Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Đánh giá tác động của năng lực quản lý của ban điều hành hợp tác xã tới hiệu quả hoạt động của Hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp tại tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.88 KB, 63 trang )

1

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, MÔ HÌNH, ĐỒ THỊ
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………….1
1. Tính cấp thiết của đề tài ……………………………………………………1
2. Mục đích nghiên cứu ………………………………………………………2
3. Câu hỏi nghiên cứu …………………………………………………………2
4. Đối tượng nghiên cứu ...……………………………………………………2
5. Phương pháp nghiên cứu và Dữ liệu nghiên cứu …………………………2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA HỢP TÁC XÃ
1.1. Khái niệm Hợp tác xã……………………………………………………..4
1.2. Nguyên tắc hoạt động của hợp tác xã……………………………………6
1.3. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành HTX trong tiến trình phát
triển kinh tế xã hội……………………………………………………..8
1.3.1 Thất bại của thị trường…………………………………………………..8
1.3.2 Tổ chức đem lại quyền lực cho người nông dân………………………..10
1.3.3 Công cụ chính trị, kinh tế, xã hội của giới cầm quyền…………………13
1.4. Nguyên nhân các hợp tác xã truyền thống hoạt động không hiệu quả so
với các loại hình tổ chức khác………………………………………………..13
1.5. Các yếu tố nội sinh tác động đến hiệu quả hoạt động của HTX……19
1.5.1. Cấu trúc của quản trị…………………………………………………….19
1.5.1.1 Sự tham gia của thành viên…………………………………………….21


2

1.5.1.2 Sự cam kết của các thành viên…………………………………………21


1.5.2 Năng lực quản lý…………………………………………………………22
1.5.3 Quy mô kinh doanh………………………………………………………22
1.5.4 Loại sản phẩm và chất lượng sản phẩm………………………………….23
1.5.5 Chiến lược cạnh tranh……………………………………………………23
1.5.6 Quản lý rủi ro…………………………………………………………….25
1.6. Các yếu tố bên ngoài tác động đến kết quả hoạt động của hợp tác xã..25
1.6.1. Chính sách của chính phủ……………………………………………25
1.6.2. Thể chế chính trị……………………………………………………..26
1.6.3. Các hỗ trợ bên ngoài…………………………………………………26

CHƯƠNG 2. MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mô hình lý thuyết……………………………………………………….28
2.1.1. Kỹ năng quản lý tài chính ……………………………………………30
2.1.2. Kỹ năng quản lý sản xuất……………………………………………..30
2.1.3. Kỹ năng lập kế hoạch ………………………………………………….31
2.1.4. Kỹ năng lãnh đạo………………………………………………………31
2.1.5. Kỹ năng giao tiếp ……………………………………………………...32
2.2. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………..32
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1

Bước 1: Kiểm định thang đo .................................................................36

Phân tích Cronbach’s Alpha............................................................................36


3

3.1.1 Hiệu quả hoạt động .................................................................................36
3.1.2 Kỹ năng của nhà quản lý………………………………………………37

3.2

Bước 2: Đánh giá thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khám
phá (EFA – Exploratory Factor Analysis) …………………..37

3.3. Bước 3: Hồi qui để phân tích ảnh hưởng của biến độc lập đến biến phụ
thuộc ..........................................................................................................44
3.3.1. Hồi quy theo dạng hàm tuyến tính với các biến tiềm ẩn ban đầu……..44
3.3.1.1 Hồi quy tuyến tính năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 1…….44
3.3.1.2 Hồi quy tuyến tính năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 2…….44
3.3.1.3 Hồi quy tuyến tính năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 3…….45
3.3.2. Hồi quy theo dạng hàm tuyến tính với các biến tiềm ẩn sau khi đã phân tích
nhân tố……………………………………………………………………..46
3.3.2.1. Hồi quy tuyến tính hiệu quả hoạt động 1………………………….......46
3.3.2.2 Hồi quy tuyến tính hiệu quả hoạt động 2………………………….......46
3.3.2.3 Hồi quy tuyến tính hiệu quả hoạt động 3…………………………........47
3.3.3. Hồi quy theo dạng hàm mũ với các biến tiềm ẩn ban đầu………….......47
3.3.3.1 Hồi quy hàm số mũ hiệu quả hoạt động 1…………………………....48
3.3.3.2 Hồi quy hàm số mũ hiệu quả hoạt động 2…………………………...48
3.3.3.3 Hồi quy hàm số mũ hiệu quả hoạt động 3………………………….49
3.3.4. Hồi quy theo dạng hàm mũ với các biến tiềm ẩn sau khi phân tích nhân
tố……………………………………………………………………………….49
3.3.4.1 Hồi quy hàm số mũ hiệu quả hoạt động 1…………………………..50
3.3.4.2 Hồi quy hàm số mũ hiệu quả hoạt động 2…………………………..50


4

3.3.4.3 Hồi quy hàm số mũ hiệu quả hoạt động 3…………………………......51
KẾT LUẬN…………………………………………………………………...52


CHƯƠNG 4: HỒI QUY THEO CÁC BIẾN ĐỊNH LƯỢNG
4.1 Hồi quy tỷ suất lợi nhuận với vốn đóng góp của các xã viên……….. 54
4.2 Giải pháp khắc phục…………………………………………………… 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HTX

Hợp tác xã

DANH MỤC BẢNG BIỂU, MÔ HÌNH, ĐỒ THỊ
Bảng 1. Điểm khác biệt cơ bản giữa HTX và doanh nghiệp kinh doanh
Bảng 2. So sánh hợp tác xã kiểu mới và hợp tác xã truyền thống
Bảng 3. Bảng tổng hợp phân tích Cronbach’s Alpha kiểm định thang đo hiệu quả
hoạt động
Bảng 4. Bảng tổng hợp phân tích Cronbach’s Alpha kiểm định thang đo năng lực
quản lý
Bảng 5. Phân tích nhân tố năng lực quản lý_1
Bảng 6. Phân tích nhân tố năng lực quản lý_2
Bảng 7. Cronbach’s Anpha của biến tiềm ẩn 1
Bảng 8. Cronbach’s Anpha của biến tiềm ẩn 2
Bảng 9. Cronbach’s Anpha của biến tiềm ẩn 3
Bảng 10. Hồi quy tuyến tính năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 1
Bảng 11. Hồi quy tuyến tính năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 2
Bảng 12. Hồi quy tuyến tính năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 3
Bảng 13. Hồi quy tuyến tính biến tiềm ẩn với hiệu quả hoạt động 1
Bảng 14. Hồi quy tuyến tính biến tiềm ẩn với hiệu quả hoạt động 2
Bảng 15. Hồi quy tuyến tính biến tiềm ẩn với hiệu quả hoạt động 3

Bảng 16. Hồi quy hàm số mũ năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 1
Bảng 17. Hồi quy hàm số mũ năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 2
Bảng 18. Hồi quy hàm số mũ năng lực quản lý với hiệu quả hoạt động 3
Bảng 19. Hồi quy hàm số mũ biến tiềm ẩn với hiệu quả hoạt động 1


5

Bảng 20. Hồi quy hàm số mũ biến tiềm ẩn với hiệu quả hoạt động 2
Bảng 21. Hồi quy hàm số mũ biến tiềm ẩn với hiệu quả hoạt động 3
Bảng 22. Bảng tổng hợp kết quả hồi quy
Bảng 23. Model Summary and Parameter Estimates_1
Bảng 24. Model Summary and Parameter Estimates_2
Mô hình Năng lực quản lý của Ban điều hành tác động tới hiệu quả hoạt động của
HTX
Đồ thị 1. Mối quan hệ giữa ROE và vốn đóng góp trung bình của xã viên
Đồ thị 2. Mối quan hệ giữa tổng lợi nhuận sau thuế và vốn đóng góp trung bình
của xã viên


