Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 13 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO</b>
<b>MỤC LỤC</b>
<b>Phần I. Nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế thế giới năm</b>
<b>Phần II. Tác động đối với nền kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới</b> ... <b>Trang 061. Tác động đối với nền kinh tế Mỹ </b>……….. <b>Trang 062. Tác động đối với nền kinh tế thế giới </b>………... <b>Trang 08</b>
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>Mở đầu</b>
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 được coi là một trong những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất kể từ sau Đại khủng hoảng năm 1929 – 1933, mà tác động, ảnh hưởng của nó đã tạo ra những thay đổi đáng kể, dẫn tới một xu hướng hình thành cục diện thế giới mới. Trong đó, các quốc gia phát triển vốn là động lực thúc đẩy kinh tế thế giới rơi vào suy thoái kéo dài; các quốc gia đang phát triển lại tăng trưởng nhanh, một số nền kinh tế mới nổi vươn lên chiếm lĩnh vị trí của các nền kinh tế phát triển . Các tổ chức kinh tế quốc tế có nhiều điều chỉnh<small>1</small> đáng chú ý nhằm thích ứng với tình hình mới; xu hướng hình thành các liên kết kinh tế quốc tế theo nhóm quốc gia và khu vực gia tăng mạnh mẽ, một số nền kinh tế mới nổi đóng vai trị quan trọng; các luồng vốn đầu tư, lao động và cơ cấu ngành nghề cũng có sự dịch chuyển từ Tây sang Đông, từ Bắc tới Nam, từ các nước phát triển sang các nước mới nổi và đang phát triển. Nội dung bài tiểu luận sẽ tập trung làm rõ những nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, tác động đối với nền kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới.
<b>Phần I</b>
<b>Nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008</b>
Nguyên nhân cuộc khủng hoảng được xác định là bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ lại được xác định có nguyên nhân từ việc các ngân hàng thương mại của Mỹ cho vay mua nhà với một quy mô lớn, tạo nên những “đống” nợ xấu khổng lồ, đánh sập hoạt động của các ngân hàng này vốn đang ôm nhiều khoản vay được thế chấp bằng bất động sản “dưới chuẩn”.
Trên thực tế có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, trong đó có nhiều nguyên nhân đã tiềm ẩn từ trong nền kinh tế và chính sách tài chính của Mỹ rất lâu trước khi chính thức bùng nổ và gây ra cuộc khủng hoảng tài chính tại cường quốc kinh tế số một thế giới. Một trong những nguyên nhân sâu xa là xuất phát từ cơ cấu và cơ chế vận hành nền kinh tế Mỹ sau cuộc suy thoái kinh tế năm
<small>1 Năm 2008, TQ vươn lên chiếm lĩnh vị trí nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới của Nhật Bản; năm 2013, Brazil vượtqua Anh trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 thế giới.</small>
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">2001, ảnh hưởng từ cuộc khủng bố 11/9 ; bên cạnh đó, sự buông lỏng trong cơ chế quản lý nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại hoạt động đa năng và rộng khắp cả nước, mở cửa tự do và khơng kiểm sốt mọi loại cơng cụ tài chính mới xuất hiện, cho phép các công ty bảo hiểm chỉ dựa hoàn toàn vào “niềm tin” (khi thị trường xuống dốc tồn diện, các cơng ty này phá sản vì khơng có khả năng thanh tốn), bán khống chứng khốn vơ căn cứ… Khi đồng USD mất giá thì giá cả, thương mại, tài chính và các tài sản có giá trị bằng đồng USD đều bị ảnh hưởng; sự sụp đổ của ngân hàng Mỹ kéo theo hiệu ứng domino gây ra sự phá sản của hàng loạt ngân hàng các nước trên thế giới, có thể tóm gọn lại 07 nguyên nhân chính giải thích cho những sai lầm của Mỹ dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cụ thể như sau:
<b>1. Nợ dưới chuẩn</b>
Nợ dưới chuẩn chính là các khoản cho vay đối với các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Họ thường là những người nghèo, khơng có cơng ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có một lịch sử thanh tốn tín dụng khơng tốt. Vì thế, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao, nhưng lại có mức lãi suất rất hấp dẫn. Đây còn là một giải pháp để cân đối về nguồn vốn tín dụng tồn cầu nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, việc cho vay nợ dưới chuẩn một cách thái quá dẫn đến việc mất kiểm sốt chất lượng tín dụng.
