp theo thứ tự cần có khi tiến hành một nghiên
cứu.
Chương hai bàn đến vấn đề vị thế, hay giá trị của ai sẽ được đưa vào phân tích.
Điều này sẽ tác động cách thức xử lý những chi phí khác nhau trong dự án. Song
quan trọng hơn, nó sẽ quyết định chi phí nào, lợi ích nào được đưa vào trong phân
tích.
Phần lớn các đầu vào và đầu ra được trao đổi trên các thị trường. Giá trị của chúng
có thể được xác định dựa trên các mức giá thị trường và phân tích cung cầu cơ
bản. Chương ba bàn đến lý thuyết về các thay đổi phúc lợi xã hội mà một dự án

mang lại. Chương bốn và năm mô tả các phương pháp xác định giá trị của đầu
vào, đầu ra được trao đổi trên thị trường với mức giá phổ biến.
Nhiều loại hàng hoá không được trao đổi trực tiếp trên thị trường. Hai chương tiếp
theo bàn đến các cách tiếp cận với việc định giá những loại hàng hoá kiểu đó.
Chương sáu mô tả các kỹ thuật trong đó có các giá trị bóng (shadow values).
Chương bảy bàn đến phương pháp định giá phát sinh (contingent valuation
method).
Một khi đã xác định được giá trị của đầu vào, đầu ra, chúng ta còn cần phải thực
hiện thêm một số bước trong việc chuẩn bị một phân tích. Chương tám đưa ra cơ
chế khấu trừ, chỉ dẫn trong việc lựa chọn mức lãi suất phù hợp trong việc khấu trừ
chi phí lợi ích tương lai. Chương chín bàn đến phân tích độ nhạy cảm và phân tích
rủi ro. Phân tích này đặc biệt quan trọng đối với các trường hợp các chi phí lợi ích
là bất ổn.
Cuối cùng, chương mười đưa ra những tài liệu tham khảo bổ ích cho các độc giả
trong việc chuẩn bị và đánh giá các phân tích trong đó có nêu nguồn gốc của các
mức giá, lãi suất, độ co dãn ước tính và số lượng thị trường.
Một số nghiên cứu điển hình sẽ khép lại cuốn sách. Các nghiên cứu này mô tả việc
ứng dụng các kỹ thuật này vào các vấn đề thực tế.
Tham khảo
Portney and Weyant (1999).

CHƯƠNG 2: Vị Thế Trong Phân Tích
Chi-Phí Lợi Ích
Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
Bước đầu tiên trong phân tích chi phí lợi ích là xác định xem ai là đối tượng có vị
thế trong phân tích. Có nghĩa là ai là người có quyền hưởng lợi cũng như ai là
người có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm chi trả cho các chi phí. Vấn đề vị thế
quyết định góc nhìn của phân tích. Nó có thể có tác động lớn đến các tính toán lợi
ích chi phí.
Trong lý thuyết kinh tế, ai cũng đều có vị thế: nên đưa phúc lợi xã hôị của tất cả