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế tập thể và hợp tác xã (HTX) trong nông nghiệp là yêu cầu
tất yếu khách quan của nền kinh tế Việt Nam. Theo bài báo “Thực trạng và giải
phát triển các HTX nông nghiệp của nước ta hiện nay” của TS. Phan Vĩnh Điển
(2010), nước ta hiện có hơn 70% dân số sống ở nông thôn và bằng nông nghiệp; do
vậy, phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc đảm bảo an ninh lương thực, ổn định chính trị, xã hội, cải thiện và nâng

cao đời sống của nhân dân.
Theo Báo cáo tổng kết thi hành Luật HTX năm 2003 kèm theo Tờ trình số
99/TTr-CP ngày 3 tháng 5 năm 2012 của Chính phủ và Báo cáo tổng hợp kế hoạch
phát triển kinh tế tập thể năm 2011 của Chính phủ, đến hết năm 2011 ước tính có
khoảng 13.843 HTX, tăng khoảng 598 HTX so với năm 2010. Tổ hợp tác phát
triển rất nhanh và đa dạng. Năm 2010 có 155.817 tổ hợp tác, tăng trung bình
khoảng 3,3%/năm so với giai đoạn 2006-2010.
HTX nông nghiệp có vai trò rất quan trọng, là cầu nối giữa các thành viên
trong việc tiếp cận với các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển nông
nghiệp của Đảng và Nhà nước; đồng thời là nơi tổ chức, giúp đỡ, tư vấn, hướng
dẫn và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sản xuất cho xã viên, hộ nông dân như: thủy
lợi, giống, phân bón, bảo vệ thực vật, thú y, bao tiêu sản phẩm cho xã viên,… Tuy
nhiên, hiện tại HTX nông nghiệp của nước ta phát triển còn chậm, những HTX
điển hình tiên tiến, làm ăn có lãi trong nông nghiệp còn ít, nhiều HTX nông nghiệp
yếu kém kéo dài.
Từ khi thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW ngày 24/5/1996 của Ban bí thư Trung
ương Đảng khoá VII về “Phát triển kinh tế hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực
kinh tế” và từ khi Luật hợp tác xã 1996 ra đời, việc chuyển đổi, xây dựng mới
HTX nông nghiệp và các hình thức kinh tế hợp tác đã có những chuyển biến tích
cực. Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều phức tạp, khó khăn trong quá trình
chuyển đổi và thành lập mới HTX nông nghiệp. Để việc chuyển đổi, xây dựng
HTX nông nghiệp và các hình thức hợp tác khác thực sự đem lại hiệu quả, theo
chúng tôi cần phải chỉ rõ những tồn tại để làm căn cứ đề ra các giải pháp thiết thực.
Qua điều tra, nghiên cứu, có thể kể ra một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất: Nhận thức về HTX kiểu mới và Luật HTX của hầu hết cán bộ cơ
sở và nông dân chưa được thấu đáo và quán triệt đầy đủ, mặt khác trên thực tế việc
chuyển đổi và thành lập mới HTX còn mang nặng tính hình thức và thiếu những
mô hình hoạt động có hiệu quả.



7

Thứ hai: Hiệu quả hoạt động của HTX nông nghiệp còn thấp, chưa đáp ứng
được nhu cầu ngày càng tăng của các thành viên, phần lớn HTX không có khả
năng tích luỹ vốn để tái đầu tư. Hoạt động của HTX phản ánh qua doanh thu và lãi
rất thấp, lợi ích mang lại cho xã viên chưa nhiều.
Thứ ba: Trình độ của cán bộ quản lý HTX nông nghiệp còn chưa theo kịp
với cơ chế quản lý mới. Đa số cán bộ quản lý mới chỉ được tham gia các khoá bồi
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ ngắn ngày.
Thứ tư: Năng lực nội tại của nhiều HTX nông nghiệp còn yếu kém về cả tài
chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ và quy mô hoạt động; đa số HTX cơ sở
vật chất kỹ thuật nghèo nàn, máy móc thiết bị cũ, trình độ công nghệ lạc hậu, sản
xuất thủ công là phổ biến.
Nhận thức được thực trạng khó khăn kể trên của HTX và nhu cầu bức thiết
cần phải tiếp tục cải cách nâng cao vai trò quản lý của bộ phận cán bộ trong HTX,
đề tài “Đánh giá tác động của năng lực quản lý của ban điều hành hợp tác xã
tới kết quả hoạt động của Hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp tại Tỉnh Nghệ
An” có vai trò thiết yếu và mang ý nghĩa thực tiễn tại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực quản lý HTX nông nghiệp.
- Làm rõ thực trạng quản lý của HTX nông nghiệp của nước ta hiện nay và những
định hướng phát triển trong thời gian tới.
- Phân tích, đánh giá năng lực điều hành của ban chủ nhiệm HTX trong mối tương
quan với kết quả hoạt động của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
3. Câu hỏi nghiên cứu
- Những năng lực nào cần thiết đối với các ban điều hành HTX để thực hiện tốt vai
trò quản lý, điều hành HTX?
- Năng lực quản lý của ban điều hành HTX có tác động như thế nào đến hiệu quả
hoạt động của HTX nông nghiệp tại tỉnh Nghệ An?
4. Đối tượng nghiên cứu

Nhóm nghiên cứu 48 HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đây là
những HTX đã thành lập mới hoặc chuyển đổi, có kết quả hoạt động đáng chú ý
trong những năm vừa qua.
5. Phương pháp nghiên cứu và Dữ liệu nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích về thực trạng hoạt động của HTX và những vấn đề liên quan
tới năng lực quản lý của Ban điều hành HTX, nhóm nghiên cứu đã dựa trên nền
tảng chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Dựa trên nền tảng đó, nhóm


8

đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như điều tra thực tế, tổng hợp,
so sánh, cùng hai phương pháp phân tích số liệu chính:
- Phương pháp định lượng: Nhóm nghiên cứu tiến hành điều tra mẫu gồm 48 HTX
nông nghiệp tại tỉnh Nghệ An với các đối tượng là chủ nhiệm và kế toán trưởng
HTX .Từ các dữ liệu thu thập được, bằng việc sử dụng phần mềm thống kế SPSS
19 và Excel MS 2010 để phân tích, nhóm nghiên cứu xây dựng mô hình hồi quy
nhằm đánh giá tác động của năng lực quản lý của ban điều hành tới hiệu quả hoạt
động của HTX trong năm 2012. Mối quan hệ giữa một bên biến độc lập là những
thành tố thể hiện năng lực quản lý và một bên biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động
của HTX được lượng hóa và tính toán cụ thể, từ đó phản ánh mức độ quan hệ chặt
chẽ hay lỏng lẻo giữa các biến số này.
- Phương pháp định tính: xây dựng phiếu điều tra về những khía cạnh mang tính
định tính trong đo lường năng lực quản lý của ban chủ nhiệm như: kỹ năng quản lý
tài chính, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng quản lý sản xuất, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng lãnh đạo.
5.2. Dữ liệu nghiên cứu
- Dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu được trích từ Báo cáo về hoạt động của Liên minh hợp
tác xã Việt Nam giai đoạn 2005-2012, báo cáo hoạt động của các hợp tác xã tham

gia quá trình nghiên cứu, những dữ liệu từ sách báo, tạp chí nghiên cứu về kinh tế
và xã hội,…
- Dữ liệu sơ cấp: Dữ liệu mà nhóm nghiên cứu tiến hành điều tra qua phiếu điều tra
phỏng vấn.


9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA HỢP TÁC XÃ
1.1. Khái niệm Hợp tác xã
Với bề dày gần 200 năm phát triển liên tục, một kho tàng lý luận đồ sộ về
HTX đã được hình thành và phát triển. Trong đó, hiểu rõ được khái niệm về hợp
tác xã sẽ cho chúng ta cái nhìn đúng đắn về bản chất của hình thức kinh tế tập thể
này.
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm phát triển HTX trên thế giới từ trước đến
nay, Liên minh Hợp tác xã quốc tế (ICA) đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Hợp tác
xã như sau: Hợp tác xã là hiệp hội tự chủ của các cá nhân liên kết với nhau một
cách tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế,
xã hội và văn hóa thông qua một doanh nghiệp được sở hữu chung và được
kiểm soát một cách dân chủ.
Từ định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu một số luận điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, cá nhân con người cùng với hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của
họ là nền tảng của hợp tác xã, là cái có trước, từ đó mới hình thành nên HTX. HTX
không tự nó sinh ra và không có mục đích tự thân, HTX hoạt động tất cả vì lợi ích
của xã viên.
Thứ hai, xã viên hợp tác xã với hoạt động kinh tế riêng của mình là pháp
nhân tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và có nghĩa vụ với Nhà nước.
Thứ ba, mặc dù mỗi xã viên có rất nhiều nhu cầu riêng trong các hoạt động
kinh tế của mình, nhưng họ phải có nhu cầu chung mới có thể tập hợp nhau lại.

