Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 94 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b> BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI </b>
<b> BÁO CÁO TỔNG KẾT </b>
<b> ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC </b>
<b> ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠNG TÁC XÚC TIẾN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b> LỜI CAM ĐOAN </b>
Nhóm tác giả xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của nhóm cùng với sự dẫn dắt và hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thanh. Các nội dung nghiên cứu
<b> trong đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố Hà Nội” của nhóm là hồn tồn trung thực và chưa công bố dưới bất </b>
kỳ hình thức nào trước đây. Những thông tin, số liệu mà nhóm dùng để phân tích, nhận xét và đánh giá được thu thập từ các nguồn khác nhau và có ghi rõ nguồn gốc Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, nhóm tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung báo cáo nghiên cứu khoa học của mình.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b> LỜI CẢM ƠN </b>
Trước tiên nhóm chúng em xin gửi lời cảm ơn đến Trường Đại học Thương mại, Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, bộ môn Phương pháp Nghiên cứu khoa học và các thầy cô đã truyền cho chúng em những kiến thức quý báu để nhóm có thể hồn thành bài nghiên cứu này.
Chúng em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thanh – giảng viên hướng dẫn của bài thảo luận, đã tận tình giúp đỡ chúng em hoàn thành bài thảo luận này. Thầy đã tận tình hướng dẫn chúng em từ phần định hướng, khái quát đến chi tiết để xử lý, giải quyết, tháo gỡ các khó khăn mà nhóm gặp phải trong quá trình trình bày, thu thập, phân tích tài liệu.
<b> Trân trọng! </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b> DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT </b>
Dương
mại,du lịch - Hà Nội)
Quốc tế)
tâm Xúc tiến đầu tư phía Bắc)
Development (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) 12 PPP Public - Private Partnership (Đầu tư theo hình thức đối
tác công tư)
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">15 UNCTAD International Institute for Environment and Development (Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển)
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b> CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ... 9 </b>
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ... 10
1.2. Tổng quan nghiên cứu ... 10
<i> 1.2.1. Các bài nghiên cứu trong nước ... 10 </i>
<i> 1.2.2. Các bài nghiên cứu nước ngoài ... 1 3 </i> 1.3. Mục tiêu nghiên cứu ... 1 6 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 1 6 <i> 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu ... 1 6 1.4.2. Khách thể nghiên cứu ... 17 </i>
<i> 1.4.3. Phạm vi nghiên cứu ... 17 </i>
1.5. Phương pháp nghiên cứu ... 1 7 <b> CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ CỦA MỘT ĐỊA PHƯƠNG ... 18 </b>
2.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài ... 18
<i> 2.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài ... 18 </i>
<i> 2.1.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài ... 18 </i>
2.2. Tổng quan về xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương ... 21
<i> 2.2.1. Khái niệm, đặc điểm xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài ... 21 </i>
<i> 2.2.2. Vai trò xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài ... 2 1 2.2.3. Cơ quan xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương ... 2 5 2.2.3.1. Bản chất của cơ quan xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương ... 2 5 2.2.3.2. Đặc điểm, hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương ... 2 5 2.2.3.3. Vai trò cơ quan xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương ... 27 </i>
2.3. Các nội dung hoạt động của xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài ... 2 7 <i> 2.3.1: Xây dựng hình ảnh ... 28 2.3.2 Nhắm mục tiêu và vận động đầu tư trực tiếp ... 3 0 2.3.3. Dịch vụ cho nhà đầu tư ... 3 1 </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><i> 2.3.4. Vận động chính sách ... 3 3 </i>
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài ... 3 6
<i> 2.4.1. Yếu tố bên trong của cơ quan xúc tiến đầu tư ... 3 6 2.4.2. Yếu tố bên ngoài ... 3 7 </i>
2.5. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước hay quốc gia khác ... 3 8
<i> 2.5.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư của các địa phương tại 2.5.2. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư của Indonesia ... 4 1 </i>
<b> CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ </b>
<b> TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ... 44 </b>
3.1 Tổng quan về dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố Hà Nội ... 4 3 <i> 3.1.1 Lượng vốn FDI thu hút được trong thời gian qua bởi thành phố Hà Nội . 4 3 3.1.2 Mục tiêu liên quan đến lượng vốn FDI thu hút được trong tương lai của </i> 3.3. Phương thức thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư của thành phố Hà Nội ... 4 8 <i> 3.3.1. Thực hiện hoạt động tìm kiếm các nhà đầu tư mới ... 49 </i>
<i> 3.3.1.1. Thực hiện hoạt động tiếp cận các nhà đầu tư mới khi đã có dự án . 5 0 3.3.1.2. Thực hiện các hoạt động thu hút các nhà đầu tư tạo dự án mới ... 5 1 3.3.2. Thực hiện hỗ trợ nhà đầu tư chủ động tìm đến địa phương ... 5 3 3.3.3. Thực hiện hỗ trợ các nhà tư hiện tại kích thích tái đầu tư ... 5 5 </i> 3.4. Thực trạng các nội dung hoạt động xúc tiến đầu tư của tp Hà Nội ... 5 7 <i> 3.4.1. Xây dựng hình ảnh ... 5 7 3.4.2. Nhắm mục tiêu và xây dựng trực tiếp ... 60 </i>
<i> 3.4.3. Dịch vụ cho đầu tư ... 62 </i>
<i> 3.4.3.1. Cơ quan hành chính phụ trách cung cấp dịch vụ cho đầu tư ... 62 </i>
<i> 3.4.3.2. Các dịch vụ cho đầu tư đang được thực hiện ... 62 </i>
<i> 3.4.3.3. Chi phí của dịch vụ dành cho nhà đầu tư ... 64 </i>
<i> 3.4.4. Vận động chính sách ... 65 </i>
3.5. Đánh giá và thách thức của công tác hoạt động xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thành phố Hà Nội ... 67
<i> 3.5.1. Xây dựng hình ảnh ... 67 </i>
<i> 3.5.1.1. Đánh giá ... 67 </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b> CHƯƠNG IV: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÚC TIẾN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI . 7 5 </b> 4.1. Định hướng đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư nước ngoài tại <i> 4.2.1.2. Cải thiện và hoàn thiện các dịch vụ cung cấp ... 7 7 4.2.1.3. Nghiên cứu và áp dụng các mơ hình hoạt động mới và hiệu quả hơn ... 7 8 4.2.1.4. Tạo kết nối mạnh mẽ với cộng đồng người trẻ ... 79 </i>
<i> 4.2.2. Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư ... 80 </i>
<i> 4.2.2.1. Đề xuất cho Chính phủ triển khai Cục Xúc tiến Đầu tư. ... 80 </i>
<i> 4.2.2.2. Thực hiện bảng đánh giá hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư: ... 81 </i>
<i> 4.2.2.3. Đa dạng hóa các phương thức chia sẻ kinh nghiệm giữa các địa phương trong xúc tiến đầu tư . ... 82 </i>
<i> 4.2.3. Giải pháp đối với chính phủ ... 83 </i>
<i> 4.2.3.1. Tăng cường nguồn ngân sách nhà nước dành cho các trung tâm xúc tiến đầu tư ... 84 </i>
<i> 4.2.3.2. Đánh giá và ghi nhận kết quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư ... 84 </i>
<i> 4.2.3.3. Hồn thiện bộ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ... 85 </i>
<b> KẾT LUẬN ... 88 </b>
<b> DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 89 </b>
<b> PHỤ LỤC ... 90 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b> CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài </b>
Tồn cầu hóa đã dẫn đến sự kết nối chặt chẽ hơn giữa các thị trường trên toàn thế giới và tăng cường truyền thông cũng như nhận thức về các cơ hội đầu tư và kinh doanh ở những nơi xa xôi trên thế giới. Nhiều nhà đầu tư có thể tiếp cận các cơ hội đầu tư mới và nghiên cứu các thị trường mới ở khoảng cách xa hơn trước. Những rủi ro tiềm ẩn như rủi ro về môi trường đầu tư, rủi ro về chính sách đầu tư, rủi ro về thông tin hay thậm chí là rủi ro về năng lực của cơ quan xúc tiến đầu tư và cơ hội có thể kể đến như việc tìm kiếm được những cơ hội đầu tư mới, cơ hội để tiếp cận những nhà đầu tư ở các lĩnh vực khác nhau có thể dễ dàng tiếp cận hơn nhờ công nghệ truyền thông được cải tiến.
