Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa kết hợp với cơ sở thực tiễn từ đó phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề dân chủ ở việt nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 25 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐỀ BÀI: TỪ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘICHỦ NGHĨA KẾT HỢP VỚI CƠ SỞ THỰC TIỄN TỪ ĐÓ PHẢN BÁCLẠI CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ</b>

<b>Ở VIỆT NAM NGÀY NAY.</b>

<b>Mở đầu</b>

Vai trò của nhân dân, trọng dân, đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ln ln là vấn đề được chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao và dành sự quan tâm đặc biệt tới. Tư tưởng nhân dân này cũng là tư tưởng dân chủ, trong hoạt động thực tiễn, lý luận, quan điểm đường lối hay chính sách phát triển, Hồ Chủ Tịch cũng như Đảng và Nhà nước ta ln có ý thức sử dụng phạm trù dân chủ gắn liền với các nhiệm vụ và mơ hình. Tư tưởng đó được thể hiện ở cách mạng dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ nhân dân, nhà nước ta là một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Dân chủ vừa là mục tiêu và động lực cũng như bản chất của chế độ mới xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh nước ta thực hiện công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trước sự vận động, phát triển của tình hình cách mạng, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị ln dùng chiêu bài xun tạc, thổi phồng, bơi đen, bóp méo, suy diễn vấn đề dân chủ và làm cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nguy hiểm hơn, một mặt, chúng vẫn tỏ ra ca ngợi Đảng và Bác Hồ đã vận dụng tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, sáng suốt chèo lái con thuyền cách mạng trong thời chiến; mặt khác, chúng lợi dụng những yếu kém, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để đánh lận và “đổ lỗi” cho những khuyết điểm, những hạn chế đó đều do ngun tắc tập trung dân chủ khơng cịn phù hợp trong thời bình, khi đất nước đổi

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

mới, hội nhập sâu rộng. Bất chấp thực tiễn khách quan, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị xuyên tạc rằng: “Cần loại bỏ sự toàn trị của Đảng, cần thực hiện chế độ đa đảng, đa nguyên”. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ tiên quyết của chúng ta hiện nay trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là phải nhận diện được các quan điểm sai trái và đấu tranh phản bác kịp thời.

<b>A. CƠ SỞ LÝ LUẬN</b>

<b>I. Khái niệm dân chủ và sự ra đời của dân chủ1. Dân chủ</b>

Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỉ VII - VI TCN. Các nhà tư tưởng Hy Lạp dùng cụm từ “demoskratos” để nói đến dân chủ, trong đó “demos” là nhân dân, “kratos” là cai trị. Theo đó, dân chủ được hiểu là <i>nhân dân cai trị,</i> sau này được các nhà chính trị gọi giản lược là<i> quyền lực của nhân dân</i> hay <i>quyền lựcthuộc về nhân dân. Nội dung trên của khái niệm dân chủ về cơ bản vẫn giữ nguyên</i>

cho đến ngày hôm nay. Điểm khác biệt cơ bản giữa cách hiểu về dân chủ thời cổ đại và hiện nay là ở tính chất trực tiếp của mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng và cách hiểu về nội hàm của khái niệm nhân dân.

Dân chủ khác với tự do, bình đẳng và cơng bằng. Dân chủ là nhân dân cai trị, quyền lực thuộc về nhân dân, của nhân dân. Tự do là tình trạng khi các cá nhân không chịu sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí và nguyện vọng của mình. Bình đẳng là nói lên vị trí như nhau của con người trong xã hội. Cuối cùng, công bằng là sự bình đẳng giữa những người có cùng địa vị xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, dân chủ có một số nội dung cơ bản sau đây: trên phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân, quyền lợi đó bao gồm: quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã hội; bộ máy nhà

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. Trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước. Trên phương diện tổ chức và quản lí xã hội, dân chủ là một nguyên tắc, khi kết hợp vs nguyên tắc tập trung sẽ tạo nên nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.

Dân chủ với tư cách một hình thức tổ chức thiết chế chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước, nó là một phạm trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và chỉ mất đi khi nhà nước tiêu vong. Song, dân chủ với tư cách một giá trị xã hội, nó là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người.

Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ

<i>Chí Minh đã phát triển dân chủ theo hướng: Dân chủ là một giá trị nhân loạichung. Dân chủ không phải một khái niệm mơ hồ, mà nó là một thể chế chính trị,</i>

một chế độ xã hội mà ở đó dân chủ là dân là chủ, dân làm chủ, Chính phủ “làm đầy tớ của nhân dân, chứ không phải làm quan cách mạng.”