những ai là đối tượng điều chỉnh của một chính sách vào phân tích bất kể họ sống
ở đâu, họ giàu hay nghèo, đã được sinh ra hay sẽ sinh ra ở đâu. Sở dĩ như vậy là
bởi lý thuyết kinh tế không được gắn kết tốt với những tính toán thể chế, nhất là
các tính toán luật pháp. Các vấn đề về vị thế thường xuất hiện trước hết là trong
quá trình đo lường các ý kiến, thứ hai là trong các ước tính thực tế.
Các vấn đề vị thế thực tế nhất thiết phải là các vấn đề chính trị. Chúng cũng là
những vấn đề liên quan đến tư pháp. Phần lớn các phân tích chi phí lợi ích thường
được tiến hành trên vị thế quốc gia. Kết quả là chúng không tính đến vị thế của
người nước ngoài. Song nhìn từ góc độ mang tính địa phương nhiều hơn cũng xuất
hiện một vấn đề tương tự. Hãy tưởng tượng một tình huống thực tế trong đó một
cơ quan hay chính quyền thành phố triển khai một dự án. Nếu một CBA được tiến
hành trên vị thế của cơ quan đó, có thể là chỉ có các thành viên của cơ quan đó
hoặc lợi ích của cơ quan đó có vị thế trong phân tích. Lúc đó, chỉ có chi phí và
doanh thu của cơ quan đó là cần phải tính đến. Nếu thay vào đó, CBA được tiến
hành ở góc độ toàn thành phố thì các cư dân của thành phố đó cũng như chính
quyền thành phố đó có vị thế. Một cách lý tưởng, nên có một vị thế mang tính toàn
cầu hay phổ thông. Có như vậy, lợi ích của người dân trong thành phố đó, các
thành phố lân cận hay ở một nơi nào đó mới được tính đến. Song điều này thường
là không thực tế hay không nhất quán với lợi ích của người tiến hành phân tích.
Xuất phát điểm tiến hành phân tích CBA (hay ai có vị thế) nên được nêu một cách
rõ ràng và áp dụng một cách nhất quán trong suốt quá trình nghiên cứu. Giả dụ
như hãy tưởng tượng rằng một thị trấn đang xem xét việc xây dựng một bệnh viện.
Quyết định xây bệnh viện mới này sẽ dẫn đến tình trạng một bệnh viện khác ở
vùng lân cận phải ngừng hoạt động. Nếu các cư dân của vùng lân cận đó được coi
là có vị thế thì nên đưa lợi ích mà họ có được từ bệnh viện mới vào chi phí của
việc mất đi một bệnh viện cũ hơn và gần hơn. Một nhà phân tích bất hảo có thể sẽ
tìm cách chỉ đưa vào một trong các chi phí chứ không phải là tất cả.
Chương này sẽ đề cập đến vấn đề vị thế trước hết là theo nghĩa truyền thống. Tức
là xem xét tác động của việc mở rộng hay thu hẹp diện đối tượng có lợi ích trong
việc thực hiện dự án. Tiếp đó, chúng ta sẽ xét đến các vấn đề phân phối trong

CBA như một dạng câu hỏi đặc biệt về vị thế. Cuối cùng, chúng ta sẽ mở rộng
diện nghiên cứu để tính đến tác động của dự án đối với con cháu chúng ta. Chúng
ta cũng xem xét vấn đề ban vị thế cho những đứa trẻ tuy chưa được sinh ra song đã
được hưởng lợi ích mà dự án đem lại cũng như gánh chịu hậu quả nó gây ra.
2.1 Vị thế và Chuyển nhượng Vị thế
Một trong những ẩn ý quan trọng của vị thế là xử lý như thế nào với sự chuyển
nhượng giữa các cá nhân và tổ chức. Không nên tính chuyển nhượng tiền mặt,
hàng hoá hay dịch vụ từ người có vị thế này sang người có vị thế khác là chi phí
hay lợi ích trong phân tích. Chuyển nhượng giữa người không có vị thế với người
có vị thế phải được tính là lợi ích trong khi chuyển nhượng từ người có vị thế sang
người không có vị thế sẽ được tính là chi phí.

Ví dụ:
Vị thế và Xử lý Nước trên dòng Đa-nuýp
Sông Đa-Nuýp bắt nguồn từ Đức và chảy qua các nước Áo, Slôvakia, Hungari,
Croatia, Séc-bi, Bungari và Rumani trước khi đổ ra biển Đen. Nếu chính phủ Áo
tính đến việc xây một nhà máy xử lý nước nhằm cải thiện chất lượng nước của
sông Đa-Nuýp, họ có vẻ như chỉ cấp vị thế sử dụng cho người Áo và bỏ qua lợi
ích mà người dân các nước khác sinh sống dọc theo con sông được hưởng từ dự
án. Điều này khiến cho ích lợi thu được từ việc cải thiện chất lượng nước giảm đi.
Nó có thể đặt dấu chấm hết cho một dự án mà đáng lẽ ra đáng để triển khai nếu vị
thế sử dụng mang tính toàn cầu.
Hãy tưởng tượng rằng chính phủ Hungari muốn nhà máy được xây dựng và đóng
góp 100 triệu đôla cho chính phủ Áo để hỗ trợ chi phí xây dựng. Nhìn từ góc độ
toàn cầu, khoản chi trả này là một sự chuyển nhượng. Nó không phải là chi phí
hay lợi ích của dự án. Tuy nhiên, với một nghiên cứu CBA mà trong đó chỉ có
chính phủ Áo là có vị thế sử dụng thì khoản tiền này sẽ được tính như là lợi ích mà
dự án đem lại. Nếu nghiên cứu CBA được tiến hành dưới góc nhìn của người
Hung thì khoản tiền đó được tính như là chi phí của dự án.