Các địa phương có mối quan hệ tích cực giữa họ có thể ngày càng thống nhất nền kinh tế của mình thơng qua tăng cường đầu tư và thương mại. Các sản phẩm và dịch vụ trước đây sẵn có ở một địa phương sẽ được chú ý đến và được cung cấp dễ dàng hơn cho các thị trường mới, trực tiếp mang lại cơ hội kinh tế được cải thiện cho người lao động ở các địa phương đó và dẫn đến thu nhập hộ gia đình được cải thiện thông qua hoạt động xúc tiến đầu tư. Vì vậy, việc cải thiện xúc tiến đầu tư ở địa bàn thành phố Hà Nội sẽ đem lại một cơ hội phát triển kinh tế vững mạnh, có thể kể đến như tăng cường vốn đầu tư FDI, tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ hội thực hiện chuyển giao công nghệ tại địa bàn Hà Nội. Bên cạnh đó, xúc tiến đầu tư còn giúp tạo dựng một hình ảnh thành phố Hà Nội phát triển, tốt đẹp , đáng để đầu tư từ đó thu hút lượng lớn nhà đầu tư tìm đến với thủ đơ.
Với sự phát triển về mặt kinh tế trong những năm vừa qua ở địa bàn thành phố Hà Nội, ta tự đề ra câu hỏi rằng: Liệu xúc tiến đầu tư từ trước đến giờ có thực sự hiệu quả so với ngân sách mà nước ta đã bỏ ra ở Thủ đô Hà Nội?
Mặc dù xúc tiến đầu tư chiếm một phần quan trọng trong việc cải cách nền kinh tế ở Thủ đô Hà Nội, từ trước đến nay tồn tại rất ít những nghiên cứu và các tiêu chí đánh giá chính thức dành cho hiệu quả của hoạt động Xúc Tiến Đầu Tư ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, cụ thể hơn có khoảng 100 nghiên cứu về hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam và khoảng 20 nghiên cứu về hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư tại Hà Nội được thực hiện trong những năm gần đây. Các nghiên cứu này được thực hiện bởi các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư vấn trong nước và quốc tế. Vì vậy, nhóm chúng em quyết định nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư của thành phố Hà Nội" nhằm đưa ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">được những đánh giá thiết thực về các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xúc tiến đầu tư ở thành phố Hà Nội và một số giải pháp giúp cải thiện hoạt động này.
<b> 1.2. Tổng quan nghiên cứu </b>
<b> 1.2.1. Các bài nghiên cứu trong nước </b>
Hiện nay, đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu trong nước về đề tài thu hút hay xúc tiến FDI ở Việt Nam hay từng tỉnh cụ thể dưới nhiều góc tiếp cận khác nhau. Về không gian nghiên cứu, đã có các bài nghiên cứu được thực hiện ở cấp độ quốc gia (Nguyễn Thị Kim Nhã, 2005; Nguyễn Thị Ái Liên, 2011; Lê Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Dương, 2023; Lê Như Quỳnh, 2022), hoặc địa phương (Nguyễn Tiến Long, 201; Đặng Thành Cương, 2012; Ngô Trung Hùng, 2013; Trần Quang Hậu, 2015; Lê Hùng Sơn, 2020 ) …, hay trong phạm vi vùng (Bùi Thúy Vân, 2011; Phạm Đức Minh, 2013; Nguyễn Ngọc Anh, 2015; Trần Quang Hậu; 2015; Nguyễn Thị Thanh Mai, 2016; Vũ Việt Ninh, 2018…). Hơn nữa cũng có một vài tác giả nghiên cứu cụ thể hơn như: Đinh Thành Trung (2009), Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản vào Việt Nam; Về đối tượng nghiên cứu, một số tác giả tập trung vào hoạt động thu hút vốn FDI trong một ngành, lĩnh vực cụ thể, tiêu biểu như: Vũ Việt Ninh (2018) trong luận án tiến sĩ Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng; Nguyễn Thị Mai Hương (2017) trong bài báo Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp….Tuy nhiên, khi xem xét các nghiên cứu trong nước, nhóm nhận thấy rằng các cơ quan xúc tiến đầu tư ở các khu vực và địa phương thường không thể hiện đủ độ tích cực khi tìm kiếm những nhà đầu tư mới. Thay vào đó, họ thường chỉ tập trung vào việc hoàn thiện chính sách và các yếu tố khác liên quan đến môi trường đầu tư. Nhóm cũng nhận thấy rằng đa số các nghiên cứu trước đây đều hướng tới mục tiêu tìm kiếm giải pháp để cải thiện chất lượng môi trường đầu tư nhưng chưa chú trọng tới các nhóm yếu tố khác liên quan đến chất lượng của cơ quan xúc tiến đầu tư. Trong các nghiên cứu trước đó, có thể thấy vai trò của các cơ quan này thường chưa nhận được đủ sự chú ý và ít được đề cập. Đặc biệt, quan điểm về vai trò quyết định của chúng đối với ý định đầu tư của nhà đầu tư nước ngồi cịn chưa được cao. Cụ thể như sau:
Theo Nguyễn Ngọc Anh (2015) trong bài nghiên cứu “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế trọng điểm miền Trung” cho thấy, các yếu tố có ảnh hưởng thuận chiều đến ý định của nhà đầu tư nước ngoài trong Vùng theo thứ tự quan trọng lần lượt là yếu tố vùng; môi trường quốc tế; và môi trường kinh tế vĩ mô. Đối với yếu tố vùng, thể chế và lao động có mức độ ảnh hưởng mạnh hơn các yếu tố tài nguyên và công nghệ, thị trường. Đối với các yếu tố bên ngồi, mơi trường quốc tế có mức độ ảnh hưởng mạnh đến ý định đầu tư, trong khi, môi trường kinh tế vĩ mơ có ảnh hưởng không đáng kể. Kết quả này giúp củng cố thêm những nhận định định tính ban đầu về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định của nhà
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">đầu tư nước ngoài vào Vùng. Đánh giá thực trạng yếu tố vùng cho thấy, yếu tố thuận lợi ảnh hưởng đến dòng chảy FDI: tài nguyên du lịch; sự dồi dào lao động phổ thông, chi phí lao động thấp, tiềm năng thị trường lớn. Ngoài ra, các bất lợi lớn đó là: thể chế và cơ chế thực thi; và các bất lợi liên quan đến chi phí, chất lượng các yếu tố sản xuất tại địa phương như: chất lượng lao động; cơ sở hạ tầng giao thông, khu công nghiệp, kỹ thuật; quy mô thị trường nhỏ, chia cắt. Nghiên cứu gợi ý chính sách liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng để tăng cường thu hút FDI đối với Vùng tập trung vào 5 nhóm nhân tố: (1) hoàn thiện thể chế và cơ chế thực thi; (2) phát triển nguồn nhân lực; (3) phát triển công nghiệp hỗ trợ; (4) phát triển hạ tầng giao thông và bên trong khu công nghiệp, khu kinh tế; và (5) chính sách xúc tiến đầu tư nhằm tạo sức hút lớn đối với doanh nghiệp FDI. Chính sách gợi ý các quan điểm, mục tiêu và định hướng cải thiện cho từng nhân tố dựa trên sự kết hợp giữa chính sách kéo và chính sách đẩy, trong đó, trọng tâm là chính sách kéo, tạo ra khu vực thị trường có sức hút lớn để doanh nghiệp đầu tư phát triển các yếu tố này, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, bài nghiên cứu chưa nhắc đến các yếu tố khác nằm ngoài nhóm mơi trường đầu tư đặc biệt là các yếu tố liên quan đến cơ quan xúc tiến đầu tư khu vực.