HTX không đáp ứng tất cả nhu cầu của xã viên mà chỉ đáp ứng các nhu cầu chung.
HTX luôn phải tìm ra cách thức hoạt động để đáp ứng nhu cầu chung đó một cách
tốt nhất. Thông qua hợp tác xã, hiệu quả kinh tế mà xã viên đạt được sẽ tốt hơn
việc họ hoạt động một cách riêng lẻ.
Thứ tư, HTX không chỉ phát huy lợi thế và tiềm năng của mình trong lĩnh
vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa, xã hội hay các lĩnh vực khác xuất hiện
nhu cầu chung của các xã viên.
Sau công cuộc Đổi mới, các lý luận về HTX ở Việt Nam đã được hoàn thiện
hơn rất nhiều, thể hiện thông qua các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà


10

nước, làm nền tảng cho sự ra đời và phát triển của HTX kiểu mới. Luật hợp tác xã
ra đời đã tạo bước phát triển về chất cho các hợp tác xã, đóng góp ngày càng quan
trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều 3 chương I Luật Hợp Tác
Xã số 23/2012/QH13 có ghi: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở
hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp
tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm
nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.
Định nghĩa của Luật Hợp tác xã của nước ta có điểm khác so với định nghĩa
của ILO: thành viên của HTX không chỉ hạn chế là các cá nhân mà các pháp nhân,
tổ chức cũng được tham gia. Như vậy, khái niệm HTX đã mang một ý nghĩa áp
dụng rộng hơn, bất cứ ở đâu hay trên lĩnh vực nào, một khi có nhu cầu chung giữa
các cá nhân, tổ chức thì có HTX đứng ra làm trung gian để đáp ứng một cách hiệu
quả hơn nhu cầu đó so với bất cứ cách thức nào hiện có.
Điểm khác biệt cơ bản giữa HTX và doanh nghiệp kinh doanh:
Bảng 1. Điểm khác biệt cơ bản giữa HTX và doanh nghiệp kinh doanh
Hợp tác xã

Doanh nghiệp kinh doanh
Sở hữu Xã viên góp vốn để trở thành Sở hữu của thành viên góp vốn
chủ sở hữu của hợp tác xã. doanh nghiệp trong tài sản của
Trong suốt quá trình tham gia doanh nghiệp tương ứng với tỷ
HTX, xã viên chỉ được sở hữu lệ góp vốn của mình trong suốt
tư nhân phần vốn góp đó mà quá trình hình thành và phát
thôi, còn tài sản từ hoạt động triển doanh nghiệp. Tài sản
của HTX là tài sản chung chung của DN thuộc sở hữu của
không chia của HTX, trường thành viên theo tỷ lệ vốn góp, có
hợp HTX bị giải thể, tài sản thể được chia
này được chuyển giao cho
chính quyền địa phương,
trường hợp xã viên rút khỏi
HTX thì chỉ được rút phần
vốn đã góp
Phân
Lợi nhuận được chia theo Lợi nhuận được chia theo vốn
chia lợi nhiều tiêu thức: vốn góp, mức góp
nhuận
độ sử dụng dịch vụ HTX, trích
lập quỹ phát triển HTX, trích
lập quỹ dự trữ HTX đề phòng
rủi ro,…


11

Mục
đích


Lợi ích

Không có mục đích tự thân,
phục vụ cho lợi ích của xã
viên, đáp ứng các nhu cầu
chung về kinh tế , văn hóa, xã
hội của xã viên
Mọi lợi ích đều thuộc về xã
viên
Xã viên HTX

Đối
tượng
phục vụ
Nguồn: Cẩm nang HTX Nông nghiệp

Mục đích tự thân, mục tiêu lợi
nhuận. Đáp ứng nhu cầu sản
phẩm, dịch vụ thị trường.

Lợi ích trước hết thuộc về chủ
doanh nghiệp
Khách hàng trên thị trường

Trong các loại hình HTX, Hợp tác xã nông nghiệp đóng một vai trò hết sức
quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua việc phát triển
các hoạt động nông nghiệp ở các nước (Aref, 2011). HTX nông nghiệp được xem
như là tổ chức quan trọng nhất trong việc hỗ trợ phát triển nông thôn nói chung và
nông nghiệp nói riêng (Dung, 2011).
Theo Cẩm nang Hợp tác xã nông nghiệp,The Asia Foundation, khái niệm về

Hợp tác xã nông nghiệp như sau: “Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế tập
thể do nông dân, hộ gia đình nông dân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu
cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật
Hợp tác xã để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã,
cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh nông
nghiệp và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước.
1.2. Nguyên tắc hoạt động của hợp tác xã
Hợp tác xã đầu tiên trên thế giới đã ra đời vào năm 1844 tại Rochdale, Anh.
Sở dĩ HTX Rochdale được coi là HTX đầu tiên của phong trào HTX quốc tế vì
chính Rochdale đưa ra những nguyên tắc và điều lệ cơ bản cho hoạt động của
HTX. Nguyên tắc này về sau được gọi là Những nguyên tắc Rochdale. Đây cũng
là nội dung cơ bản của những nguyên tắc HTX mà Liên minh Hợp tác xã quốc tế
phê chuẩn và sử dụng cho đến ngày nay.
Các nguyên tắc của HTX được hình thành gắn liền với lịch sử phát triển của
HTX. Đối với HTX ở các quốc gia khác nhau, những nguyên tắc luôn được cải
biên cho phù hợp với đặc trưng kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong quá trình phát triển
lâu dài, các nguyên tắc HTX của nhiều quốc gia đã dần xích lại gần nhau hơn và
tìm được điểm chung.


12

Năm 1995, tại Đại hội kỷ niệm lần thứ 100 năm thành lập, Liên minh hợp
tác xã quốc tế (ICA) đã đưa ra 7 nguyên tắc hoạt động của HTX. Trong đó 4
nguyên tắc đầu tiên là những nguyên tắc trung tâm mà nếu thiếu một trong số
chúng, HTX sẽ mất đi những đặc tính vốn có của nó.
- Tham gia một cách tự nguyện và mở
Hợp tác xã là tổ chức tự nguyện và mở đối với tất cả các thành viên xã hội
muốn sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, không có bất kì sự ép buộc nào. Hợp tác xã

phải thực hiện nguyên tắc “tự nguyện” như là nguyên tắc đầu tiên của HTX, không
ai, không tổ chức nào có thể bắt buộc người dân tham gia HTX. Ngoài ra, HTX
phải “mở” để cho mọi người có cùng nhu cầu và thường sinh sống trên cùng địa
bàn lãnh thổ tham gia. Càng nhiều xã viên thì việc đáp ứng nhu cầu chung của
HTX đối với xã viên càng hiệu quả nhờ kinh tế quy mô và dung lượng thị trường
tăng lên; cộng đồng xã viên càng lớn thì càng phát huy tinh thần hợp tác, tinh thần
quản lý dân chủ trong hợp tác xã.
- Kiểm soát một cách dân chủ bởi các thành viên
Hợp tác xã là tổ chức mang tính dân chủ được kiểm soát bởi các thành viên
là những người tham gia vào việc xác định các chính sách và ra quyết định của
HTX.Các thành viên có quyền biểu quyết 1 cách bình đẳng (mỗi thành viên có 1 lá
phiếu như nhau).
- Tham gia giao dịch kinh tế của xã viên
Nguyên tắc này chỉ ra rằng các thành viên đóng góp một cách bình đẳng và
kiểm soát một cách dân chủ đối với vốn của hợp tác xã. Vốn của hợp tác xã thường
là tài sản chung của HTX. Các thành viên đóng góp vốn vào HTX và nhận được
một khoản bồi hoàn nhất định tùy theo vốn góp. Các thành viên phân phối khoản
thặng dư của HTX cho một số hoặc tất cả các mục đích sau: phát triển HTX, xác
lập dự trữ mà một phần của nó là tài sản không chia, cho thành viên HTX tùy theo
mức độ sử dụng dịch vụ của HTX, hỗ trợ các hoạt động của HTX theo quyết định
của các thành viên HTX.
- Tự chủ và độc lập
HTX là tổ chức tự chủ bởi các thành viên. Khi kí thỏa thuận với các tổ chức
khác, với Chính phủ hoặc huy động vốn từ bên ngoài, HTX phải thực hiện các quy
định đảm bảo sự kiểm soát 1 cách dân chủ bởi các thành viên và duy trì tính độc
lập của HTX.
Vì HTX là tổ chức kinh tế tự quản của xã viên, mang lại lợi ích cho xã viên,
tự chủ về tài chính nên đương nhiên tự chủ trong hoạt động và trong mọi quyết
định của mình. Không cá nhân, tổ chức nào được can thiệp vào công việc nội bộ
của HTX.