Vấn đề vị thế sử dụng thường được áp dụng không đúng trong phân tích các dự án
phát triển kinh tế nhằm trợ giúp những vùng nghèo đói. Tiền cho các dự án này có
thể được lấy từ các khoản thu thuế ở nơi khác và có lẽ được dùng để thuê nhân
công của vùng đó. Nếu tiền thuế được trả cho các cư dân địa phương dưới dạng
tiền lương, tiền lương đó có thể được tính như lợi ích mà dự án đem lại. Đây là
một cách tính toán sai lầm.Chừng nào những người đóng thuế còn có vị thế sử
dụng thì chừng đó các khoản chi trả lương này còn là những khoản chuyển
nhượng chứ không phải là chi phí hay lợi ích của dự án.
[1] Những chuyển nhượng
này có thể được mong đợi vì những lý do khác. Tuy nhiên, cần phải nêu rõ những
lý do này trong phân tích CBA.

Ví dụ:
Xác định giá trị lao động cho việc khôi phục cây cối bị chặt phá ở hai
bên đường
Một dự án được đề xuất xây dựng với mục tiêu phủ xanh lại các con đường bị đốn
chặt cây hai bên nhằm ngăn chặn tình trạng xói mòn đất và cải thiện chất lượng
nước suối ở khu vực xung quanh. Do việc đốn gỗ gần đây trong vùng có giảm nên
vùng dự án có tỷ lệ thất nghiệp cao. Một phụ nữ đại diện cho người dân trong
vùng cho biết tiền công trả cho người dân địa phương làm việc cho dự án là lợi ích
mà dự án đem lại và nên được tính là lợi ích. Liệu ý kiến của chị có đúng không?
Câu trả lời phụ thuộc vào việc phân tích CBA của dự án được tiến hành dưới góc
độ nào và nguồn vốn cho dự án là nguồn nào. Nếu phân tích được tiến hành dưới
góc độ người dân địa phương, nguồn vốn có thể là nguồn của chính phủ hay nguồn
thu thuế của chính quyền liên bang thì các mức lương chi trả là lợi ích. Nếu phân
tích được tiến hành dưới góc độ của chính phủ và nguồn vốn được lấy từ doanh
thu thuế thì các khoản lương chi trả đơn giản là một khoản chuyển nhượng. Chúng
không được tính là lợi ích. Nếu phân tích được tiến hành dưới góc độ chính phủ và
giả định rằng chính quyền liên bang sẽ cấp vốn cho dự án thì các mức lương chi
trả là một khoản chuyển nhượng từ những người nộp thuế (những người không có

vị thế sử dụng) sang các công dân của bang và nên được tính là một khoản lợi thu
được từ dự án.
Một vấn đề tách biệt ở đây là giá trị của lao động được dùng trong công việc. Nếu
không có dự án, những người làm thuê cho dự án sẽ bị thất nghiệp và người ta có
xu hướng sẽ gán một giá trị bằng không cho lao động đó. Điều này bỏ qua giá trị
của dịch vụ nội trợ họ đã có thể cung cấp cộng với giá trị của thời gian nghỉ ngơi
họ có được dù cho giá trị nghỉ ngơi có thể bằng không ở những vùng có tỷ lệ thất
nghiệp cao.