<i>Chủ tịch Hồ Chí minh cũng làm rõ: Dân chủ có nghĩa là mọi quyền hạn thuộc vềnhân dân. Dân chính phải là chủ thể của xã hội và phải nắm quyền làm chủ một</i>

cách tồn diện, trong đó có làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. Dân chủ cũng phải bao quát tất cả các lĩnh vực của xã hội, trong đó lấy dân chủ trong kinh tế và xã hội làm mũi nhọn. Dân chủ trong hai lĩnh vực này quyết định sự dân chủ trong các lĩnh vực khác của xã hội.

Trên cơ sở những quan niệm dân chủ nêu trên, nhất là tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) coi dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của Đảng, là mục tiêu, động lực của cách mạng, là nền tảng để xây dựng một xã hội cơng bằng, văn minh. Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng ta quán

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Theo ĐCSVN, dân chủ cịn phải gắn với cơng bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thơng qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỉ cương và phải được thể chế hóa bằng Pháp luật và được Pháp luật bảo đảm .

<i>Từ các cách tiếp cận trên, có thể hiểu Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánhnhững quyền cơ bản của con người; là một phạm trù chính trị gắn với các hìnhthức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; là một phạm trù lịch sử gắn vớiquá trình ra đời, phát triển của lịch sử nhân loại</i>

<b>1. Sự ra đời và phát triển của dân chủ</b>

Lịch sử loài người cho đến ngày nay đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội: Cộng sản nguyên thủy - chiếm hữu nô lệ - phong kiến - tư bản chủ nghĩa - cộng sản chủ nghĩa.

Ngay từ khi các thị tộc, bộ lạc ra đời với chế độ tự quản, hình thức manh nha của dân chủ đã ra đời, được gọi là “Dân chủ nguyên thủy” hay “Dân chủ quân sự”. Với hình thức này, nhân dân bầu ra một thủ lĩnh quân sự thông qua “Đại hội nhân dân”. Ở Đại hội này, hình thức dân chủ được biểu hiện qua việc mỗi cá nhân đều có quyền tán thành hoặc khơng tán thành bằng cách hoan hô, giơ tay…

Tiếp đến, nhờ vào việc phát triển trình độ của lực lượng sản xuất, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và giai cấp ra đời, khiến hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã, thay thế bằng nền “dân chủ chủ nô”, ứng với chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên, ở nền dân chủ này, nội hàm khái niệm “dân” đã thay đổi, khiến cho nền dân chủ chỉ

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

thực sự bảo vệ quyền và lợi ích của thiểu số (giai cấp chủ nơ và một số công dân tự do như: tăng lữ, thương gia và một số trí thức).

Khi nhà nước chuyên chế phong kiến ra đời, chế độ dân chủ chủ nô bị xóa bỏ, thay vào đó là chế độ độc tài chuyên chế phong kiến. Ở thời kỳ này, ý thức và các hoạt động đấu tranh giành dân chủ khơng có bước tiến nào bởi nhân dân xem việc tuân theo ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận của bản thân trước sức mạnh của đấng tối cao.

Đến cuối thế kỷ XIV, giai cấp tư sản ra đời, tạo nên nền dân chủ tư sản. Đây là một bước tiến lớn của nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do, bình đẳng và dân chủ. Song, vì được xây dựng dựa trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nền dân chủ tư sản vẫn chỉ bảo vệ sự dân chủ cho thiểu số trong xã hội.

Khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công năm 1917, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội được mở ra, nhân dân lao động của nhiều quốc gia giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập Nhà nước cơng -nơng, kèm theo đó là nền dân chủ vô sản ra đời. Nền dân chủ này đã xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số nhân dân.