Trần Quang Hậu (2015) cũng có bài nghiên cứu cụ thể mang tên “Nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Quảng Nam” đã tập trung vào tầm quan trọng của các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư nước ngoài tại tỉnh Quảng Nam. Qua điều tra 200 doanh nghiệp FDI cho thấy, hầu hết toàn bộ doanh nghiệp đều quan tâm đến những nhân tố được đề xuất trong mơ hình nghiên cứu. Để đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, thông qua dịng chảy FDI thì tỉnh Quảng Nam cần hoàn thiện các thể chế, đồng thời cải thiện những nhân tố thuộc mơ hình đề xuất bao gồm các tố: Môi trường quốc tế; môi trường chính trị; mơi trường kinh tế vĩ mô; thị trường; nguồn nhân lực; văn hóa xã hội; thể chế; tài nguyên môi trường; cơ sở hạ tầng; vị trí địa lý và cơng nghệ hạ tầng và công nghệ
Lê Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Dương (2023) trong bài nghiên cứu “ Các yếu tố ảnh hưởng tới tình hình thu hút FDI tại Việt Nam” bằng cách sử dụng dữ liệu thứ cấp đã cho ta thấy được thực trạng thu hút vốn đầu tư FDI trong giai đoạn từ 2019-2022 cũng như các yếu tố tác động tới hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam bao gồm nhóm yếu tố chủ quan bao gồm môi trường chính trị - xã hội; tình hình kinh tế của quốc gia, vị trí địa lý; cơ sở hạ tầng kỹ thuật; trình độ quản lý và năng lực của người lao động hay cũng như các nhóm yếu tố khách quan bao gồm việc dòng vốn FDI trên thế giới có sự thay đổi sâu sắc hay chiến tranh Nga- Ukraine. Từ đó có những khuyến nghị giải pháp từ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; giữ vững môi trường chính trị ổn định; đầu tư phát triển hạ tầng; nâng cao chất lượng giáo dục.
Lê Hùng Sơn (2020) cũng có bài nghiên cứu tên là “Nghiên cứu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Quảng Ninh trong bối cảnh phát triển mới” đã cho thấy việc nhờ nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh đã có
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">những thay đổi tích cực, tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Quảng Ninh còn khá hạn chế, thậm chí xu hướng đầu tư kém ổn định và có hiện tượng giảm sút việc đẩy mạnh thu hút vốn này là hết sức cần thiết và quan trọng, là cơ sở nhằm thúc đẩy kinh tế tỉnh Quảng Ninh phát triển. Luận án đã thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: Xây dựng lý luận chung về thu hút vốn FDI vào địa phương cấp tỉnh, gồm: Lý luận về vốn FDI, lý luận về thu hút FDI, nội dung thu hút vốn FDI, các lý thuyết về nhân tố ảnh hưởng tới thu hút vốn FDI - Phân tích, tổng hợp kinh nghiệm thu hút vốn FDI của một số quốc gia, của một số địa phương trong nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Ninh - Phân tích các đặc điểm kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh có ảnh hưởng đến thu hút vốn FDI, phân tích thực trạng thu hút vốn FDI vào tỉnh Quảng Ninh từ đó chỉ ra những kết quả và tồn tại trong thu hút vốn FDI của tỉnh. Tác giả đã sử dụng mơ hình EFA, PLS SEM để phân tích và đánh giá các nhân tố ảnh thông qua biến đánh giá chung “Ý định đầu tư” của nhà đầu tư. Tác giả đã chỉ ra triển vọng thu hút vốn FDI vào tỉnh Quảng Ninh và đã đề xuất 7 nhóm giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn FDI bao gồm: Đẩy mạnh xây dựng chính sách thu hút đầu tư vào tỉnh Quảng Ninh; Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Nâng cao chất lượng dịch vụ cơng; Hồn chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Đổi mới, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư; Nhóm các giải pháp về môi trường.
Lê Như Quỳnh (2022) cũng có bài nghiên cứu “Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam đến năm 2030” đã cho ta thấy các chính sách thu hút vốn đầu tư FDI hiện tại mà Việt Nam đang áp dụng gồm các nhóm như hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư; chính sách và biện pháp đảm bảo đầu tư; chính sách quy định về hình thức đầu tư; thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư;.. và nhóm các chính sách liên quan đến thu hút đầu tư như chính sách ưu đãi thuế; chính sách ưu đãi đầu tư liên quan đến đất đai;.... từ đó đưa ra được đánh giá độ hiệu quả của từng chính sách tới hoạt động thu hút đầu tư.
Phạm Thị Thùy Trâm (2010) có bài nghiên cứu “Kinh nghiệm xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số nước khu vực Đông Á và bài học cho Việt Nam”. Bài luận này đã đóng góp một phần không nhỏ cho việc xúc tiến đầu tư của Việt Nam. Trước hết, luận án đã hệ thống hóa lý luận cơ bản liên quan đến xúc tiến đầu tư FDI. Thứ hai, dựa trên cơ sở phân tích dịng vốn FDI vào ba nước Trung Quốc, Thái Lan và Malay, luận án phân tích hoạt động xúc tiến đầu tư và các thức tổ chức thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư, mơ hình cơ quan của xúc tiến đầu tư tại ba nước đó. Từ đó rút ra kinh nghiệm, đưa ra những bài học thành công và không thành công ở Việt Nam cùng với đó là đánh giá thực trạng XTĐT của Việt Nam, từ đó xác định quan điểm, phương hướng và giải pháp.
Nguyễn Thị Ái Liên (2011) có bài nghiên cứu “Môi trường đầu tư với hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” đã cho ta thấy bức tranh tổng
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">thể lý luận về môi trường đầu tư gồm khái niệm, đặc điểm, phân loại, các yếu tố của môi trường đầu tư và các chỉ số của môi trường đầu tư. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút đầu tư từ nước ngoài bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường chính trị hay mơi trường chính sách pháp luật. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng môi trường đầu tư trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài.