Ví dụ:
Các lựa chọn phát triển giao thông công cộng
Một thành phố đang xem xét hai khả năng cho việc mở rộng hệ thống vận tải công
cộng. Khả năng thứ nhất là mở rộng dịch vụ xe buýt, khả năng thứ hai là lắp đặt
một hệ thống đường ray nhẹ. Vì nhiều lý do khác nhau, hai khả năng này mang
tính loại trừ lẫn nhau; chỉ có thể thực hiện được một trong hai dự án. Các phân tích
CBA đáng tin cậy đã được tiến hành cho cả hai dự án. Qua đó người ta nhận thấy
rằng việc mở rộng hệ thống dịch vụ xe buýt sẽ tạo ra một lợi ích ròng là 40 tỷ đôla
trong khi việc lắp đặt và vận hành một đường ray nhẹ sẽ tạo ra một khoản lời ròng
là 35 tỷ đôla. Vì chính phủ liên bang cũng đang triển khai một chương trình đường
sắt hạng nhẹ nên thành phố có thể xin chính phủ tài trợ cho 10 tỷ đôla cho việc xây
dựng đường ray. Nếu thành phố mở rộng dịch vụ xe buýt, thành phố sẽ không có
được khoản tài trợ này. Vậy nên chọn dự án nào để triển khai?
Vị thế sử dụng đóng vai trò quan trọng ở đây. Nếu phân tích từ góc độ một dự án
toàn quốc, thì khoản tài trợ $10 đôla của chính phủ sẽ chỉ đơn giản là một khoản
chuyển nhượng. Nó không có tác động gì lớn đến lợi nhuận ròng của dự án. Tuy
nhiên, nếu phân tích từ góc độ một dự án của thành phố thì khoản tiền này lại là
lợi ích của việc lựa chọn dự án xây đường sắt hạng nhẹ. Lúc đó, tổng lợi ích ròng
của dự án tăng lên $45tỷ đôla. Điều này khiến cho dự án xây đường sắt hạng nhẹ
được mong đợi hơn so với dự án tăng cường dịch vụ xe buýt dù cho xét từ góc độ
quốc gia thì dự án này có ưu thế hơn.

2.2 Gộp Lợi ích và Chi phí
Xuất phát điểm quyết định sẽ đưa chi phí nào vào trong phân tích. Ở mức độ đơn
giản nhất, phân tích sẽ bao gồm những thiệt hại mà những người có vị thế sử dụng
trong dự án phải gánh chịu hay những lợi ích mà họ được hưởng. Tuy nhiên, việc
phân biệt đâu là lợi ích và chi phí trở nên khó khăn hơn tuỳ thuộc vào xuất phát
điểm chính xác của nghiên cứu.
Hãy hình dung rằng một phòng quản lý công viên và giải trí thành phố đang cân
nhắc xem có nên xây dựng và vận hành một sân gôn hay không. Người ta có thể
biết tương đối rõ ràng các mức chi phí song không dễ gì quyết định được đâu là lợi
ích được đưa vào trong chi phí. Một phân tích được tiến hành với xuất phát điểm
chung chung sẽ cố gắng tính toán những giá trị mà người chơi gôn sẽ được nhận
nếu có thêm một sân gôn nữa trong khu vực. Lợi ích này có lẽ là giảm bớt tình
trạng quá tải ở các sân gôn, nhiều lựa chọn hơn và độ thuận tiện cao hơn cho
người chơi. Một phân tích từ góc độ thành phố sẽ cố gắng tính lợi ích mà dự án
sân gôn mang lại bằng cách cộng độ thụ hưởng gia tăng mà những người chơi gôn
trong thành phố có được với doanh thu mà những người chơi gôn đến từ nơi khác
thu được. Một phân tích bó hẹp trong phạm vi một phòng chuyên về giải trí sẽ chỉ
tính đến doanh thu mà sân gôn sẽ tạo ra mà bỏ qua giá trị của bất kỳ lợi ích nào
phí thuê sân mà người chơi gôn phải trả. Mỗi một cách tiếp cận sẽ mang lại một
kết quả khác nhau. Nhưng cách tiếp cận nào cũng có thể đúng với điều kiện vị thế
sử dụng tính đến phải đúng.

Ví dụ:
Vị thế sử dụng và lợi ích của việc đội mũ bảo hiểm khi đi xe đạp
Trong một phân tích về chi phí lợi ích của việc đội mũ bảo hiểm, Ginsberg và
Silverberg (1994) ước tính giá trị thiệt hại về người (bị thương và tử vong) do việc
không đội mũ bảo hiểm gây ra. Tuy nhiên, họ chỉ đưa phí chữa trị (cho thương tật)
và sản lượng kinh tế bị mất vào trong phân tích của mình. Không có cái giá nào
được gắn cho việc một người phải từ giã cuộc đời của mình. Kết quả là giá trị của
việc đội mũ bảo hiểm với những người còn sống thường là thấp.