- Giáo dục, huấn luyện và thông tin


13

Là một tổ chức có ý nghĩa cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, mang lại lợi ích
cho thành viên nên bản thân HTX phải có trách nhiệm giáo dục, huấn luyện và
mang lại thông tin cần thiết đối với cộng đồng thành viên của mình và đối với các
đối tác. Thực hiện công tác giáo dục, đào tạo, huấn luyện đối với các xã viên và
ban quản lý giúp họ đóng góp hiệu quả cho sự phát triển của HTX.HTX thông tin
cho công chúng, đặc biệt là thanh niên và các nhà lãnh đạo về bản chất và lợi ích
của HTX, từ đó nâng cao nhận thức và lôi cuốn trách nhiệm xã hội.
- Hợp tác giữa các HTX
Xã viên nếu đơn lẻ thì yếu kém, hoạt động kinh tế thiếu sức cạnh tranh,
chính vì vậy việc liên kết với nhau thông qua HTX dựa trên cơ sở đáp ứng hiệu
quả cao hơn nhu cầu chung của các xã viên là việc hết sức cần thiết. HTX phục vụ
các thành viên của mình một cách hiệu quả và tăng cường phong trào HTX bằng
cách hợp tác với nhau trên bình diện địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế, qua đó
thúc đẩy sự phát triển của HTX và phục vụ tốt hơn các thành viên.
- Chăm lo cộng đồng
HTX đảm bảo sự phát triển bền vững của cộng đồng thành viên thông qua
các chính sách do chính các thành viên HTX quyết định, bao gồm các hoạt động
phúc lợi, hoạt động văn hóa xã hội nhằm cải thiện đời sống mọi mặt thành viên
HTX. Xã viên HTX không chỉ thụ hưởng lợi ích kinh tế mà còn phát triển đời sống
cộng đồng dân cư tại địa bàn, vươn tới sự công bằng bằng cách rút ngắn chênh lệch
giàu nghèo nông thôn - thành thị, tăng cường sự đoàn kết giữa các cá nhân trong
cộng đồng, góp phần giải quyết mâu thuẫn, từ đó cải thiện và củng cố an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội ngay tại địa bàn cơ sở.
1.3.Tính tất yếu khách quan của việc hình thành HTX trong tiến trình phát
triển kinh tế xã hội

Trong sản xuất nông nghiệp lợi ích của những người nông dân luôn bị xem
nhẹ, họ không có công cụ gì trong tay để dành lấy sức mạnh thị trường, chính vì
vậy tự bản thân họ chỉ có thể đạt được rất ít hoặc không làm được gì nên trở thành
đối tượng không có tiếng nói, yếu thế hơn trong các mối quan hệ trao đổi, mua bán.
Cần có một tổ chức đem lại lợi ích cho các thành viên của mình, giúp tổng hợp sức
mạnh thị trường vào tay của người nông dân, đem lại cho họ tiếng nói lớn hơn,
bình đẳng hơn trong các mối quan hệ (Christy, 1987; Valentinov, 2007; Vitaliano,
1983). Chính vì vậy quá trình hình thành HTX là một tất yếu khách quan trong tiến
trình phát triển kinh tế xã hội kể cả về mặt kinh tế, xã hội và chính trị.
1.3.1 Thất bại của thị trường
Trước tiên, về mặt kinh tế và xã hội, có một số yếu tố quan trọng dẫn đến sự
hình thành của HTX trong nông nghiệp. Yếu tố đầu tiên được ghi nhận là thất bại
của thị trường (Centner, 1988, Christy, 1987; Hansmann,1999; Torgerson, và cộng


14

sự, 1998;. Valentinov, 2007). Harris và Carman (1983) xác định thất bại thị trường
là "trường hợp các điều kiện lý tưởng cho một thị trường thành công không được
đáp ứng ".
Các loại thất bại thị trường bao gồm cạnh tranh không hoàn hảo; ít người
mua, bán sản phẩm; hành vi chống cạnh tranh, chẳng hạn thông đồng và thông tin
bất đối xứng.(Harris & Carman, 1983). Centner, (1988,) đưa ra các loại thất bại thị
trường quan trọng là "độc quyền mua, thông tin bất đối xứng và hạn chế thương
lượng".
Hansmann, (1988) định nghĩa độc quyền mua là một trường hợp mà thị
trường có nhiều người bán và vài người mua. Những người mua thường có chung
lợi ích nên họ cấu kết thông đồng với nhau tạo áp lực cho người bán và đoạt lấy
sức mạnh thị trường , phổ biến trong nông nghiệp. Điều này tạo ra sự mất cân bằng
sức mạnh thị trường và kết quả cuối cùng nông dân thường là người phải chấp

nhận giá.
Vấn đề thứ hai người nông dân phải đối mặt liên quan đến khả năng tiếp cận
hạn chế thông tin của thị trường và chất lượng của thông tin không đảm bảo đó là
tình trạng Thông tin bất đối xứng được đưa ra bởi Centner (1988). Ví dụ khi người
mua không thể phân biệt được đâu là sản phẩm có chất lượng và đâu là sản phẩm
không có chất lượng sẽ dẫn đến người bán hàng có động cơ để không cung cấp sản
phẩm có chất lượng cho khách hàng, trong khi giá cả người mua vẫn phải chịu như
các sản phẩm có chất lượng.
Thứ ba là vấn đề bị hạn chế thương lượng. Người mua sẽ tận dụng lợi thế
của mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp và sự hạn chế trong khả năng thương lượng
của người nông dân lợi, người mua sẽ trục lợi bằng cách thu mua với giá thấp hơn
hoặc đe doạ ngừng mua các sản phẩm, để buộc người nông dân phải giảm giá
(Centner, 1988). HTX có thể giúp cung cấp một thị trường đảm bảo và cân bằng
một số quyền lực trong thị trường (Centner, 1988;. Torgerson, và cộng sự, 1998).
Ngoài các điều kiện trên, thất bại thị trường (tại hầu hết các nước đang phát
triển) cũng do thiếu cơ sở hạ tầng và vùng địa lý bị cô lập, do đường xấu hoặc hạn
chế trong hệ thống thông tin, dẫn đến chi phí giao dịch cao (Shiferaw, Obare,
&Muricho, 2006). Thông thường, có tình trạng thông đồng và ấn định giá bán
trong hầu hết các thị trường nông thôn truyền thống do một vài cá nhân hoặc tổ
chức nắm giữ được vài mắt xích trong chuỗi cung ứng và chi phí tiếp thị cao (Lele,
1981). Trong trường hợp này, người nông dân là nạn nhân chịu thiệt thòi hơn cả,
do chịu thông tin bất đối xứng (Tollens, 2006).
1.3.2 Tổ chức đem lại quyền lực cho người nông dân


15

Lý do thứ hai dẫn đến sự hình thành các HTX là cá nhân người nông dân cần
phải có một cơ chế tổ chức nhằm mang lại sự cân bằng kinh tế dưới sự kiểm soát
của chính bản thân họ (Cook, 1995; Cook & Iliopoulos, 1999). HTX chính là nơi