<b> 1.2.2. Các bài nghiên cứu nước ngoài </b>
Đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, việc thăm dị và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư là một lĩnh vực được họ quan tâm không kém so với các nhà nghiên cứu trong nước. Trong số những nhà nghiên cứu quốc tế đáng chú ý, có thể kể đến những tên tuổi như Victor Steenbergen, Morisset và Andrews Johnson, Ortega và Griffin, Sung Hoon - Lim, hay Harding và Javorcik. Các nghiên cứu của họ tập trung vào các khía cạnh của hoạt động xúc tiến đầu tư, với mục đích cụ thể là nâng cao hiệu quả của các hoạt động này tại khu vực mà họ đang nghiên cứu.
Nhóm nhận thấy rằng, so với các nghiên cứu trong nước, các nhà nghiên cứu quốc tế đã có cái nhìn rõ ràng hơn về vai trò của cơ quan xúc tiến đầu tư. Trong quá trình đánh giá hiệu quả và đề xuất các cải tiến, họ không chỉ tập trung mạnh mẽ vào nhóm yếu tố môi trường đầu tư, như cách các nhà nghiên cứu trong nước thường làm. Thay vào đó, mơ hình nghiên cứu của họ đã mở rộng để bao gồm các nhóm yếu tố khác ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư chẳng hạn như các hoạt động xúc tiến của cơ quan; các yếu tố nội bộ của cơ quan xúc tiến đầu tư như quy mô tổ chức, chất lượng nhân sự hay các chính sách pháp lý tại cơ quan trong khu vực nghiên cứu đó.
Victor Steenbergen với bài nghiên cứu “ What Make An Investment Promotion Agency Effective? ” đã tập hợp dữ liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành với số liệu khảo sát về đặc điểm cơ quan xúc tiến đầu tư. Nghiên cứu cho thấy việc xác định mục tiêu theo ngành mang lại tác động tích cực đáng kể đến cổ phiếu đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành tại quốc gia đó. Tuy nhiên, một mơ hình trọng lực với các hiệu ứng tương tác giữa các quốc gia cho thấy rằng không phải tất cả các quốc gia đều có hiệu quả như nhau trong việc thúc đẩy đầu tư. Kết quả của mơ hình được sử dụng để xác định hai nhóm: các cơ quan khuyến khích đầu tư có hiệu suất cao (những cơ quan có tác động tích cực, đáng kể đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài) và đầu tư khác các cơ quan xúc tiến (những người có ảnh hưởng không đáng kể hoặc tiêu cực tác dụng đáng kể). Sử dụng t-tests, nghiên cứu xem xét đặc điểm cơ quan xúc tiến đầu tư đáng kể khác nhau giữa hai nhóm. Những phát hiện cho thấy rằng các cơ quan xúc tiến đầu tư hiệu quả có nhiều khả năng là các cơ quan tư nhân hoặc bán tư nhân. Nhiệm vụ của họ có xu hướng tập trung thu hẹp vào đầu tư nước ngoài và loại trừ trách nhiệm xúc tiến đầu tư trong nước. Cuối cùng, xúc tiến đầu tư hiệu quả cao các cơ quan có xu hướng cung cấp nhiều dịch vụ cho nhà đầu tư hơn, một phần bởi thu hút các hệ thống
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">phân tích theo ngành, thông minh và áp dụng cho xác định các khiếu nại hoặc tranh chấp của nhà đầu tư
Theo WAIPA (2018) trong bài nghiên cứu “Overview of Investment Promotion: Report of the Findings from the WAIPA Annual Survey of 2018” đã cung cấp những hiểu biết có giá trị về xúc tiến đầu tư, công việc hàng ngày của cơ quan xúc tiến đầu tư (IPA), tiêu chí đánh giá hiệu quả xúc tiến đầu tư. Đồng thời cũng cho thấy xu hướng ngày càng gia tăng trong cam kết của các chính phủ đối với việc thúc đẩy quốc gia, thể hiện tầm quan trọng ngày càng tăng của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế tổng thể và sự cạnh tranh đáng kể giữa các địa điểm.. Tuy nhiên các tiêu chí đánh giá hiệu quả xúc tiến đầu tư chưa được rõ ràng và không có thang đo đánh giá mức độ hiệu quả xúc tiến đầu tư. Bởi vì một trong những thách thức chính của IPA là tìm ra hệ thống thích hợp để đánh giá hiệu quả hoạt động của nó. Các quyết định đầu tư bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khiến việc xác định mức độ đóng góp của IPA vào dòng vốn FDI là vơ cùng khó khăn.
Theo Morisset, J., & Andrews-Johnson, K (2004) với bài nghiên cứu “The effectiveness of promotion agencies at attracting foreign direct investment (Vol. 16)” đã xem xét tính hiệu quả của IPA xét về mối liên hệ giữa chi phí đầu tư và FDI. Nó nhằm mục đích nắm bắt các xu hướng và dừng việc phân tích chi phí-lợi ích chi tiết cần thiết để đánh giá đầy đủ hiệu quả của IPA. Tài liệu này đã cho thấy rằng, nhìn chung, chi tiêu của IPA có mối tương quan tích cực với việc thu hút FDI, cùng với ảnh hưởng của các yếu tố chính như chất lượng môi trường đầu tư và quy mô thị trường của quốc gia. Tuy nhiên, để xúc tiến có mối tương quan tích cực với FDI thì cần phải có đủ điều kiện, nếu không sẽ bị phản tác dụng. Chính vì vậy, các nhà hoạch định chính sách nên tập trung nỗ lực cải thiện các nền tảng cơ bản của đất nước thay vì chi tiêu các nguồn lực, cả tài chính và con người, vào việc thúc đẩy đầu tư khi những nền tảng này không phù hợp hoặc khác xa với các tiêu chuẩn quốc tế. Nghiên cứu còn cung cấp một số hướng dẫn cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý của các cơ quan xúc tiến đầu tư, những người quan tâm đến việc tìm hiểu các điều kiện cả bên ngoài và bên trong của các cơ quan xúc tiến đầu tư và cung cấp các thơng tin hữu ích cho việc xúc tiến đầu tư. Tuy nhiên cũng giống với nghiên cứu trên các tiêu chí đánh giá hiệu quả xúc tiến đầu tư chưa được rõ ràng, khơng có thang đo đánh giá mức độ hiệu quả xúc tiến đầu tư. Cách tiếp cận thực nghiệm còn hạn chế.
Theo DAF Pamela, D. U. F. F. I. N. (2021) trong bài nghiên cứu “Investment Promotion and the Digital Economy: a Comparative Analysis of Investment Promotion Practice” đã đề cập đến việc nền kinh tế kỹ thuật số có tác động sâu sắc đến bối cảnh kinh tế tồn cầu. Có thể nhận thấy được rằng, nền kinh tế kỹ thuật số tạo ra những cơ hội mới cho tăng trưởng và thịnh vượng, nhưng cũng kéo theo những thách thức đối với nhiều cộng đồng chính sách, bao gồm cả cộng đồng đầu tư quốc tế. Vì FDI có thể là động lực chính cho tăng trưởng và chuyển đổi kỹ thuật số nên IPA đang ngày càng
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">tìm cách thu hút các công ty hoạt động trong các lĩnh vực hoặc hoạt động kỹ thuật số. Đổi lại, IPA cũng cần phải trải qua quá trình số hóa của riêng mình để trở nên hiệu quả hơn và cải thiện hiệu suất của mình. Điều này khiến các hoạt động xúc tiến đầu tư cần phải ứng phó với những thách thức do công nghệ mới đặt ra và điều chỉnh các mơ hình kinh doanh mới. Mặc dù đã chỉ ra được vai trò, ảnh hưởng và hướng dẫn cách sử dụng các công cụ kỹ thuật số để thúc đẩy đầu tư. Nhưng nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như là ảnh hưởng của xúc tiến đầu tư với nền kinh tế kỹ thuật số chưa được nêu ra hết.