Xuất phát điểm của phân tích chính là lời lý giải cho việc gán một giá trị thấp cho
một mạng người được cứu sống. Phân tích được tiến hành dưới góc độ xã hội.
Điều này có nghĩa là người ta không tính đến bất kỳ giá trị nào mà một cá nhân có
thể gán cho tình trạng một người không bị thương và còn sống sót. Chỉ có các dịch
vụ kinh tế được người bị thương cung cấp cho những người khác là được tính đến
(tính dựa trên GDP trên đầu người) là được tính đến cũng như chi phí mà xã hội
phải gánh khi họ bị thương.
Nếu mở rộng xuất phát điểm sang giá trị mà một người gán cho cuộc đời và sức
khoẻ của mình, lợi ích mà nghiên cứu mang lại sẽ lớn hơn. Tuy nhiên, dường như
các nhà nghiên cứu đang khuyến nghị rằng việc bắt buộc sử dụng mũ bảo hiểm
được biện minh từ góc độ xã hội chứ không phải là từ góc nhìn của chế độ gia
trưởng/chỉ huy.

Liệu phân tích chi phí lợi ích có tính giá trị của sự ghen tị hay ác ý ở mức ngang
với những giá trị khác không? Liệu độ thoả dụng của một kẻ phạm tội cưỡng hiếp
hay dâm tà có được tính đến cùng với sự chịu đựng của nạn nhân hay không? Hay
liệu có nên tính giá trị của hàng hoá đánh cắp được đối với một tên trộm khi mà
hàng hoá đó sẽ được trả lại cho người bị mất? Nhà phân tích không thể và không
nên tự tiện đưa các giá trị của mình vào trong phân tích được. Tuy nhiên, một phân
tích quy chuẩn dường như không thể tính đến độ thoả dụng của những hành vi bất
hảo vì về mặt đạo đức mà nói việc đó là không thể biện hộ được. Và thật ra chi phí
lợi ích bị chỉ trích là không phân biệt được độ thoả dụng tốt với độ thoả dụng xấu.
Vì thế nó thất bại trong việc lột tả sắc thái đạo đức của đối tượng được phân tích.
Liệu có thể dung hoà hai quan điểm này không?
Xuất phát điểm cho chúng ta một phương tiện. Nếu chúng ta tính tất cả các giá trị
thì chúng không chỉ tính đến độ thoả dụng xấu mà còn tính cả độ phản thoả dụng.
Đó không chỉ là những gì mà nạn nhân của lòng hận thù, sự hiểm ác, ghen tị hay tà
dâm phải gánh chịu mà còn là giá trị của sự ghê tởm mà xã hội nói chung dành
cho hành vi xấu xa đó. Việc phân biệt giữa hành động tốt và xấu không chỉ do
người phân tích quyết định mà còn tuỳ thuộc vào phép tắc, thông tục của xã hội.

Có thể lấy những phép tắc này đại diện cho kết quả của một cuộc điều tra mà trong
đó độ thoả dụng xấu cũng như độ thoả dụng tốt có tầm quan trọng như nhau. Một
khi hành vi giết người hay trộm cắp đã là phi pháp thì độ thoả dụng có được từ
việc trộm cắp hay giết người nhìn chung mang giá trị âm. Có thể lấy giá trị này để
phủ định giá trị đồ mà tên trộm ăn cắp được cũng như độ thoả dụng mà kẻ giết
người có được từ việc giết người.