<b>2. Chứng khốn hóa</b>
Ngun tắc căn bản của chứng khóa hóa là biến các chứng từ tài sản thành các sản phẩm có thể mang ra bán trên thị trường chứng khoán. Bất cứ chứng từ tài sản nào cũng có thể chuyển đổi được như chứng từ tín dụng truyền thống, tín dụng bất động sản, tín dụng thương mại… Nó đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả để thực hiện cho vay nợ dưới chuẩn. Chứng khốn hóa xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1970 và phát triển mạnh trong mơi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001.
Khi nền kinh tế suy thoái, người vay tiền mua nhà không được trả các khoản vay thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín <small>2 Từ tháng 5/2001 đến tháng 12/2002, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã liên tục giảm lãi suất liên ngân hàng từ6,5% xuống còn 1,75%. Trong tháng 01/2008, đạt tỷ lệ 4% và xuống còn 0,25% trong tháng 01/2009. Các giảipháp nới lỏng tiền tệ trong thời gian quá dài đã khiến đồng tiền mất giá và dẫn tới lạm phát.</small>
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng, làm giá bất động sản ngày càng giảm. Vì vậy, giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vịng xốy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh.
<b>3. Các cơng ty định mức tín nhiệm</b>
Do sự ra đời của các cơng ty định mức tín nhiệm nên các giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) rất hấp dẫn người mua, nó có mức độ rủi ro thấp nhất, được các tổ chức đánh giá tín nhiệm xếp hạng cao. Hàng loạt những khoản vay được định giá AAA để thực hiện chứng khốn hóa là những khoản vay thứ cấp, người đi vay không trả được nợ, dẫn đến hiệu ứng domino trong toàn hệ thống tài chính.
<b>4. Cơng cụ đầu tư kết cấu</b>
Cơng cụ đầu tư kết cấu (SIV) hoạt động theo hình thức huy động vốn ngắn hạn bằng việc phát hành thương phiếu với lãi suất thấp, đầu tư vào các loại chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản với lãi suất cao. Các công ty SIV đi vay bằng cách phát hành chứng khoán ngắn hạn lãi suất thấp rồi cho vay lại bằng cách mua các chứng khoán dài hạn, nhất là mua MBS và CDO, qua đó hưởng phần chênh lệch. Tuy nhiên, khi lãi suất của chứng khoán dài hạn thấp hơn lãi suất chứng khốn ngắn hạn thì các SIV này bị lỗ. Khi khủng hoảng nợ dưới chuẩn xảy ra, người đi vay khơng cịn khả năng thanh tốn thì các SIV này phải lâm vào tình trạng nguy cấp, dẫn tới phá sản hàng loạt.
<b>5. Hợp đồng hốn đổi tổn thất tín dụng</b>
Hợp đồng hốn đổi tổn thất tín dụng (CDS) là một thỏa thuận giữa hai bên, trong đó một bên phải trả phí dịch vụ định kỳ cho bên kia và được cam kết nhận đủ số tiền cho vay tín dụng nếu bên thứ ba không trả được nợ. CDS giống như một hợp đồng bảo hiểm vì chúng có thể được các chủ nợ mua để đề phòng nguy cơ bên vay khơng thanh tốn được nợ. Tuy nhiên, trên thực tế, do khơng có u cầu cầm cố bất cứ tài sản nào nên CDS cũng có thể được sử dụng cho các mục đích đầu cơ. Do ngày ngày càng nhiều các các cơng ty của Mỹ khơng thanh tốn được số chứng khoán phát hành khi suy thoái kinh tế ngày một lún sâu nên sự đổ vỡ của các CDS là điều không thể tránh khỏi.
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>6. Mua bán khống</b>
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn liên quan đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá rất lớn. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn lại bao nhiêu tiền chệnh lệch họ sẽ hưởng trọn. Thậm chí, họ cịn áp dụng cách thức mua bán khống vô căn cứ, tức là không vay chứng khoán nữa mà liên tục ra lệnh bán vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu.
<b>7. Khủng hoảng niềm tin</b>
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng là từ sự sụp đổ thảm khốc của niềm tin. Các ngân hàng cạnh tranh về mức độ cho vay cũng như tài sản. Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Cả thị trường xuống dốc và tất cả mọi người đều bị thua lỗ. Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy và độ tin cậy đó đã bị xuống cấp. Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers (ngày 15/9/2008) là biểu tượng của mức độ tin cậy đã xuống một mức thấp mới, là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử thế giới và là sự kiện đánh dấu cho cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.