Với tiền thân là hình thức dân chủ nguyên thủy, trải qua các tiến trình lịch sử từ: nền dân chủ chủ nô gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, dân chủ tư sản gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa, nền dân chủ vô sản (nền dân chủ XHCN) ra đời gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ nguyên thủy là giá trị dân chủ và các nền dân chủ như: Dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ vô sản là các nền dân chủ gắn với nhà nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b> II. Dân chủ xã hội chủ nghĩa </b>

<b>1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa</b>

<i>Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của nền dânchủ xã hội chủ nghĩa là tình hình xã hội ngày càng phức tạp và đa dạng, đặt ra</i>

những thách thức mà các hệ thống chính trị truyền thống khó có thể giải quyết. Cuộc Cách mạng Cơng nghiệp đã tạo ra sự thay đổi lớn lao trong cơ cấu kinh tế, xã hội, và chính trị của thế giới. Nó đã tạo ra một lớp cơng nhân mới, phải chịu đựng những điều kiện sống và làm việc khắc nghiệt, bị bóc lột và đàn áp bởi lớp tư sản giàu có. Nó cũng đã tạo ra một lớp trung lưu mới, có trình độ giáo dục và văn hóa cao hơn, mong muốn có thêm quyền lợi và ảnh hưởng trong xã hội. Những lớp này đã đòi hỏi sự thay đổi trong cách thức cai trị và quản lý của các chính quyền quân chủ hay độc tài, mà khơng cịn phù hợp với thời đại mới. ( Hobsbawm, 1994, tr. 23-45; Hobsbawm, 1996, tr. 56-78).

Những dẫn chứng trên cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị và xã hội phù hợp với tình hình xã hội ngày càng phức tạp và đa dạng, đặt ra những thách thức mà các hệ thống chính trị truyền thống khó có thể giải quyết.

<i>Ngoài ra, một yếu tố khác ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của nền dânchủ xã hội chủ nghĩa là những cuộc tranh đấu xã hội, bắt nguồn từ lòng yêu nước,</i>

lòng yêu người, và khát vọng tự do, bình đẳng, cơng bằng. Những biểu hiện rõ ràng của nó thường xuất hiện trong các phong trào nhân quyền, cuộc đấu tranh cho độc lập quốc gia và quyền lực dân chủ. Ví dụ, phong trào Pháp Cách mạng đã tuyên bố những quyền cơ bản của con người, như quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền tham gia quản lý nhà nước, v.v. ( Soboul, 1989, tr. 67-89). Cuộc đấu tranh giành độc lập của các quốc gia thuộc địa đã khẳng định chủ quyền và tự

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

quyết của các dân tộc, như Ấn Độ, Việt Nam, Algérie, v.v. ( Chandra, 2008, tr. 123-145; Duiker, 2000, tr. 234-256; Horne, 2006, tr. 345-367). Cuộc đấu tranh dân chủ của các quốc gia bị đàn áp bởi các chế độ độc tài hay tư bản đã đòi hỏi sự tham gia của nhân dân trong việc đưa ra các quyết định quan trọng, như Ba Lan, Nam Phi, Ai Cập, v.v. (Ash, 1999, tr. 456-478; Mandela, 1995, tr. 567-589; El-Ghobashy, 2011, tr. 678-700).

Những dẫn chứng trên cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết quả của những cuộc tranh đấu xã hội, bắt nguồn từ lòng yêu nước, lòng yêu người, và khát vọng tự do, bình đẳng và, cơng bằng.

<b>1. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa</b>

<i>Bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự thể hiện của quyền lực dânchủ và tính đa nguyên. Chính trị ở đây không chỉ là quản lý và điều hành nhà nước,</i>

mà cịn là q trình tham gia của cộng đồng trong việc đưa ra quyết định. Hệ thống chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa tập trung vào việc đảm bảo sự đại diện cho ý chí cộng đồng thông qua các cơ quan lập pháp và hành pháp. Quyết định quan trọng được đưa ra sau q trình thảo luận cơng bằng và tranh luận ý kiến.

Ví dụ, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, người dân có quyền bầu cử, bỏ phiếu, kiến nghị, phản biện, và giám sát các cơ quan nhà nước. Các đảng phái và các tổ chức xã hội được tự do hoạt động và thể hiện quan điểm của mình. Các cơ quan nhà nước phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước dư luận. (Held, 2006, tr. 78-102). Những dẫn chứng trên cho thấy, bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự thể hiện của quyền lực dân chủ và tính đa nguyên, đảm bảo sự tham gia và đại diện của cộng đồng trong việc đưa ra quyết định.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>Bản chất kinh tế của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp giữa thị trường và sựcan thiệp của nhà nước để đảm bảo công bằng và bền vững. Hệ thống kinh tế này</i>

không chỉ tập trung vào việc tạo ra lợi nhuận mà còn đặt mục tiêu phát triển bền vững, giảm bất bình đẳng và bảo vệ mơi trường. Sự can thiệp của nhà nước thơng qua chính sách thuế và giáo dục có mục tiêu xã hội chủ nghĩa nhằm đảm bảo mọi người đều có cơ hội tiến bộ và đóng góp vào xã hội.