Theo World Bank. (2020) với bài nghiên cứu “Global Investment Competitiveness Report 2019/2020: Rebuilding Investor Confidence in Times of Uncertainty. The World Bank” được phát triển trong những tháng trước khi dịch Covid19 bùng phát. Bài báo cáo này tập trung nghiên cứu vào sự mơ hồ của chính sách thương mại và đầu tư do sự thay đổi chính sách toàn cầu. Bài nghiên cứu đã nhận thấy rằng sự bất ổn về chính sách đang ngày càng gia tăng khiến cho triển vọng về đầu tư nước ngoài giảm đi. Bên cạnh đó, chương cuối cùng của bài báo còn nêu rõ các ưu tiên của các cơ quan xúc tiến đầu tư và các bên liên quan khác đang tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh đầu tư của quốc gia mình. Tuy nhiên, các chính phủ cần tiếp tục cảnh giác về khả năng làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng thu nhập.
Sung- Hoon Lim (2008) với bài nghiên cứu “How investment promotion affects attracting foreign direct investment: Analytical argument and empirical analyses”. Bài báo này nghiên cứu cách chính phủ chủ nhà nỗ lực hoạt động quảng bá, thông qua việc thành lập IPA, có thể ảnh hưởng đến dòng vốn (FDI). Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng hiệu quả của việc quảng bá đầu tư, đo lường bằng tuổi đời của IPA, mức độ nhân viên ở nước ngoài trong IPA và số lượng nhân viên của IPA, đều ảnh hưởng tích cực đến sự thu hút của FDI. Từ kết quả, tác giả suy luận rằng việc tăng cường quảng bá đầu tư có thể là một công cụ để thu hút FDI thông qua tác động trung gian điều phối các yếu tố khác của FDI như kích thước thị trường, tăng trưởng thị trường và chi phí lao động thấp. Tuy nhiên trong việc đo lường hiệu quả của việc quảng bá IPA, bài nghiên cứu này không phản ánh tác động của các đặc điểm khác nhau của các hoạt động IPA như dịch vụ chăm sóc sau khi thực hiện và dịch vụ đề xuất chính sách cũng như cấu trúc IPA như chính phủ và/hoặc tự chủ. Nó cũng khơng thể hồn tồn khách quan vì nó phần nào dựa vào dữ liệu định lượng từ các câu hỏi phỏng vấn.
Harding, T., & Javorcik, B. S. (2012) với bài nghiên cứu “ Developing economies and international investors: Do investment promotion agencies bring them together? (Vol. 4339)”. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu mới thu thập về các IPA tại 109 quốc gia để xem xét tác động của xúc tiến đối với dòng vốn FDI. Kết quả nghiên cứu cho thấy nỗ lực xúc tiến đầu tư dường như tăng cường dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển. Hơn nữa, các đặc điểm của cơ quan, như thẩm quyền và cấu trúc của cơ quan, ảnh hưởng đến hiệu quả của việc quảng bá đầu
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">tư. Cũng có bằng chứng về việc chuyển hướng của FDI do các ưu đãi đầu tư được cung cấp bởi các quốc gia khác trong cùng khu vực địa lý.
Sung- Hoon Lim (2017) với nghiên cứu “Determinants of the Performance of Investment Promotion Agencies: Evidence from a Mix of Emerging Economies Finance and Trade” tranh luận về việc cơ quan quảng bá đầu tư (IPA) có ảnh hưởng hiệu quả đến việc quảng bá đầu tư trong các biến được lựa chọn sau: tài nguyên (kinh nghiệm, tổng số nhân viên và nhân viên ở nước ngoài), chức năng dịch vụ (dịch vụ quảng bá kết hợp của đầu tư vào và thương mại, và đầu tư vào và ra), và cấu trúc tổ chức (tình trạng tự trị của các IPA tư nhân/cấp trên). Kết quả nghiên cứu cho thấy một mối quan hệ tích cực giữa hiệu quả của cơ quan xúc tiến đầu tư (IPA) và kinh nghiệm lâu dài, số lượng nhân viên lớn, số lượng nhân viên nước ngoài lớn, loại hình cơ quan tư nhân tự trị và cấp trên của cơ quan quản lý. Kết quả nghiên cứu đưa ra hướng đi rằng hiệu suất của một IPA có thể được cải thiện bằng cách điều chỉnh các chức năng dịch vụ và cải cách cơ cấu quản lý, cùng việc nâng cao nguồn lực của IPA và môi trường đầu tư của đất nước.
Morisset, J. (2003) trong bài nghiên cứu “Does a country need a promotion agency to attract foreign direct investment?”: A small analytical model applied to 58 countries (Vol. 3028).” dựa trên số liệu từ cuộc khảo sát mới trên 58 quốc gia, tác giả cho thấy rằng việc tăng cường xúc tiến đầu tư liên quan trực tiếp đến lượng vốn FDI vào quốc gia, bên cạnh tác động của môi trường đầu tư và quy mô thị trường của quốc gia. Kết quả của nghiên cứu cho thấy: Đầu tiên, hiệu quả của cơ quan phụ thuộc vào môi trường kinh doanh của đất nước mà nó hoạt động. (Một cơ quan trong một môi trường đầu tư kém hiệu quả sẽ ít hiệu quả trong việc thu hút đầu tư). Thứ hai, phạm vi hoạt động mà một cơ quan thực hiện ảnh hưởng đến hiệu suất của nó.
(Phân tích kinh nghiệm cho thấy rằng các cơ quan dành nhiều nguồn lực cho việc thúc đẩy chính sách sẽ hiệu quả hơn vì hoạt động này khơng chỉ có lợi cho các nhà đầu tư nước ngồi mà cịn có lợi cho các nhà đầu tư trong nước). Cuối cùng, một số đặc điểm nội bộ của các IPA liên quan đến hiệu quả lớn hơn.
<b> 1.3. Mục tiêu nghiên cứu </b>
● Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xúc tiến đầu tư
● Đánh giá hiện tượng xúc tiến đầu tư nước ngoài tại thành phố Hà Nội
● Nghiên cứu các hoạt động ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến đầu tư tại Hà Nội ● Đưa ra được cái giải pháp, các đề xuất cho cơ quan xúc tiến đầu tư thực hiện
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Hà Nội
<b> 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu </b>
Hoạt động xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hà Nội
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><b> 1.4.2. Khách thể nghiên cứu </b>
Trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch thành phố Hà Nội
<b> 1.4.3. Phạm vi nghiên cứu </b>
<b> Phạm vi không gian : Đề tài tiến hành tìm hiểu, thu thập thơng tin và phân tích </b>
các thông tin liên quan đến các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phạm vi con người: Vì hoạt động đầu tư chỉ dựa trên quyết định của các nhân lực cấp cao, nên giới hạn nghiên cứu chỉ dừng lại ở những người làm về xúc tiến đầu tư nước ngoài tại cơ quan xúc tiến đầu tư tại Hà Nội.
<b> Phạm vi thời gian: 01/09/2023 - 30/01/2024 </b>
<b> Nội dung nghiên cứu : Tìm hiểu và phân tích thực trạng của hoạt động xúc tiến </b>
đầu tư nước ngoài hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội.