<b>Phần II</b>
<b>Tác động đối với nền kinh tế Mỹ và nền kinh tế thế giới1. Tác động đối với nền kinh tế Mỹ</b>
Mỹ rơi vào suy thoái kéo dài, tiềm lực kinh tế của nước này suy giảm đáng kể<small>3</small>. Dưới tác động của tồn cầu hóa, nền kinh tế Mỹ đã bộc lộ những yếu điểm của mơ hình sản xuất dựa vào công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 1980 – 2000 và sau đó là dựa vào “bong bóng” tài chính – ngân hàng giai đoạn 2000 – 2008. Nhiều thành phố, kể cả các thành phố công nghiệp của Mỹ đã bị phá sản bởi sự dịch chuyển của ngành công nghiệp chế tạo trong nước tới các nước mới nổi và đang phát triển để tận dụng chi phí sản xuất và lao động giá rẻ, do hạn chế của mơ hình <small>3 Hàng loạt tập đồn cơng nghiệp, tài chính – ngân hàng lớn bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt (ở mức 8,2% -9,1%), chỉ số giá tiêu dung và sản lượng công nghiệp sụt giảm đáng kể, tốc độ tăng trưởng GDP giảm thấp (năm2011 đạt 1,8%, năm 2012 tăng lên 2,3%), nhiều quý tăng trưởng âm, xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài sụt giảmđáng kể do suy thối thị trường tồn cầu, nợ cơng (năm 2012 là 16.000 tỷ USD) và thâm hụt ngân sách (năm2012 là 1.090 tỷ USD). Năm 2011, lần đầu tiên kể từ năm 1971, Mỹ bị đánh tụt hạng về mức độ tín nhiệm tàichính (từ AAA xuống AA+) và TQ trở thành chủ nợ lớn nhất của Mỹ.</small>
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">kinh tế thị trường tự do và “bong bóng” tài chính – ngân hàng. Mỹ tiếp tục bị lơi kéo và các cuộc chiến tranh tốn kém gây chia rẽ nội bộ, nguy cơ khủng bố tăng cao, nợ công, thâm hụt ngân sách và thất nghiệp cao kỷ lục.
Việc duy trì và củng cố sức mạnh kinh tế Mỹ còn bị cản trở bởi các yếu tố khác như sự suy giảm về tiềm lực kinh tế dẫn đến vị thế cường quốc hàng đầu của Mỹ sụt giảm đáng kể, năm 2012, GDP của Mỹ còn chiếm 21,96% tổng GDP thế giới (15.653 tỷ USD/71.277 tỷ USD), giảm so với mức 32,6% vào năm 2001; đóng góp của Mỹ tại IMF chỉ còn 16,74% giảm so với mức 17,49% trước đó; đóng góp và vai trị của Mỹ tại WB (chiếm 15,85% quyền bỏ phiếu) và một số tổ chức kinh tế quốc tế khác cũng giảm sút. Năm 2012, Mỹ bị tụt xuống vị trí thứ ba thế giới về thương mại quốc tế (chỉ còn chiếm 11% tổng thương mại thế giới, so với 12% của TQ và 16% của EU). Xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu hút và đầu tư ra nước ngoài của Mỹ bị suy giảm đáng kể do suy thoái kinh tế và cạnh tranh quyết liệt từ các nước công nghiệp phát triển và các nước mới nổi khác. Mỹ trở thành con nợ lớn của TQ và Nhật Bản. Vai trị là động lực quyết định chính đối với nền kinh tế thế giới của Mỹ đang giảm dần.
Bên cạnh đó, Mỹ cịn phải đối mặt với hàng loạt vấn đề đặt ra sau khủng hoảng như sự sụp đổ của các thị trường nước ngoài, bạo lực, xung đột sắc tộc – tôn giáo, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, cạn kiệt tài nguyên, dân số tăng nhanh, ơ nhiễm mơi trường và biến đổi khí hậu, dịch bệnh, di dân… tiếp tục diễn ra và có nhiều diễn biến xấu, tác động tiêu cực tới vị thế của Mỹ. Thiếu hụt nguồn tài chính, khủng hoảng mơ hình phát triển kinh tế, vị trí số một về khoa học – công nghệ bị thách thức, cạnh tranh quyết liệt từ các trung tâm kinh tế lớn khác, đặc biệt là từ các nền kinh tế mới nổi, khiến ưu thế siêu cường đơn cực của Mỹ bị lung lay, buộc Mỹ phải có sự điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại theo hướng củng cố trong nước, chia sẻ nguồn lực trong quản lý và kiểm sốt các vấn đề tồn cầu, điều tiết và chi phối kinh tế thế giới.