Ví dụ:
Trộm cướp
Một công ty cung cấp độ thoả dụng yêu cầu khách hàng của mình phải ứng tiền
trước một tháng cho các dịch vụ được cung cấp. Trong nhiều trường hợp khi
khách hàng thôi không sử dụng dịch vụ của công ty nữa thì công ty sẽ nợ khách
hàng một khoản. Công ty sẽ trả lại khoản nợ này nếu khách hàng yêu cầu. Song
nếu khách hàng không yêu cầu, công ty sẽ không trả lại. Theo cách này, công ty đã
tích luỹ được vài triệu đô la tiền lời. Hành động này của công ty bị chính phủ phát
hiện và đưa ra toà xét xử. Công ty đồng ý chấm dứt hành vi đó. Vấn đề hiện tại là
liệu có yêu cầu công ty hoàn trả phí khống mà nó đã thu từ khách hàng hay không.
Một nhà kinh tế được công ty thuê lập luận rằng việc trả lại tiền không có ý nghĩa
gì trong phân tích chi phí lợi ích. Công ty sẽ phải mất 03 triệu đô la cho việc hoàn
trả lại này cộng thêm chi phí của việc hoàn trả. Chi phí chiếm khoảng 10% tổng
lợi nhuận hay 300,000 đô la. Vậy là phân tích chi phí lợi ích cho thấy công ty
không nên hoàn trả lại số tiền này vì nó sẽ mất 300,000 đô la. Khoản tiền 3 triệu
đô chỉ là một khoản chuyển nhượng. Một nhà kinh tế làm việc cho chính phủ sau
khi đọc xong cuốn sách lại lập luận rằng một khi đã đi ăn cắp thì công ty đó không
có vị thế gì để tính đến lợi ích của mình. Kết quả của phân tích chi phí lợi ích lúc
đó chỉ là khoản lời 3 triệu đô mà khách hàng thu được trừ đi chi phí nguồn của
việc chuyển nhượng, tức là 300,000 đô. Lúc đó, lợi ích ròng của phân tích CBA là
2.7 triệu đô.

2.3 Các Phân tích Tác động Kinh tế

Một dạng khác của phân tích CBA là
phân tích tác động kinh tế. Phân tích này cố
gắng dự tính tất cả các tác động kinh tế của một dự án chính hay điều kiện thuận
lợi mà dự án tạo ra cho một khu vực hoặc một vùng. Tác động kinh tế thường
được định nghĩa là tổng doanh thu của các tiện ích, chi phí để có được các tiện ích,
doanh thu thuế có được và doanh thu bổ sung mà những doanh nghiệp ăn theo
được hưởng. Người ta thường dùng những nghiên cứu này để biện minh rằng cần
phải triển khai các dự án vì sự phát triển kinh tế vùng ngay cả khi dự án không
đem lại lợi ích ròng dương theo bất kỳ một cách hiểu truyền thống nào.
Ví dụ như một địa điểm biểu diễn hoà nhạc mới ở một khu vực trong thành phố sẽ
có khả năng thu hút một lượng lớn người đến xem hàng chục lần mỗi năm. Việc
này tạo ra việc làm và doanh thu cho cả địa điểm đó cũng như các hàng quán xung
quanh. Những khoản doanh thu này bị đánh thuế và chính quyền địa phương có
thêm thu nhập. Tác động kinh tế của việc xây nhà hát có thể bao gồm doanh thu
bừ bán vé, lương trả cho nhân viên nhà hát, khoản doanh thu gia tăng của các quán
bar, nhà hàng cùng những loại hình kinh doanh khác trong vùng. Ngoài ra, còn có
khoản thuế thu được từ những giao dịch này. Tất cả những khoản tiền này có thể
được đưa vào trong phân tích như là lợi ích mà dự án xây dựng nhà hát đem lại.
Loại phân tích này bỏ qua những chi phí của việc tổ chức những buổi hoà nhạc,
chi phí cơ hội của người lao động cho việc đi làm tại nhà hát. Lợi ích thực mà chủ
doanh nghiệp địa phương nhận được sẽ không phải là khoản doanh thu gia tăng
mà là khoản lợi nhuận gia tăng. Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng giữa phân tích
tác động và CBA là xuất phát điểm. Phân tích tác động kinh tế giới hạn vị thế sử
dụng với những doanh nghiệp nằm trong một khu vực nhất định tương đối hẹp.
Một phân tích CBA chính xác nên thừa nhận rằng sự có mặt của nhà hát đã thay
thế cho những chi tiêu cho các hoạt động giải trí khác. Thêm vào đó, chuyện xuất
hiện nhà hát khiến cho nhiều khách hàng đến với hàng quán trong vùng đó hơn có
thể đồng nghĩa với việc hàng quán ở một nơi khác nào đó có ít khách hàng hơn.
Nói một cách khác, các doanh nghiệp tại địa điểm có nhà hát chỉ đơn giản lấy đi
công việc làm ăn của các doanh nghiệp ở các vùng lân cận. Việc mở rộng phân