<b> 1.5. Phương pháp nghiên cứu </b>
Nhóm sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể gồm:
<i><b> - Phương pháp quan sát </b></i>
Quan sát là một phương pháp thu thập dữ liệu đơn giản dễ thực hiện nhưng rất hữu ích, vì khơng có câu hỏi hay câu trả lời như thường lệ. Bốn thành viên của nhóm chia nhau đi tìm kiếm và quan sát tại kênh truyền thơng chính thống khác nhau để quan sát và ghi chép các thông tin về hiện trạng của hoạt động xúc tiến đầu tư hiện nay.
Ngoài ra, nhóm tiến hành tìm kiếm, quan sát và ghi lại những ý kiến của các Nhà đầu tư tại địa bàn Thành phố Hà Nội
<i><b> - Phỏng vấn sâu </b></i>
Buổi phỏng vấn sâu được tiến hành bởi các thành viên trong nhóm và các Trung tâm thực hiện hoạt động Xúc tiến Đầu tư chính tại địa bàn Thành phố Hà Nội. Nhóm trưởng giữ nhiệm vụ điều khiển và hướng dẫn thảo luận nhóm theo các chủ đề. Ba thành viên khác của nhóm được phân công ghi chép lại tất cả các ý kiến trong quá trình diễn ra. Các thành viên tự do đưa ra ý kiến của mình và tất cả các ý
kiến đều được ghi chép lại. Sau khi buổi phỏng vấn kết thúc, nhóm trưởng tổng hợp lại tất cả các thông tin được tất cả các thành viên trong nhóm chấp nhận.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><b> CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ CỦA MỘT ĐỊA PHƯƠNG 2.1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
<b> 2.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế giữa các quốc gia, đồng thời là một khái niệm quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, việc định nghĩa FDI có nhiều sự khác biệt, gây ra khó khăn trong việc thống kê, đánh giá và so sánh dữ liệu giữa các quốc gia. Theo OECD và IMF, FDI được định nghĩa là một loại hình đầu tư xuyên biên giới trong đó một nhà đầu tư cư trú tại một nền kinh tế thiết lập mối quan tâm lâu dài và ảnh hưởng đáng kể đối với một doanh nghiệp cư trú ở nền kinh tế khác. Trong khi đó, theo UNCTAD, FDI được định nghĩa là khoản đầu tư phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một doanh nghiệp cư trú ở nền kinh tế khác.
Ở góc nhìn của Việt Nam, FDI có nghĩa là việc một tổ chức hoặc cá nhân từ một quốc gia đầu tư tiền, tài sản, hoặc nguồn lực khác vào một quốc gia khác để tham gia vào hoạt động kinh doanh trong quốc gia đó. Đây có thể là thơng qua thành lập doanh nghiệp mới, góp vốn, mua cổ phần, hoặc mua, thuê tài sản gắn liền với đất để kinh doanh, như quy định trong Luật Đầu tư 2020 của Việt Nam.
Tóm lại, FDI có thể được định nghĩa là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư từ một quốc gia đầu tư vốn cho một dự án ở quốc gia khác nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm sốt dự án đó, với mục đích tạo ra lợi ích lâu dài. Định nghĩa này có thể khác biệt tùy thuộc vào ngữ cảnh và quy định của từng quốc gia.
<b> 2.1.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
Nghiên cứu về Đầu tư Nước ngoài của Wells và đồng nghiệp (1990) và các cơng trình tiếp theo của Morisset và Andrews-Johnson (2004) cũng như Sung-Hoon Lim (2008) đã làm sáng tỏ nhiều khía cạnh quan trọng trong quá trình thu hút và quản lý FDI. Đầu tiên, FDI không chỉ là việc chuyển giao vốn và công nghệ qua biên giới quốc gia, mà còn tạo ra kết nối tài chính, văn hóa, và kiến thức giữa các quốc gia. Sự chuyển giao này không chỉ mang lại lợi ích ngắn hạn mà còn thay đổi bản chất của nền kinh tế đón nhận FDI. Thứ hai, tính lâu dài của FDI không chỉ là một đặc điểm phổ quát mà là quyết định sự bền vững của mối quan hệ đầu tư. Đối với FDI, sự cam kết lâu dài và chiến lược phát triển kéo dài theo thời gian là chìa khóa quan trọng. Điều
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">này làm nổi bật rằng FDI không chỉ là cuộc chơi ngắn hạn, mà là một mối liên kết dài hạn tương tác sâu rộng trong cộng đồng kinh doanh. Thứ ba, quyền lực và quản lý trong mối quan hệ FDI đặt ra câu hỏi về quyền lực và quyết định. Nhà đầu tư nước ngồi khơng chỉ cung cấp vốn mà cịn đóng góp tích cực vào quản lý và phát triển doanh nghiệp địa phương, tạo ra một đối thoại và hợp tác sâu sắc, ổn định và bền vững. Thứ tư, tác động của FDI đối với nền kinh tế chủ nhà không chỉ giới hạn ở mức độ tài chính. FDI giúp giải quyết vấn đề thiếu hụt vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, sự xuất hiện của FDI cũng có thể tạo ra thách thức như cạnh tranh không công bằng và áp lực giảm lương.
Tóm lại, FDI khơng chỉ là sự di chuyển của vốn tài chính mà là một động lực, ảnh hưởng sâu sắc đến cấu trúc và phát triển kinh tế. Điều này đặt ra những thách thức và cơ hội, đồng thời làm nổi bật vai trò quan trọng của quản lý FDI trong việc định hình hành vi và kết quả của quốc gia đón nhận FDI.
<b> 2.1.3. Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
OECD đã nhận định rằng: “FDI là yếu tố then chốt trong hội nhập kinh tế quốc tế vì nó tạo ra sự liên kết ổn định và lâu dài giữa các nền kinh tế. FDI là kênh quan trọng để chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia, thúc đẩy thương mại quốc tế thông qua tiếp cận thị trường nước ngoài và có thể là phương tiện quan trọng để phát triển kinh tế.” Theo nghiên cứu “The role of foreign direct investments (FDI) in development and grow in OIC country” FDI được coi là một tác nhân tăng trưởng kinh tế hoặc là một chức năng của sự tăng trưởng thông qua việc tạo ra và chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và liên kết với thị trường thế giới. Không chỉ vậy, FDI còn tốt cho việc phát triển bền vững. Bên cạnh đó, cũng có một số nhận định về vai trò của FDI là thúc đẩy phát triển kinh tế. Khi đây là nguồn thu ngoại tệ chính cũng như nguồn thu cao hơn của một quốc gia. Nó thường dẫn đến việc thành lập các nhà máy tại quốc gia đầu tư, với một số thiết bị địa phương - dù là vật liệu hay lao động - được sử dụng.