<b>2. Tác động đối với nền kinh tế thế giới</b>
Sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, nền kinh tế thế giới, cụ thể hơn là các nền kinh tế quốc gia, các tổ chức kinh tế quốc tế đều bộc lộ những khiếm
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">khuyết bởi những hạn chế trong cấu trúc quyền lực kinh tế, trong quan hệ kinh tế quốc tế và trong các cơ chế, thể chế kinh tế quốc tế. Do đó, theo chiều hướng của quy luật phát triển, buộc tất cả các chủ thể kinh tế quốc tế phải có những thay đổi, tìm kiếm sự phù hợp mới, thích ứng với điều kiện tồn tại và phát triển ở một giai đoạn lịch sử mới.
Hệ thống ngân hàng phá sản hàng loại tại Mỹ và các nước đang phát triển (từ 15/9/2008 – 24/7/2009 có đến 79 ngân hàng thương mại tại các nước này tuyên bố phá sản); ngành ngân hàng thế giới thiệt hại 2.280 tỷ USD vì khủng hoảng tài chính. Thị trường chứng khốn tồn cầu đã mất khoảng 17.000 tỷ USD; thị trường các nước mới nổi giảm 54,72%, thị trường các nước phát triển giảm 42,72%. Các nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Đức và Pháp vấp phải nghi ngờ về quy mô các khoản nợ cơng; có những quốc gia phải đối mặt với tình trạng “phá sản quốc gia”. Giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới sụt giảm (giá dầu giảm đến 62,82%). Theo tiến trình đó, khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế giới như sau:
<b>2.1. Hình thành cục diện kinh tế thế giới mới, phản ánh xu thế phát triển</b>
khách quan của nền kinh tế thế giới.
Điều này thể hiện qua sự sốn ngơi trong cấu trúc quyền lực kinh tế thế giới, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển trỗi dậy mạnh mẽ; các nền kinh tế công nghiệp phát triển, đặc biệt là Mỹ và EU suy giảm tương đối. Kinh tế Mỹ suy thoái, ảnh hưởng đáng kể tới vị thế cường quốc số một; TQ nhanh chóng vượt lên thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, vừa là đối tác, vừa là đối thủ cạnh tranh chiến lược với Mỹ, cùng chi phối việc hình thành cục diện kinh tế thế giới mới. Sau khủng hoảng, nhóm BRICS nhanh chóng vươn lên, đại diện cho hiện tượng trỗi dậy của<small>4</small> các nước mới nổi. Nhóm BRICS và cơ chế G20 đang có ảnh hưởng ngày một lớn hơn, có khả năng làm thay đổi cán cân quyền lực trong nền kinh tế thế giới, thay thế cơ chế G7/G8 đã suy giảm vị thế.
Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này là do sự thay đổi tương quan sức mạnh giữa các nước phát triển và mới nổi. Sau nhiều thập kỷ phát triển nhanh chóng, các nước cơng nghiệp phương Tây đang rơi vào tình trạng bão hịa, suy <small>4 Nhóm các nền kinh tế mới nổi bao gồm: Brazil, Nga, Ấn Độ, TQ và Nam Phi.</small>
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">thoái kéo dài, thất nghiệp và nợ công tăng cao, làm ảnh hưởng tới sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong khi đó, các nước mới nổi và đang phát triển đã tích lũy được tiềm lực kinh tế đáng kể trong hơn một thập kỷ qua nhờ tiếp nhận các luồng di chuyển hoạt động sản xuất, nguồn vốn và chuyển giao công nghệ từ phương Tây, có cơ cấu dân số vàng, nguồn tài nguyên sẵn có và nhiều tiềm năng chưa khai thác, đang trỗi dậy mạnh mẽ, gây ảnh hưởng đáng kể tới cục diện kinh tế - chính trị thế giới, đồng thời đấu tranh để xây dựng một trật tự kinh tế - chính trị thế giới mới, trong đó những nước này có vị trí, vai trị quan trọng hơn, tương xứng hơn.
<b>2.2. Các trung tâm kinh tế, công xưởng sản xuất của thế giới dịch chuyển từ</b>
Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam, từ các nước phát triển sang các nước mới nổi và đang phát triển, kéo theo sự chuyển dịch của luồng vốn, lao động, công nghệ và sự thịnh vượng.
Cùng với việc dịch chuyển này, thất nghiệp, suy thoái kinh tế đang gia tăng tại các nước công nghiệp phương Tây, khiến các nước này, đặc biệt là Mỹ và EU, phải cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy mạnh khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ, tạo bước phát triển đột phá về chất nếu không muốn tụt hậu. Trong khi đó, các nước mới nổi và đang phát triển tích lũy được tiềm lực kinh tế đáng kể, đang vương lên cạnh tranh quyết liệt. Việc giải quyết thực trạng này quyết định cục diện kinh tế thế giới mới hậu khủng hoảng.