tích sao cho tất cả các doanh nghiệp trong thành phố hay khu vực đều có vị thế sử
dụng hầu như không thể tạo ra tác động ròng nào của một tiện ích mới cho dù tác
động kinh tế vùng có thể là rất lớn.
2.4 Vị thế Tương đối và Vấn đề Phân phối
Bởi vậy, chúng ta đã chỉ xem xét việc đưa vào hay loại bỏ vị thế sử dụng trong quá
trình thảo luận của chúng ta. Những người có vị thế trong một phân tích đều có
tầm quan trọng tương đương nhau. Tình huống này nhất quán với các điều kiện
Pareto hay Kaldor-Hicks tiềm năng (potential Pareto or Kaldor-Hicks ~KH). Các
điều kiện này chỉ rõ rằng một dự án là đáng mong đợi nếu như những người được
lợi từ dự án có khả năng dùng khoản lợi mà họ thu được để bồi thường cho những
người chịu thiệt hại. Diễn đạt một cách hơi khác đi một chút, điều kiện này có
nghĩa là một dự án là đáng để triển khai khi lợi ích lớn hơn chi phí cho dù có phân
phối lợi ích và chi phí như thế nào đi chăng nữa.
Đã có nhiều nỗ lực được thực hiện để đưa các cân nhắc phân phối vào trong phân
tích lợi ích chi phí. Tuy nhiên, chưa đi đến một cách tiếp cận chung nào. Cách tiếp
cận lý tưởng nhất là trong một nghiên cứu, những đối tượng khác nhau sẽ được
giao những vị thế ở mức độ khác nhau. Thế nên, khi áp đặt lên người này chứ
không phải người khác, các mức chi phí lợi ích có thể là khác nhau. Tầm quan
trọng khác nhau tương ứng với mỗi người được gọi là
sức nặng phân phối
(distributional weigths).
Một trong những lý do thông thường nhất lý giải việc gắn cho mỗi người một vị
thế tương ứng khác nhau là phân phối thu nhập. Điều này có nghĩa là lợi ích của
một chương trình có thể có ý nghĩa nhiều hơn đối với người nghèo hưởng lợi hơn
là người giàu được hưởng lợi. Một chương trình có lợi ích ròng âm có thể là đáng
mong đợi nếu như các chi phí bị áp đặt lên người giàu còn lợi ích được tích tụ cho
người nghèo. Một chương trình với lợi ích dương có thể không mấy được mong
đợi nếu người nghèo phải gánh chịu phần lớn các chi phí trong khi lợi ích thì
người giàu lại được hưởng.
Đơn cử một ví dụ. Xét các chương trình chỉ có tác động đến quá trình tái phân