Nhìn chung, từ các nhận định trên ta có thể thấy được rằng FDI có vai trị to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các quốc gia. Bao gồm cả các nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Để khái quát lại thì ta có thể chia như sau:
<i><b> Đối với các quốc gia đầu tư: </b></i>
Theo Wells & Wints (2000) cho rằng FDI với khả năng mở rộng cả quy mô thị trường và phạm vi khách hàng, đóng vai trị to lớn trong việc nâng cao hiệu suất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhờ vào FDI, các nhà đầu tư là các doanh nghiệp có thể vượt qua những rào cản thương mại, tận dụng mạng lưới phân phối và kênh bán hàng của nhà đầu tư nước ngoài để tiếp cận khách hàng một cách hiệu quả. Việc sản xuất tại nước nhận đầu tư cũng giúp tránh được các rào cản thương mại và còn đem lại ưu đãi
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">thuế, từ đó giảm chi phí sản xuất và tăng cường khả năng cạnh tranh. Không chỉ vậy, tác giả tiếp tục nhấn mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài, hay FDI, đóng vai trị khơng thể phủ nhận trong việc cung cấp quốc gia sở tại các nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào quốc gia sở tại không chỉ mở ra cánh cửa cho việc tiếp cận nguyên liệu thô, lao động, và cơ sở hạ tầng quan trọng mà còn giúp giảm thiểu chi phí đồng thời giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung từ nước nội. FDI không chỉ là nguồn vốn mà còn là chìa khóa mở ra khả năng giảm chi phí sản xuất. Doanh nghiệp có thể hưởng lợi từ chi phí lao động thấp hơn, giảm thuế, và các ưu đãi khác mà quốc gia nhận đầu tư cung cấp. Sự giảm chi phí này không chỉ giúp tăng cường tài chính cho các doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện.
Bằng cách đầu tư vào thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp có thể giảm thiểu rủi ro và đa dạng hóa nguồn thu nhập. Việc mở rộng sang thị trường mới mang lại cơ hội tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận, từ đó giúp giảm thiểu rủi ro do biến động thị trường nội địa. FDI không chỉ là sự chuyển đổi về vốn mà còn là chiến lược đối với doanh nghiệp để thích ứng và phát triển trong mơi trường kinh doanh tồn cầu ngày nay.
<i><b> Đối với quốc gia nhận đầu tư: </b></i>
Wells & Wints (2000) nhấn mạnh rằng FDI không chỉ là phương tiện chuyển vốn mà còn là một động lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, mang lại lợi ích đa chiều cho doanh nghiệp đầu tư và quốc gia nhận đầu tư. Doanh nghiệp nước ngoài, trong quá trình đầu tư vào quốc gia sở tại, không chỉ tạo ra việc làm mới mà còn thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và sản xuất, góp phần vào sự tăng trưởng của GDP. Morisset và Andrews-Johnson (2004) tiếp tục phân tích rằng đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng như công nghệ, sản xuất, và dịch vụ không chỉ nâng cao năng suất lao động mà còn cải thiện chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Các doanh nghiệp nước ngồi cịn đóng góp vào xây dựng cơ sở hạ tầng mới, bao gồm nhà máy, nhà máy điện, và mạng lưới giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế của quốc gia sở tại. Cơ sở hạ tầng hiện đại không chỉ thu hút nhà đầu tư nước ngồi mà cịn có ảnh hưởng tích cực đến môi trường đầu tư, chất lượng cuộc sống của cộng đồng, và thậm chí thúc đẩy ngành du lịch. Thực tế cho thấy FDI không chỉ tạo ra việc làm mới trực tiếp tại các doanh nghiệp được đầu tư mà còn ảnh hưởng gián tiếp đến các ngành công nghiệp hỗ trợ, giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn và ven biển. Chuyển giao công nghệ không chỉ là sự chuyển đổi về cơng nghệ mà cịn là nguồn động viên cho sự đổi mới sáng tạo và nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của quốc gia. Thu nhập từ lợi nhuận của doanh nghiệp FDI, thuế thu nhập cá nhân và các khoản phí khác cũng là nguồn quan trọng để hỗ trợ giáo dục, y tế, an ninh,
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">và phát triển cơ sở hạ tầng, đảm bảo sự phát triển bền vững cho cả quốc gia và nhà đầu tư.
<b> 2.2. Tổng quan về xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương 2.2.1. Khái niệm, đặc điểm xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
Xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư quốc tế vào một quốc gia hoặc khu vực nhất định. Có nhiều quan điểm khác nhau về xúc tiến này, nhưng chúng đều nhấn mạnh vào mục tiêu chung là tạo ra lợi ích kinh tế, bao gồm gia tăng việc làm, doanh thu, xuất khẩu và các lợi ích khác cho quốc gia đón nhận. Tổ chức SRI International (2015) định nghĩa xúc tiến đầu tư nước ngoài là tập hợp các hoạt động nhằm khuyến khích các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp mới mở rộng kinh doanh sản xuất tại nước đích, với mục tiêu cuối cùng là tăng cường các chỉ tiêu kinh tế. PWC (2013), trong bài nghiên cứu về "Chiến lược xúc tiến FDI tại Việt Nam", đưa ra quan điểm rằng xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài là một chuỗi biện pháp thu hút vốn đầu tư thông qua các chiến lược tiếp thị, xúc tiến và quản lý giá cả. Điều này nhấn mạnh vào việc tiếp cận và thu hút các nhà đầu tư, cũng như cung cấp môi trường đầu tư thuận lợi. Trong khi đó, Wells và Wint (2000) đề cập đến việc xúc tiến đầu tư nước ngoài là các hoạt động tiếp thị được thực hiện bởi chính phủ hoặc các tổ chức nhằm thu hút các nhà đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Từ các quan điểm trên, có thể thấy rằng xúc tiến đầu tư nước ngồi khơng chỉ là việc thu hút mà cịn là việc duy trì vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời đóng vai trị quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia. Để thực hiện thành công hoạt động này, sự hợp tác giữa chính phủ, các tổ chức và các nhà đầu tư là cần thiết.
<b> 2.2.2. Vai trò xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
Hoạt động xúc tiến đầu tư có vai trị rất lớn trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia hay địa phương, cụ thể như sau:
<i><b> Góp phần cải thiện hình ảnh quốc gia/địa phương đối với cộng đồng đầu tư </b></i>
Hoạt động xúc tiến đầu tư đóng vai trị quan trọng trong việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh và cung cấp thông tin về môi trường và chính sách đầu tư của một địa phương. Việc xây dựng chiến dịch để tạo ra hình ảnh và thương hiệu quốc gia có thể giúp cải thiện đánh giá của nhà đầu tư về sự hấp dẫn của quốc gia hoặc địa phương đó. Hình ảnh quốc gia được hiểu là tổng hợp niềm tin và ấn tượng mà nhà đầu tư nhớ về một địa điểm hoặc quốc gia cụ thể. Đây là một bức tranh tổng thể về các khía cạnh của đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa-xã hội của nước đó. Mỗi quốc gia hoặc địa phương có thể xây dựng một "thương hiệu" riêng dựa trên các điểm mạnh của mình,
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">và việc quảng bá hình ảnh quốc gia là một kênh quan trọng để thu hút đầu tư. Bằng cách này, ấn tượng tích cực về một địa phương có thể thúc đẩy quyết định của nhà đầu tư chọn nó làm đích đến đầu tư hoặc hợp tác. Ngoài ra, hoạt động này cịn có thể thay đổi nhận thức, phá vỡ định kiến truyền thống và xây dựng niềm tin trong cả quan hệ quốc tế và tâm trí của những nhà đầu tư, mà niềm tin đó lại là nền tảng của mọi mối quan hệ.