<b>2.3. Các ngành nghề và loa động trong nền kinh tế thế giới có sự thay đổi.</b>
Kết cấu ngành nghề của các nước có sự thay đổi lớn và quan trọng do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, tỷ trọng ngành dịch vụ tăng mạnh (trung bình chiếm 60% GDP, ở Mỹ là 73%, EU 63%, Nhật Bản 56%), công nghiệp tăng chút ít, một số nước giảm tỷ trọng cơng nghiệp (Mỹ 21% – 23%, EU 20% GDP), ngành nông nghiệp giảm tỷ trọng trong GDP (chỉ khoảng 2% - 3%).
Các ngành nghề có hàm lượng khoa học – cơng nghệ cao, công nghệ “xanh” tăng trưởng vượt bậc, các ngành cơng nghiệp truyền thống có tốc độ phát triển trung bình, cơng nghệ thơng tin trở thành trụ cột phát triển kinh tế.
Cơ cấu lao động việc làm có sự thay đổi đáng kể, yêu cầu đối với lực lượng lao động thay đổi nhanh chóng, địi hỏi phải đầu tư thích đáng cho giáo dục – đào
9
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">tạo, dạy nghề và quyết định sức cạnh tranh của các nền kinh tế. Già hóa dân số trở thành lực cản của các nước phát triển phương Tây.
<b>2.4. Hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc,</b>
ngày càng đan xen quyết liệt, vì lợi ích và tính tốn chiến lược của từng quốc gia. Hoạt động hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế gia tăng đột biến sau khủng hoảng năm 2008, đồng thời với các va chạm, xung đột lợi ích và trừng phạt kinh tế giữa các cường quốc lớn (TQ, EU, Mỹ, Nhật Bản…), các cuộc chiến tiền tệ - tỷ giá, tranh chấp thương mại cũng tăng lên tương ứng… Đáng chú ý là sự gia tăng chưa từng có của các liên kết kinh tế khu vực và liên kết liên khu vực, hình thành nên các liên kết chéo và các siêu khu vực thương mại tự do trên thế giới, hướng tới thành lập các siêu nhà nước, các siêu liên kết (như nhà nước Liên bang châu Âu, cộng đồng ASEAN…). Các quốc gia có chính sách hợp tác kinh tế quốc tế, nhất là chính sách liên kết kinh tế và tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu hợp lý, chủ động đặt trong tổng thể lợi ích quốc gia sẽ tận dụng thành cơng và hiệu quả lợi ích của nền kinh thế giới mới; ngược lại, nếu để bị lôi kéo theo ý đồ của các nước lớn sẽ thiệt hại tới lợi ích và ANQG.
<b>2.5. Hệ thống tài chính – tiền tệ, thương mại, đầu tư quốc tế có nhiều chuyển</b>
biến, theo tương quan sức mạnh kinh tế của các trung tâm lớn.
Cơ cấu tổ chức và vai trị của các tổ chức tài chính – tiền tệ đa phương được thiết kế lại, phản ánh thay đổi trật tự kinh tế thế giới, các nước mới nổi gia tăng vai trò và các nước phát triển suy giảm tương ứng. Đồng NDT của TQ dần tham gia vào trục đồng tiền chủ chốt USD – EUR – JPY, hình thành nên một trục tiền tệ mới cho hệ thống tài chính – tiền tệ. Trọng tâm các thị trường thương mại hàng hóa – dịch vụ đang dịch chuyển từ các nước phát triển sang các nước mới nổi và đang phát triển, lần đầu tiên kể từ sau khủng hoảng, các nước này đóng vai trị dẫn dắt thương mại hàng hóa dịch vụ, xóa bỏ thế độc chiếm của các nước phát triển giữa thế kỷ XX. Một số nền kinh tế mới nổi tranh thủ đầu cơ tích trữ các hàng hóa chiến lược, tạo thế và lực lớn trong giai đoạn sau khủng hoảng. Chính sách bảo hộ gia tăng đột biến sau khủng hoảng, phản ánh khả năng cạnh tranh ngang bằng của các nền kinh tế mới nổi và sự suy yếu tương đối của các nền kinh tế phát triển. Các FTA tăng đột biến do nhu cầu liên kết gia tăng, hình thành các khối siêu liên kết có sức mạnh lớn hơn, hướng
10
</div>