phối thu nhập. Bất kỳ một loại chương trình nào cho việc tái phân phối thu nhập
đều bao gồm các chi phí. Kết quả là tiền đầu tư cho chương trình lấy từ toàn bộ
cộng đồng dân cư nói chung sẽ lớn hơn những gì cuối cùng được phân phối cho
những người hưởng lợi từ chương trình. Các chi phí gần như sẽ chắc chắn là lớn
hơn các lợi ích. Tuy nhiên, nếu những người góp vốn cho chương trình có thu
nhập tương đối cao và người hưởng lợi có thu nhập thấp thì chương trình có thể
vẫn đáng được triển khai. Để loại chương trình kiểu này đáng được triển khai hơn
thì chúng ta có thể gắn những sức nặng phân phối (distributional
weight) cho
người nghèo hưởng lợi lớn hơn sức nặng phân phối cho người giàu hưởng lợi.
Có một số cách tiếp cận thực tế điều chỉnh các điều kiện KH bằng cách đưa vào
phân tích CBA vấn đề phân phối. Cách tiếp cận đầu tiên, theo ý tưởng của
McKean (1958), đưa ra danh sách chi phí lợi ích của các nhóm hưởng lợi có khả
năng phải gánh chịu hay thụ hưởng nhiều nhất. Trong trường hợp này, nhà phân
tích không cần phải quyết định xem sức nặng phân phối cho mỗi người khác nhau
ở mức độ nào mà để độc giả tự quyết định. Ví dụ như nếu các loại thuế xăng dầu
liên bang tăng nhằm giảm lượng xăng dầu tiêu thụ và cải thiện chất lượng không
khí thì gánh nặng của việc tăng thuế sẽ rơi vào các cư dân nông thôn, những người
phải đi các quãng đường khá xa trong khi lợi ích lại rơi vào tay những cư dân
thành thị, những người nhìn chung phải nếm trải chất lượng ngày càng tồi đi của
bầu không khí. Một nhà phân tích chuẩn bị một báo cáo về triển vọng tăng thuế
xăng dầu có thể đơn giản chỉ ra điều này mà không cần phải gắn sức nặng tương
ứng cho cư dân nông thôn hay cư dân thành thị. Việc làm thế nào để xác định sức
nặng của mỗi nhóm trong việc đánh giá dự án có thể được dành cho độc giả của
báo cáo.
Một kỹ thuật thứ hai có thể được dùng là gắn những sức nặng rõ ràng cho các
nhóm khác nhau chịu tác động của dự án. Có thể tính toán được cái được và cái
mất của mỗi nhóm. Sau khi nhân với sức nặng phân phối của mỗi nhóm, chúng sẽ
được cộng lại với nhau để có được lợi ích ròng gia quyền (weighted net benefit).
Xét ví dụ về một dự án sẽ buộc cư dân vùng lân cận A phải gánh chịu chi phí ròng

trong khi đem lại lợi ích ròng cho cư dân vùng lân cận B. Ví dụ này được thể hiện
tại bảng 2-1. Vì cư dân của vùng A giàu có hơn cư dân vùng B nên có sức nặng
phân phối ít hơn.
[2]
Bảng 2-1
Vùng lân
cận
Lợi ích
ròng
Sức nặng
Phân phối 1
Lợi ích ròng
Gia quyền
Sức nặng
Phân phối 2
Lợi ích ròng
Gia quyền
A -100 1 -100 1 -100
B +80 1.2 +96 1.4 +112
-20 -4 +12
Dưới điều kiện Kaldor-Hicks, dự án là không được mong muốn vì lợi ích ròng của
dự án mang giá trị âm. Tăng sức nặng tương đối gắn cho mỗi cư dân của vùng lân
cận B lên 20%, lợi ích ròng của dự án vẫn mang giá trị âm. Song nếu tăng lên 40%
thì lợi ích ròng của dự án sẽ mang giá trị dương. Khó khăn đầu tiên gặp phải trong
quá trình đánh giá sức nặng phân phối hiện (explicit distributional weigths) là
quyết định xem chi phí và lợi ích sẽ được phân bổ như thế nào giữa các bộ phận
dân cư khác nhau. Sau đó chọn lọc ra một sức nặng phân phối được thoả thuận.
Ví dụ: Sức nặng Phân phối tại OMB
Chúng ta có thể có được một ví dụ tuyệt vời của việc vận dụng sức nặng phân phối
và khó khăn chúng tạo ra trong cuốn sổ tay hướng dẫn của Văn phòng Quản lý và

Ngân sách (OMB) liên quan đến giá trị tương đối của người già và thanh niên. Họ
là những người có thể được cứu sống nhờ chất lượng không khí được cải thiện.
[3]
Cuộc sống của một số người già được định giá thấp hơn cuộc sống của các thanh
niên. Điều này thực ra là kết quả của một phân tích cơ bản về số năm tuồi thọ
được cứu sống. Song kết quả thu được giống như khi gán cho các sức nặng phân
phối khác nhau. Một lợi ích (một người được cứu sống) đem lại cho một thành
viên của một nhóm có giá trị tương đối khác biệt so với cùng một lợi ích đó nhưng
đối với thành viên của một nhóm khác.
Có hai tác động quan trọng cần lưu ý đến. Tác động đầu tiên là nếu hai chương
trình cứu thoát được số người bằng nhau với cùng một chi phí thì chương trình đã
cứu thoát một lượng thanh niên nhiều hơn sẽ được ưa thích hơn. Tác động thứ hai,

×