sẽ tăng cường sức mạnh mặc cả của nông dân với các nhà cung ứng và các khách
hàng mua sản phẩm nông nghiệp. Christy (1987) đề cập đến cơ sở lý luận phổ biến
nhất và được chấp nhận rộng rãi cho HTX của những người nông dân ở Mỹ là hệ
thống các tiêu chuẩn đánh giá cạnh tranh, do Giáo sư Nourse phát triển. Ông cho
rằng HTX đóng vai trò cung cấp thêm một nhà kinh doanh khác và buộc những
người kinh doanh còn lại phải tiến hành cạnh tranh hơn (Cook, 1995;. Torgerson,
et al, 1998). Ngoài ra, HTX hình thành chủ yếu là để tránh sự sở hữu của các công
ty đầu tư , do đó nâng cao giá bán sản phẩm, theo đuổi mục tiêu tăng tỷ suất lợi
nhuận và hạn chế ảnh hưởng của sức mạnh thị trường (Cook, 1995; Szabo,
2006). Tuy nhiên, kể từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, các nông dân lại được
tập hợp trong tổ chức với mục tiêu tăng giá trị tài sản của họ là chính, việc đó đã
hạn chế việc hình thành và tiếp tục phát triển của các HTX (Cook &Chaddad,
2004).
Các HTX là các tổ chức tự thân trong việc giải quyết những mong muốn của
các thành viên trong tổ chức đồng thời đáp ứng các nhu cầu của xã hội . Christy
(1987) mô tả hệ tư tưởng này đặt trọng tâm vào các khía cạnh xã hội của sự phát
triển (con người và cộng đồng). Phần lớn các HTX đang nổi lên ở các nước đang
phát triển đã được hình thành vì lý do này, ngoài ra từ những lý do khác, xem xét
tầm quan trọng của nông nghiệp tới cộng đồng nông thôn, trong đó phần lớn là giải
quyết nghèo đói. Các HTX trong các quốc gia này có một tỷ lệ phần trăm khá lớn
số thành viên có thu nhập thấp. Christy (1987) cũng xác nhận thêm ba điều khác
biệt trong mà các HTX này với các HTX khác là:
- Các nguồn lực lớn nhất mỗi thành viên đóng góp là sức lao động;
- Thành viên bao gồm phần lớn của người lĩnh canh và thu nhập thấp, một số
lượng hạn chế các nông dân;
- Trong khi các HTX khác được tổ chức vì các mục tiêu kinh tế, phần lớn
HTX này có xu hướng có mục tiêu xã hội.
Những nghiên cứu gần đây cũng đã lập luận rằng chi phí giao dịch cap quá
mức, phân biệt đối xử với nông dân trong kí kết hợp đồng và sự gia tăng độc quyền
mua là điều kiện dẫn tới một loạt các phản ứng của người nông dân (EW Chirwa

và cộng sự, 2005;. Gideon Onumah, 2007; Kirsten & Sartorius, 2002). Ở các nước
đang phát triển, hình thành HTX là một chiến lược can thiệp của các chính phủ
nhằm thúc đẩy sự tham gia của nông dân trong chuỗi cung ứng. Gideon Onumah
(2007) cho rằng các HTX của nông dân đã được chính phủ thuộc địa khuyến khích
để huy động người dân nông thôn tham gia khai thác sản xuất. Kachule và


16

Dorward, (2005) xác định rằng những lý do để nông dân tham gia vào hội nông
dân ở Malawi là do được đảm bảo các quyền tiếp cận đầu vào tín dụng, thị trường
sản phẩm cùng với tư vấn kỹ thuật.
HTX là một hình thức quản trị phổ biến và quan trọng trong lĩnh vực nông
nghiệp. Lĩnh vực hợp tác trên toàn cầu bao gồm khoảng 800 triệu thành viên trên
100 quốc gia và ước tính tạo ra hơn 100 triệu công ăn việc làm trên toàn thế giới:
cao hơn 20% so với các doanh nghiệp đa quốc gia (Skurnik, nd). HTX nông nghiệp
chiếm 80-99% sản lượng sữa ở Na Uy, New Zealand và Hoa Kỳ, 71% sản lượng
thủy sản Hàn Quốc và 40% của nông nghiệp ở Brazil (ICA, 2007). HTX là cơ cấu
tổ chức một quan trọng ở nhiều thị trường nông nghiệp. Ví dụ, tại EU, các HTX
chiếm hơn 60% hoạt động thu hoạch, xử lý và tiếp thị của sản phẩm nông nghiệp,
với kim ngạch khoảng 210.000 triệu Euro (Galdeano, Cespedes, & Rodriguez,
2005). Hơn nữa, hơn 50% sản lượng nông nghiệp toàn cầu đang bán trên thị trường
thông qua các HTX (Bibby& Shaw, 2005). Clegg (2006) cho rằng HTX có một
tiềm năng lớn để cải thiện điều kiện sống của người nghèo nếu họ có thể có được
sức mạnh trong việc tiếp thị sản phẩm của họ. Có một số lợi ích mà nông dân chỉ
có thể nhận được từ một phần của HTX.
Với việc hỗ trợ tiếp cận thị trường cho sản phẩm của người nông dân,HTX
thực sự hữu ích trong việc khắc phục các rào cản tiếp cận tài sản, thông tin, dịch vụ
, đầu vào và thị trường đầu ra. Ví dụ, Hovhannisyan và cộng sự (2005) đề cập đến
người nông dân Armenia trong các HTX tiếp thị sữa, HTX đã có thể vận chuyển

các sản phẩm của họ đến thị trường xa và qua đó mở rộng các cơ hội của họ để bán
sữa. HTX nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp các hộ nông
dân quy mô nhỏ đối phó với cạnh tranh trên thị trường, biến động và chi phí giao
dịch cao và đạt được tính kinh tế theo quy mô thông qua bán hàng với số lượng lớn
nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường (Clegg, 2006).
HTX nông nghiệp cũng đảm bảo cho việc sản phẩm của người nông dân có
thể dễ dàng tạo được sự chú ý của các thương nhân. Điều này giúp giảm chi phí
tìm kiếm thị trường (Holloway, Nicholson, Delgado, Staal, và Ehui, 2000). Hollow
và các cộng sự thấy rằng HTX thực sự hữu ích khi giúp nông dân khắc phục các
rào cản gia nhập thị trường, tiếp thị các sản phẩm có giá trị cao và số lượng
lớn. Nhiều doanh nghiệp muốn mua từ các nông dân lớn hơn, chứ không phải là
nông dân quy mô nhỏ vì sản phẩm của người nông dân quy mô nhỏ là không đáng
tin cậy cả về số lượng và chất lượng (Kirsten & Sartorius ,2002). Điều này cung
cấp cho nông dân trong HTX các cơ hội tốt hơn để tham gia vào chuỗi cung ứng và
cũng có thể cạnh tranh với các nông dân lớn, hướng tới các cơ hội thị trường.


17

Khả năng thương lượng: HTX nông nghiệp giúp nông dân đạt được một lợi
thế cạnh tranh và do đó làm tăng cơ hội tham gia vào thị trường. HTX cũng làm
tăng khả năng thương lượng của nông dân, vì tất cả họ đều "có cùng một tiếng nói"
(Gideon Onumah, 2007; Torgerson, 1977). Do tính kinh tế theo quy mô một HTX
có sức mạnh thị trường sẽ là một sự khuyến khích nông dân trở thành một phần
của tổ chức và nhờ vậy tránh việc bị ép giá. Cook (1995) chỉ ra rằng các HTX
trong trường hợp này sẽ giúp tăng lợi nhuận và đảm bảo thị trường, đóng vai trò
thước đo cạnh tranh. Ví dụ, Kodama (2007), khi phân tích các hoạt động HTX cà
phê ở Ethiopia thấy rằng sự tồn tại của HTX trong thị trường cà phê đã dẫn đến
việc cải thiện giá mua được doanh nghiệp tư nhân đưa ra do việc phải cạnh tranh
với các HTX. Tất cả các biện pháp này có xu hướng tăng thu nhập cho nông dân.

Như một chiến lược xóa đói giảm nghèo: Liên quan đến các khía cạnh xã hội
của sự phát triển, HTX là một mô hình quan trọng , có thể giải quyết vấn đề của
loại trừ xã hội đối với người nghèo và những người có hoàn cảnh khó khăn, người
không được tiếp cận với các cơ hội trong nền kinh tế thị trường tự do (Birchall,
2004). HTX khuyến khích sự tham gia của địa phương ,trong đó là các trung tâm
xóa đói giảm nghèo. Điều này được phản ánh trong các hướng dẫn của Liên Hợp
Quốc, liên quan đến HTX trong phát triển xã hội, theo trích dẫn của Bibby và
Shaw (2005):
"Chính phủ nhận thấy rằng phong trào HTX mang tính chất dân chủ, nó vừa
có đặc điểm riêng của địa phương nhưng đồng thời có những tính chất cốt lõi
giống nhau giữa các mô hình HTX trên toàn thế giới. HTX là một hình thức tổ
chức của các hiệp hội và các doanh nghiệp về việc công dân tự dựa vào chính
mình và trách nhiệm của mình để đạt được các mục tiêu nào đó không chỉ bao
gồm các mục tiêu kinh tế hay xã hội và môi trường, mà còn bao gồm xóa đói giảm
nghèo, tạo việc làm hiệu quả và khuyến khích hội nhập xã hội. "
HTX đại diện cho một chiến lược phát triển mạnh mẽ, có thể nâng cao khả
năng cạnh tranh của nông dân quy mô nhỏ và giải quyết thất bại thị trường. Cook
(1995) quan sát thấy rằng thị trường Hoa Kỳ giá trị cổ phiếu của HTX nông dân đã
tăng đều đặn, do đó đồng ý với dự báo Abrahamsen rằng HTX sẽ trở thành cơ quan
tích hợp của nông dân, làm cho công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn tiếp tục
phát triển.