Ví dụ, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước có vai trị điều tiết thị trường, cân bằng ngân sách, hỗ trợ các ngành kinh tế chiến lược, bảo đảm an sinh xã hội, và thực hiện các chương trình giáo dục và đào tạo. Thị trường có vai trị phân bổ tài nguyên, khuyến khích sáng tạo, và tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh. ( Stiglitz, 2012, tr. 45-67). Những dẫn chứng trên cho thấy, bản chất kinh tế của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp giữa thị trường và sự can thiệp của nhà nước để đảm bảo công bằng và bền vững, giảm bất bình đẳng xã hội Ngồi ra, bản chất tư tưởng - xã hội - văn hóa của dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những yếu tố quan trọng để xây dựng một cộng đồng lớn mạnh và hịa bình. Giáo dục trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khơng chỉ nhằm mục đích truyền đạt kiến thức mà cịn làm nền tảng cho việc hình thành tư duy phản biện, ý thức công dân và tinh thần hợp tác. ( Nguyễn, T. H. 2021, tr. 12-18). Văn hóa trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tơn trọng đa dạng, bình đẳng giới và đa văn hóa, thể hiện qua các hoạt động nghệ thuật, văn học và truyền thông. Tư tưởng xã hội hướng đến sự tự do cá nhân và trách nhiệm cộng đồng, thúc đẩy tinh thần công dân chủ nghĩa và tư tưởng nhân quyền, đặc biệt là trong bối cảnh tồn cầu hóa và biến đổi khí hậu ( Trần, V. T. 2020, tr. 67-74)

Như vậy, bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ nằm trong cơ cấu chính trị và kinh tế, mà cịn là một hệ thống tư tưởng - xã hội - văn hóa đồng đều và bền vững, định hình cho sự phát triển toàn diện của cộng đồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b> </b>

<b> B. LIÊN HỆ THỰC TIỄN</b>

Phản bác quan điểm sai trái về vấn đề dân chủ ở Việt Nam “ Cần loại bỏ sự toàn trị của Đảng, cần thực hiện chế độ đa đảng, đa nguyên”

<b>I.Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam</b>

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu được xác lập sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, khi ấy với tên gọi là nền dân chủ nhân dân. Trong quá trình xây dựng và phát triển, nền dân chủ nhân dân đã trải qua hai cột mốc đáng nhớ là năm 1954 – sau khi ký kết hiệp định Giơ ne vơ chấm dứt chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và năm 1975 – giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau khi hịa bình lập lại, đất nước đã thống nhất hai miền Nam Bắc, chúng ta đã bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ chủ nghĩa. Tại thời điểm đó, với những yếu tố ngoại cảnh tác động đến từ một số nước xã hội chủ nghĩa khi có sự áp dụng chủ nghĩa Mác LêNin nhưng chưa do vận dụng đúng tinh thần đã dẫn đến một số hệ quả là một số nước xã hội chủ nghĩa rơi vào tình trạng trì trệ và dẫn đến khủng hoảng, điển hình là sự sụp đổ ở Liên Xơ và Đơng Âu.

Chính vì vậy, sau gần 10 năm khi đất nước đã giành lại hịa bình, vào năm 1986 Đảng ta đã nhận thức cần phải đổi mới, đổi mới toàn diện đất nước, xác định xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng cơ chế lấy dân là gốc: “ mọi cơng dân đều có quyền tham gia quản lý xã hội; phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nhân dân thực sự trở thành người làm chủ, tự xây dựng tổ chức quản lý xã hội; đồng thời phát huy tính tích cực, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, công cuộc xây dựng và đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho

<i>đến ngày nay vẫn phải chịu ảnh hưởng từ một số tác nhân như: chịu hậu quả và</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>tàn dư từ chiến tranh: đến nay vẫn để lại những hậu quả chưa thể khắc phục được</i>

như chất độc màu da cam hay những bãi mìn từ thời điểm chiến tranh đến nay vẫn chưa được gỡ bỏ, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn và ảnh hưởng tới đời sống của nhân dân; <i>ảnh hưởng tiêu cực từ cơ chế thị trường</i>: khi nền kinh tế thị trường được xác lập, các chủ thể kinh tế cạnh tranh khốc liệt nhằm tạo lợi nhuận tối đa, có những trường hợp cạnh tranh không lành mạnh làm băng hoại đạo đức, tạo ra tác động

<i>tiêu cực và ảnh hưởng nghiêm trọng tới thế hệ trẻ bây giờ. Đặc biệt, xây dựng nềndân chủ XHCN ở Việt Nam đang diễn ra trong điều kiện một nền kinh tế còn chưaphát triển, hơn nữa các thế lực thù địch ln ln tìm cách chống phá, ln tìm</i>

mọi cách hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, dùng những quan điểm sai trái nhắm đến nhiều mục đích xấu.