1.3.3 Công cụ chính trị, kinh tế, xã hội của giới cầm quyền
Ngoài ra việc hình thành các HTX nông nghiệp còn chịu ảnh hưởng của các
yếu tố chính trị ,đặc biệt là ở các nước đang phát triển. So với các nước phát triển


18

(nơi HTX nhận được rất nhiều sự hỗ trợ và có rất nhiều ví dụ về các HTX quy mô

nhỏ thành công), HTX ở các nước đang phát triển đã nhận được những phản ứng
hỗn hợp và đã có nhiều hỗ trợ hơn trong thời kỳ thuộc địa(Birchall, 2003). Tuy
nhiên, trong quá trình hậu thuộc địa, tình hình của các HTX lại có những thay đổi
khác nhau tùy điều kiện chính trị của từng quốc gia. Trong một số quốc gia, hỗ trợ
cho HTX tăng lên và họ coi vai trò của HTX là khá cao trong quy hoạch kinh tế
cho các nước này (Birchall, 2003), trong khi ở các nước khác, chẳng hạn như
Malawi, HTX được coi là một mối đe dọa chính trị cho chính phủ nên HTX nông
nghiệp đã bị đóng cửa và thay thế bằng sự kiểm soát của chính phủ
(Kadzola,2009). Trong thời gian này, khi HTX vẫn còn được coi là một chiến lược
phát triển, Develtere (1993, p. 19) gọi là các "HTX chủ nghĩa dân túy, chiến lược
chủ nghĩa dân tộc ". Điều này có nghĩa rằng mô hình HTX đã được điều chỉnh cho
phù hợp với đường lối chính trị của chính phủ. Kết luận của chiến lược này là các
HTX không còn là các tổ chức tự trị (như họ đã dự định được) nhưng thay vào đó
họ đã được tích hợp vào cấu trúc và ý thức hệ, mà đã không được phát triển để đáp
ứng sự quan tâm của thành viên mà để phục vụ những đòi hỏi chính trị và kinh tế
của các quốc gia (Develtere, 1993).
1.4. Nguyên nhân các hợp tác xã truyền thống hoạt động không hiệu quả so
với các loại hình tổ chức khác
Các nghiên cứu trên thế giới đã tập trung chỉ ra các điểm yếu cố hữu của
hình thức tổ chức theo HTX truyền thống, các nhà nghiên cứu với các công trình
nghiên cứu nổi tiếng có thể kể đến như Vitaliano (1983); Porter và Scully (1987);
Cook (1995); Royer (1999). Theo các nhà nghiên cứu, các HTX sẽ gặp phải nhiều
vấn đề khó khăn trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, có thể kể ra các
mặt yếu kém như quy mô HTX nhỏ, năng lực nội tại của các HTX còn hạn chế,
chất lượng, hiệu quả hoạt động của một số HTX còn thấp, tình hình tài chính
nhiều HTX khó khăn, nợ tồn đọng trong xã viên lớn khó thu hồi. Những hạn chế,
yếu kém trên nguyên nhân có phần do trình độ phát triển thấp của lực lượng sản
xuất nhưng quan trọng hơn là một số cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn
thể các cấp chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của kinh tế tập thể
trong tình hình mới. Công tác chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng

mắc của HTX chưa được quan tâm đúng mức, chưa kịp thời. Việc tuyên truyền
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể và
chỉ đạo xây dựng, nhân rộng các mô hình HTX kiểu mới còn hạn chế; đào tạo
nguồn nhân lực cho HTX ít được quan tâm. Bản thân nhiều HTX cũng chưa năng
động, sáng tạo, đổi mới tư duy trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn nhiều yếu kém... Đối với các HTX


19

tại các nước đang phát triển, các vấn đề đó là (1) Vấn đề kẻ ăn không (2) Vấn đề
quản trị và (3) Vấn đề chi phí hoạt động.
Vấn đề kẻ ăn không
Vấn đề kẻ ăn không hay ở Việt Nam có câu nói “Cha chung không ai khóc”
hay “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa” xuất hiện khi quyền sở hữu tài sản không
được xác định một cách rõ ràng, quyền lợi, trách nhiệm của một cá nhân không
được phân công một cách rõ ràng, khoa học, không được kiểm tra một cách
nghiêm ngặt.
Các ví dụ có thể kể ra như: việc các xã viên dùng chung tài sản của HTX sẽ
khiến cho tài sản của HTX sẽ nhanh hỏng hơn, do tâm lý xã viên “tài sản của
chung, ai dùng cũng như mình” do vậy việc sử dụng sẽ không cẩn thận và khiến
máy móc nhanh hỏng. Một ví dụ khác là việc HTX quản lý các nguồn tài nguyên
dùng chung, trong ngành đánh cá, những nguồn cá sẽ nhanh chóng bị đánh cạn
kiệt, chỉ vì mỗi người, mỗi xã viên đều cố gắng đánh bắt cho được càng nhiều cá
càng tốt, không cần biết có quá mức sinh đẻ của cá hay không. Như vậy lúc này
tổng các tối ưu của từng cá nhân không phải là tối ưu của HTX và càng không
phải là tối ưu của xã hội. Một ví dụ khác nữa minh họa cho vấn đề kẻ hưởng
không đó là các xã viên có thể không có trách nhiệm trong việc sử dụng thương
hiệu chung của HTX. Một HTX chè, có thương hiệu, khách hàng yêu cầu chất
lượng cao, tuy nhiên chính HTX này sẽ gặp khó khăn nếu xuất hiện một xã viên

khi sản xuất chè có tâm lý chỉ một mình nhà mình sản xuất chưa tốt trong khi tất
cả những xã viên khác sản xuất tốt thì chất lượng chè bán cho khách hàng cũng
không bị ảnh hưởng. Người xã viên này chính là một kẻ hưởng không. Và điều
nguy hại là với lối suy nghĩ và hành động như vậy, nếu không bị phát giác, xử lý
thích đáng, chẳng mấy chốc sẽ lây lan ra toàn thể các xã viên của HTX và HTX
chè đó sẽ nhanh chóng mất thương hiệu, mất khách hàng.
Còn nhiều ví dụ minh chứng cho vấn đề kẻ ăn không, vấn đề này luôn là
một khó khăn khiến cho các HTX truyền thống hoạt động không hiệu quả, thậm
chi dẫn tới giải thế. Nguyên nhân dẫn tới vấn đề kẻ ăn không, suy cho cùng là do
các HTX không quản lý chặt, còn xã viên thì chưa có ý thức tập thể khi tham gia
HTX. Tuy nhiên đứng về phía HTX, việc quản lý chặt hoạt động các xã viên cũng
khá khó khăn (nhiều hoạt động không rõ ràng để có thể kiểm tra, giám sát) và nếu
để kiểm tra, giám sát được sẽ tốn nhiều chi phí về người và của của HTX, do vậy
cũng không hiệu quả. Chính vì vậy, các HTX hiện nay chủ yếu trông chờ vào ý
thức của xã viên là chính.
Vấn đề về quản trị hợp tác xã


20

Bất kỳ tổ chức nào, trong đó quyền sở hữu và quyền quản trị tách biệt nhau,
ở một mức độ nào đó, sẽ gặp phải vấn đề khi mà mong muốn của chủ sở hữu (Xã
viên; ban quản trị, ban kiểm soát HTX) và của nhà quản lý (ban giám đốc) là khác
biệt nhau (Cook, 1995).
HTX có một điểm rất khác với các doanh nghiệp khác, đó là các xã viên
bản thân cũng có sản xuất và buôn bán trên thị trường. Một mục tiêu quan trọng
của HTX là phục vụ nhu cầu của xã viên, đem lại lợi ích tối đa cho xã viên. Do
vậy, đối với những người sở hữu HTX (xã viên, ban quản trị HTX) lợi nhuận mà
của HTX có được nhiều khi không quan trọng bằng lợi ích mà mỗi xã viên có
được. Trong khi đó ban chủ nhiệm HTX- những người được thuê, không phải là

chủ sở hữu HTX, lại quan tâm tới lợi nhuận mà HTX tạo ra, vì như vậy, có nghĩa
là họ điều hành HTX tốt và được đãi ngộ theo kết quả hoạt động của HTX. Việc
mâu thuẫn về mong muốn giữa chủ sở hữu HTX và ban điều hành HTX, khiến
cho ban điều hành không phát huy được hết năng lực của mình trong phát triển
HTX, giảm sự cạnh tranh của HTX trong một môi trường đầy sự cạnh tranh
(Royer, 1999). Ban điều hành HTX có năng lực cũng dần dần từ bỏ các HTX.
Trong trường hợp ban điều hành HTX cũng đồng thời cũng là chủ sở hữu
HTX (cơ chế một bộ máy) thì việc tìm kiếm được ban điều hành HTX cũng rất
khó vì không xã viên nào muốn tham gia điều hành HTX - một công việc mà
thường được gọi là “Vác tù và hàng tổng”, hoặc nếu có tham gia thì rất dễ xẩy ra
tình trạng thu vén lợi ích cho bản thân mà không quan tâm đến lợi ích của toàn bộ
HTX, lợi ích của xã viên.
Chính vì vậy, nếu các HTX xử lý được mẫu thuẫn về nhu cầu của chủ sở
hữu và của ban điều hành, tạo động lực làm việc cho ban điều hành thì lúc này các
HTX mới có cơ hội phát triển.
Vấn đề chi phí hoạt động
Chi phí hoạt động là những chi phí liên quan với quá trình hoạt động của
HTX. HTX thường có đông thành viên, hơn thế nữa, nhu cầu và mong muốn của
xã viên thường rất đa dạng chứ không chỉ là lợi nhuận trên vốn đầu tư như đối với
các cổ đông của các công ty khác, do vậy chi phí hoạt động của các HTX thường
lớn hơn so với các hình thức tổ chức kinh doanh khác.
Ở các nước đang phát triển, chi phí hoạt động hữu hình (những chi phí thuê
văn phòng làm việc, thuê nhân viên v.v…) của HTX có thể không lớn vì hoạt
động trong môi trường nông thôn và khả năng tiết kiệm chi phí của HTX, tuy
nhiên chi phí vô hình của HTX lại khá lớn và ảnh hưởng đến hoạt động của hợp


21

tác xã. Những chi phí vô hình có thể kể ra như việc ra quyết định của HTX sẽ tốn

thời gian lâu hơn (vì đông xã viên và phải cân bằng các nhu cầu đa dạng của xã
viên) do vậy phản ứng chậm chạp đối với thị trường, giảm khả năng cạnh tranh
của HTX. Ngoài ra các chi phí hoạt động vô hình như chi phí để phân chia quyền
lợi, trách nhiệm, chi phí để kiểm tra, giám sát hoạt động của các hộ xã viên cũng
tốn khá nhiều thời gian và công sức, gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động
của HTX.
Tương lai của hợp tác xã
Các vấn đề tự thân trong một hợp tác xã truyền thống đặt ra câu hỏi các hợp
tác xã có thể tồn tại, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh
doanh, cạnh tranh khốc liệt hay không. Mặc dù ban đầu, các hợp tác xã được thành
lập để phục vụ nhu cầu của xã viên, tuy nhiên với những vấn đề mà HTX gặp phải,
các HTX cũng khó có thể đáp ứng được nhu cầu của xã viên, không cạnh tranh
được với các công ty hoặc các hộ kinh doanh cá thể trong việc đáp ứng nhu cầu
của chính xã viên. Không sớm thì muộn, các HTX sẽ đứng trước nguy cơ giải thể
(Royer, 1999). Lúc này HTX sẽ có 3 lựa chọn (1) giải thể hoặc liên kết với các
HTX khác; (2) chuyển đổi thành các công ty cổ phần và (3) chuyển đổi thành các
hợp tác xã kiểu mới (New Generation Cooperatives-NGC) (Schrader, 1989; Cook,
1995; Harris, Stefanson, Fulton, 1996)
Schrader (1989) cho rằng một hợp tác xã có hiệu quả hoạt động kém nên lựa
chọn để thanh lý, giải thể hoặc kết hợp với hợp tác xã khác, trong khi các hợp tác
xã có hiệu suất cao hơn có thể thu hút đầu tư và thay đổi loại hình hoạt động thành
các công ty cổ phần, hoạt động theo các quy định của pháp luật, bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác
Trong lựa chọn thứ ba, Cook (1995) đề xuất nên hình thành của một thế hệ
hợp tác xã kiểu mới (NGC). Cho đến nay, mô hình này mới được sử dụng để hình
thành các hợp tác xã marketing trong nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, hoạt
động chủ yếu tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp. Các
hợp tác xã kiểu mới này có thể vượt qua những khó khăn mà các mô hình hợp tác
xã truyền thống gặp phải mà vẫn giữ nguyên được các nguyên tắc thiết yếu của
hợp tác xã.

Về cơ bản, các hợp tác xã kiểu mới tập trung vào các hoạt động tạo giá trị
gia tăng cho sản phẩm, dịch vụ của xã viên (Harris, 1999; Royer 1999). Vốn chủ
sở hữu, cổ phần và quyền giao hàng của xã viên trong các hợp tác xã kiểu mới là
có thể giao dịch được (tuân thủ theo điều lệ HTX). Giá cổ phần của hợp tác xã kiểu
mới có thể được đánh giá cao hoặc thấp thể hiện sự đánh giá của các xã viên,


22

người dân về hoạt động của hợp tác xã kiểu mới, từ đó làm cơ sở để chi trả cho ban
điều hành hợp tác xã. Như vậy, các HTX kiểu mới cố gắng sửa chữa các vấn đề về
quyền sở hữu tài sản – thường gặp phải với các HTX truyền thông. Vấn đề về
quyền sở hữu tài sản được khắc phục thông qua việc gắn quyền giao dịch với sự
đóng góp về tài sản của xã viên. Các nguyên tắc hoạt động của các HTX kiểu mới
vẫn được giữ nguyên (ví dụ, nguyên tắc một thành viên - một lá phiếu khi quyết
định các chính sách quan trọng, bất kể số lượng cổ phần của xã viên, hoặc nguyên
tắc nhu nhập của hợp tác xã thuộc về các xã viên và được phân phối theo vốn góp,
sự đóng góp về công sức hoặc tỷ lệ sử dụng sản phẩm của xã viên).
Bảng 2. So sánh hợp tác xã kiểu mới và hợp tác xã truyền thống
Giống nhau

Khác nhau

Chỉ những xã viên là nông dân mới là thành viên được tham
gia vào việc bầu cử
2. Nguyên tắc bỏ phiếu ra quyết định: một thành viên – một phiếu
bầu
3. Hợp tác xã chi trả cho xã viên luôn bằng hoặc cao hơn so với
những người không phải xã viên.
4. Lợi nhuận phân bổ cho xã viên dựa trên sự đóng góp của xã

viên
1.

HTX truyền thống

HTX kiểu mới

A.

Mục tiêu

Hơp tác xã truyền thống
thường nhằm mục tiêu tối đa
hóa khối lượng sản phẩm bán
ra để giảm thiểu rủi ro về kinh
tế và nâng cao sức mạnh thị
trường.

Hợp tác xã kiểu mới cung cấp
sản phẩm có chất lượng, ổn định
cho khách hàng với mức giá cao
hơn (tương xứng với chất
lượng).

B.

Thành viên

HTX truyền thống thường có
hệ thống thành viên mở. Các

thành viên dễ dàng đăng ký và
tham gia vào hợp tác xã. Các
hợp tác xã có đông thành viên
nhưng không đạt được lợi thế
từ quy mô do không đáp ứng
được nhu cầu xã viên

HTX kiểu mới giới hạn thành
viên hay có hệ thống thành viên
đóng. Việc trở thành thành viên
HTX, đòi hỏi các xã viên phải
đạt được các yêu cầu khắt khe
và phải được các xã viên khác
đồng ý. Nếu không tuân thủ các
quy định của HTX, các xã viên
có thể phải rời khỏi hợp tác xã


23

C.

D.