Do vậy, Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, một điều kiện có tính nguyên tắc là phải kiên quyết giữ vững vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và phải kiên quyết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh tồn diện, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng XHCN.

<b>I.Phản bác quan điểm sai trái về vấn đề dân chủ ở Việt Nam2.1. Giải thích các khái niệm</b>

“Đa đảng, đa nguyên”

Đa nguyên chính trị là khuynh hướng xã hội học - triết học xuất hiện từ đầu thế kỷ XVIII. Đa nguyên chính trị hiểu một cách đơn giản nhất là cho phép sự tồn tại của nhiều trường phái triết học (chủ yếu là triết học tư sản), từ đó tất yếu dẫn tới nhiều đảng phái chính trị trong xã hội cạnh tranh, tranh giành quyền ảnh hưởng và

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

quyền lãnh đạo xã hội, lôi kéo quần chúng đứng về phía mình. Khuynh hướng này tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong xã hội.

“Chế độ thù địch”

Các thế lực thù địch là tất cả những ai, cá nhân hay tổ chức, Nhà nước hay phi chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở ngoài nước, người Việt Nam hay người nước ngoài... với mục đích chống Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hoạt động chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị.

2. Mục tiêu, đối tượng và cách thức thực hiện của các thế lực thù địch Mục tiêu nhất quán không thay đổi của các thế lực thù địch là chống phá tận gốc về tư tưởng chính trị, xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng CSVN, “phi chính trị hóa”, vơ hiệu hóa qn đội và lực lượng cơng an, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Đặc biệt, các thế lực thù địch thường đưa ra quan điểm này vì họ tin rằng một chế độ đa đảng sẽ mang lại tính dân chủ hơn, tạo điều kiện cho việc giám sát và kiểm soát quyền lực, và giúp tránh xa dịch vụ kiểm soát của một đảng toàn trị.

Đối tượng mà các thế lực thù địch hướng vào: Một là, tầng lớp văn nghệ sĩ, trí thức và thanh niên, học sinh, sinh viên; Hai là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước các cấp, nhất là ở Trung ương và cấp tỉnh; Ba là, những người bất mãn với Nhà nước, nhất là những người có quan điểm sai trái, đối lập với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những người có hoạt động lơi kéo những người khác vào hoạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

động chống đối Đảng, Nhà nước; Bốn là, những người Việt Nam ra nước ngồi cơng tác, học tập, lao động, trao đổi văn hóa, hội nghị, hội thảo, du lịch v.v..

Các thế lực thù địch đã lợi dụng các phương tiện thơng tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình và mạng internet để chuyển tải các quan điểm sai trái, thù địch để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chúng tìm mọi cách tác động vào số cán bộ, cơng nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ ra nước ngồi cơng tác, học tập, tham gia hội thảo, tham quan, du lịch để lôi kéo, gieo rắc tư tưởng hoài nghi con đường XHCN, hướng về phương Tây TBCN. Hơn thế nữa, chúng còn tăng cường móc nối với số đối tượng cơ hội chính trị, chống đối ở Việt Nam, hình thành phe phái tiến tới hình thành đảng đối lập ở Việt Nam. Lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc” và “tơn giáo” để gây sức ép về chính trị, kích động, hình thành xu hướng ly khai đối lập với ĐCS Việt Nam.

<b>2.2. Đưa ra một số luận điểm phản bác</b>

Luận điểm 1: Tại sao đa đảng không phù hợp với bối cảnh lịch sử ở Việt Nam Trước năm 1930, do bị khủng hoảng về đường lối cách mạng, các phong trào yêu nước ở Việt Nam nổ ra mạnh mẽ nhưng đều thất bại. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải có Đảng của giai cấp tiên tiến nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với bối cảnh lịch sử đó chúng ta đã có những biến chuyển lớn trong đường lối lãnh đạo cách mạng với sự kiện tiêu biểu là sáp nhập ba tổ chức Đảng thành một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930.

Trở lại giai đoạn từ 1919 -1929, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị. Thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin

</div>

×