Trách nhiệm
cung
cấp
hoặc sử dụng
sản
phẩm

của
các
thành viên

HTX truyển thống thường
chấp nhận, không hoặc ít kiểm
soát chất lượng sản phẩm mà
xã viên cung cấp

Trong HTX kiểu mới, mỗi thành
viên có quyền và bắt buộc phải
cung cấp số lượng sản phẩm với
chất lượng tiêu chuẩn trong mỗi
năm.
Việc chia lợi nhuận của HTX sẽ
được dựa trên số lượng sản
phẩm mà xã viên cung cấp cho
HTX hoặc sử dụng của HTX

Vốn đầu tư Các HTX truyền thống thường
của
các yêu cầu xã viên đóng góp mức
thành viên
đầu tư tối thiểu và như nhau để
tham gia HTX.

HTX kiểu mới thường yêu cầu
một sự đầu tư ban đầu đáng kể.

Chuyển

Trong HTX truyền thống, cả
nhượng vốn vốn đầu tư ban đầu và vốn của
đóng góp
các thành viên tích lũy qua các
năm hoạt động được giữ lại và
chỉ có thể được hoàn lại cho xã
viên bằng cách bán nó trở lại
HTX ở giá trị danh nghĩa của
nó.

Trong HTX kiểu mới, vốn đóng
góp gắn liền với quyền cung cấp
hoặc sử dụng sản phẩm có thể
bán lại cho người khác có đủ
điều kiện thành xã viên. Ban
quản trị sẽ tiến hành đánh giá
thành viên mới có đủ tiêu chuẩn
hay không. Giá cổ phần có thể
cao hơn hay thấp hơn giá trị
thực tế

Phần góp vốn của xã viên không
đồng đều nhau, mà dựa trên quy
Tài sản của HTX gia tăng dựa mô sản xuất mà xã viên cam kết
trên việc không chia lãi cho xã cung cấp hoặc sử dụng sản phẩm
viên, mà được giữ lại qua các của HTX
năm hoạt động

E.



24

F.

Lợi ích của Các thành viên là nông dân Trong HTX kiểu mới, thành
xã viên từ nhận được 2 lợi ích chính từ viên là nông dân có thể có thêm
HTX
HTX:
các lợi ích:
- Có một nơi bán sản phẩm với Có thể lựa chọn mua thêm hoặc
giá công bằng, không bị ép giá giảm số vốn mà họ đầu tư trong
- Có bảo trợ danh nghĩa đối HTX.
với tiền đóng góp trong HTX
Nguồn: USDA, Agricultural cooperatives in the 21st Century
1.5. Các yếu tố nội sinh tác động đến hiệu quả hoạt động của HTX
Những nhân tố nội sinh sẽ có tác động tới thành công hay thất bại của HTX.
Theo những nghiên cứu thu thập được và những hiểu biết chung về HTX, có hai
nhân tố nội sinh chính là cấu trúc của quản trị và các kỹ năng của nhà quản trị.
1.5.1. Cấu trúc của quản trị
Việc quản trị được xác định theo nhiều thể thức khác nhau, phụ thuộc vào
từng tình huống cụ thể. Ví dụ, Papadopolous (2003) đã cho rằng quản trị bao gồm
sự cần thiết phải chống lại động lực của sự phân chia lợi ích. Rhoes (2007) tổng kết
lại rằng quản trị theo quan điểm quản trị khu vực công là việc quản trị với mạng
lưới và thông qua mạng lưới đó. Theo Chibanda, Ortmann và Lyne(2009), quản trị
trong HTX được định nghĩa một cách đơn giản như việc tham gia vào quá trình ra
quyết đinh và khả năng thực thi quyết định, và những quyết định đó nên thể hiện
được lợi ích của từng nhóm người.
Hợp tác xã với tư cách là một tổ chức kinh doanh sở hữu bởi các thành viên,
có những cấu trúc quản trị của riêng mình, điều này tạo nên sự khác biệt với doanh

nghiệp hay doanh nghiệp chủ đầu tư. HTX ít nhất cũng phải theo đuổi một vài
nguyên tắc được đề cập bởi Liên minh hợp tác xã quốc tế. Hiệp hội doanh nghiệp
HTX quốc gia Hoa Kỳ (NCBA, 2005) cũng nhấn mạnh những đặc tính duy nhất
của hợp tác xã, có sự liên hệ với những mô hình kinh doanh khác, là việc cá nhân
sở hữu và cá nhân quản lý, nơi những quyết định về chính sách được tạo ra bởi các
các thành viên với nguyên tắc “một thành viên một phiếu bầu”, bất chấp mức đầu
tư khác nhau của các thành viên trong HTX. Việc thu thập quyết định tiến hành
dựa trên nguyên tắc dân chủ (ví dụ như đảm bảo đa số thắng thiểu số nhưng cũng
phải đảm bảo rằng những ý kiến, quan điểm cá nhân được tôn trọng) là một trong
những vấn đề quản trị quan trọng trong hợp tác xã (Liên minh Hợp tác xã quốc tế,
1995).
Việc quản trị các thành viên như trong HTX là một việc rất khó khăn, tuy
nhiên đó cũng là một vấn đề rất quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của


25

HTX. Cornforth (2004) đã đưa ra dẫn chứng về vai trò giải quyết mâu thuẫn của
ban quản trị thành viên, bằng việc sử dụng một số lý thuyết: Lý thuyết người đại
diện (agency theory), lý thuyết cương vị quản lý (stewardship theory), lý thuyết
phụ thuộc nguồn lực (resource dependency theory) và lý thuyết quản trị chuyên
quyền (managerial hegemony theory). Tác giả đã chỉ ra rằng việc quản trị HTX là
một hoạt động phức tạp, khó khăn và nhiều vấn đề nảy sinh. Ban quản trị của HTX
phải đối mặt với những vai trò mâu thuẫn lẫn nhau trong việc điều hành và đưa ra
định hướng cho sự vận hành của tổ chức. Một ví dụ về sự mẫu thuẫn này là vai trò
tuân thủ (conformance role) trong lý thuyết tổ chức và trong lý thuyết cương vị
quản lý (Cornforth, 2004). Vai trò này đòi hỏi ban quản trị phải hành xử theo
những cách khác nhau. Vai trò phục tùng này đòi hỏi ban quản trị phải chắc chắn
rằng tổ chức của mình hoạt động dựa trên lợi ích của các thành viên, nhưng ngược
lại, cũng vai trò phục tùng này đòi hỏi họ phải cải thiện hiệu quả của tổ chức, thông

qua những chiến lược và quyết định đem lại giá trị gia tăng (Cornforth, 2004).
Thêm nữa, những mâu thuẫn này có thể trở nên tồi tệ hơn bởi những nhân tố hoàn
cảnh khác, như công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp (Cook, 1995) và chính
sách của chính phủ.
Cân nhắc về tính phức tạp của quản trị, một câu hỏi nên đặt ra về khả năng
thay đổi những thành viên ban quản trị trở thành những nhà quản lý thành công,
đảm bảo sự liêm chính và đảm bảo lợi ích của thành viên và những người có liên
quan. Quản lý hợp tác xã đối mặt với khó khăn trong việc hài hòa về mâu thuẫn lợi
ích giữa các thành viên và nhu cầu của thị trường, và hiện nay điều được mong đợi
là ban quản trị nên thực hiện dựa trên tiêu chuẩn được mong đợi cho tổ chức hợp
tác xã (Cook, 1994)
Thách thức của HTX, đó là gặp phải không ít những bất lợi. đặc biệt là
những HTX phát triển với mô hình cũ, Những vấn đề có thể gặp phải ở HTX
truyền thống bao gồm vấn đề kẻ ăn không, vấn đề tầm nhìn, vấn đề quản lý và vấn
đề chi phí hoạt động (Cook, 1995). Những vấn đề này tác động không nhỏ đến sự
phát triển bền vững của HTX. Người ra quyết định phải có những kiến thức nhất
định về những vấn đề này, từ đó có thể đề ra những quyết định chiến lược dài hạn.
Bản chất của HTX là một tổ chức kinh tế, do vậy cũng cần phải có một quy
trình quản trị dân chủ. Điều này đòi hỏi sự tham gia tích cực của các thành viên
trong quá trình đưa ra những quyết định quan trọng. Kinh nghiệm nghiên cứu cho
thấy cách quản trị có tác động tích cực hay tiêu cực đến thành công của HTX
(Bhuyan, 2007; Borgen, 2001; Osterbeg và Nilson, 2009), bằng việc tác động đến
sự tham gia của thành viên và cam kết của họ.


×