<i><b> Góp phần cải thiện mơi trường đầu tư </b></i>
Hoạt động xúc tiến đầu tư đóng vai trị quan trọng trong việc nâng cao môi trường đầu tư của địa phương thông qua việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho cả những nhà đầu tư tiềm năng và những nhà đầu tư hiện tại. Các cơ quan xúc tiến đầu tư không chỉ là nơi kết nối giữa doanh nghiệp và địa phương mà còn là kênh truyền đạt thông tin quan trọng. Bằng cách thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư, chính phủ và chính quyền địa phương có thể thu thập thông tin về những thuận lợi và thách thức mà các nhà đầu tư đối mặt. Điều này giúp họ hiểu rõ mong muốn của nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư tại địa phương. Kết quả là, chính phủ và chính quyền có thể điều chỉnh chính sách để đáp ứng nhu cầu cụ thể, chẳng hạn như cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm bớt các thủ tục hành chính khơng cần thiết, và nhiều biện pháp khác.
<i><b> Giảm sự bất cân xứng thông tin </b></i>
Hoạt động xúc tiến đầu tư trực tiếp từ nước ngồi có thể ảnh hưởng đến mức đầu tư từ nước ngoài chủ yếu vì các cơng ty thường phải đối mặt với thơng tin khơng hồn hảo về các địa điểm đầu tư trên toàn cầu. Điều này bao gồm sự thiếu sót thơng tin hoặc thơng tin khơng chính xác. Khi xem xét các địa điểm mới để đầu tư, các công ty thường phải dựa vào những nguồn thông tin như kinh nghiệm trước đó, sự hiện diện của đối thủ cạnh tranh, khách hàng lớn, đánh giá tích cực từ các bảng xếp hạng và tin đồn tích cực trong báo chí. Mặc dù có sự quan tâm gia tăng đối với việc đầu tư vào các thị trường mới nổi, nhưng nhiều công ty lại thiếu kinh nghiệm hoặc nhận thức về cơ hội kinh doanh cụ thể tại những khu vực mới trên thế giới. Thông tin khơng hồn hảo của các công ty cũng dẫn đến quá trình ra quyết định thiên lệch và chủ quan. Theo Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), "Hầu hết các công ty chỉ xem xét một số lượng nhỏ các địa điểm đầu tư tiềm năng". Tương tự, các công ty tư vấn đầu tư thường tránh giới thiệu những địa phương có rủi ro, dẫn đến việc giảm phạm vi địa phương mà nhà đầu tư có thể xem xét để đầu tư. Do đó, việc tăng cường thơng tin và nhận thức về các địa phương sẽ tạo ra cơ hội đầu tư cả từ nước ngoài và trong nước. Quan trọng hơn, xúc tiến đầu tư không chỉ nhằm thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngồi mà cịn hướng đến việc thu hút đầu tư trong nước, đặc biệt là thông qua việc hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước đang xem xét các vùng khác trong cùng một quốc gia.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><i><b> Giúp địa phương khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế sẵn có để thu hút đầu tư </b></i>
Hầu hết các quốc gia đều thành lập các cơ quan xúc tiến đầu tư chuyên nghiệp nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư trong nước. Tại cấp địa phương (tỉnh, thành phố), vai trò của xúc tiến đầu tư trở nên đặc biệt quan trọng, bởi vì nó mang lại những lợi ích và giá trị gia tăng cao hơn từ các hoạt động của Tổ chức Xúc tiến Đầu tư quốc gia. Các địa phương tham gia vào xúc tiến đầu tư mang lại một số lợi ích chính, phối hợp với những nỗ lực quốc gia.
<i><b> Mục tiêu Phát triển Kinh tế Đa dạng </b></i>
Mỗi địa phương có những lợi thế cạnh tranh và mục tiêu phát triển kinh tế riêng, và chúng hiểu rõ nhất về những đặc thù đó. Điều này có thể khơng ln phản ánh đúng với mục tiêu của Tổ chức Xúc tiến Đầu tư quốc gia, chúng thường chỉ tập trung vào những lĩnh vực mà quốc gia nói chung có khả năng cạnh tranh mạnh nhất và tiềm năng thu hút đầu tư nước ngồi.
<i><b> Cơ Hội Đầu Tư Riêng </b></i>
Có thể xuất hiện cơ hội đầu tư đặc biệt trong từng địa phương, là những cơ hội mà không nằm trong tầm tập trung chính của Tổ chức Xúc tiến Đầu tư quốc gia. Địa phương có thể quảng bá những cơ hội này một cách hiệu quả cho các nhà đầu tư.
<i><b> Hiểu Biết Sâu Sắc Về Địa Phương </b></i>
Cơ quan Xúc tiến Đầu tư địa phương, do nằm ngay tại địa phương và tập trung duy nhất vào nó, sẽ hiểu rõ hơn về điểm mạnh và điểm yếu của địa phương so với Tổ chức Xúc tiến Đầu tư quốc gia.
<i><b> Tạo Điều Kiện Thuận Lợi Đầu Tư Tại Địa Phương </b></i>
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, địa phương phải có khả năng hiểu rõ môi trường đầu tư tại địa phương và hỗ trợ từ những quyết định địa phương. Các Tổ chức Xúc tiến Đầu tư địa phương thường nỗ lực để hiểu tất cả các quy trình địa phương và gần gũi với người ra quyết định địa phương, giúp họ có thể hỗ trợ thông tin cần thiết và kết nối với lãnh đạo địa phương.
<i><b> Thu Hút Đầu Tư Trong Nước </b></i>
Đối với nhiều địa phương, việc thu hút đầu tư trong nước không kém cạnh so với việc thu hút đầu tư nước ngoài. Các nguyên tắc và kỹ thuật thu hút đầu tư nước ngồi có thể được áp dụng để thu hút đầu tư trong nước, và Tổ chức Xúc tiến Đầu tư địa phương có thể định rõ triển vọng và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư từ các công ty trong nước, góp phần mạnh mẽ vào sự phát triển kinh tế xã hội địa phương. Hoạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">động xúc tiến đầu tư đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến mức độ thu hút Vốn Đầu tư Nước ngoài (FDI). Nghiên cứu của Louis T. Wells và Alvin G. Wint (2000) đã chỉ ra rằng việc tăng 10% ngân sách cho xúc tiến đầu tư có thể dẫn đến sự gia tăng 2,5% trong vốn FDI. Nguyên nhân của mối quan hệ và tác động của hoạt động Tổ chức Xúc tiến Đầu tư (IPA) đối với dòng vốn FDI có thể được tìm thấy trong sự bất cân xứng thông tin mà các nhà đầu tư nước ngoài thường phải đối mặt khi tham gia vào một thị trường mới. Thông tin và sự hỗ trợ mà IPA cung cấp có thể ảnh hưởng tích cực đến quá trình đưa ra quyết định lựa chọn địa điểm của các dự án FDI có giá trị cao.
Để thấy được tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư, có thể điểm qua một trường hợp được nghiên cứu và đưa ra bởi Henry Loewendahl và Ebru Ertugal-Loewendahl (2000) trong “Turkey’s performance in attracting foreign direct investment” về khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ.
<b> Thổ Nhĩ Kỳ và thu hút vốn FDI: Tầm quan trọng của xúc tiến đầu tư </b>
Mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ có nền kinh tế quy mô và thị trường năng động, đồng thời được hỗ trợ bởi lực lượng lao động chất lượng, luật và ưu đãi FDI tự do, cùng với Hiệp định Liên minh thuế quan với Liên minh Châu Âu, nhưng việc thu hút FDI của nước này lại gặp khó khăn và khơng hiệu quả. Trong giai đoạn 1993-1999, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ thu hút gần 1/6 lượng FDI so với Ba Lan và gấp 1/13 lượng FDI so với Hungary, tính theo GDP. Nguyên nhân chính của sự kém hiệu quả này được đặt ra là do nguồn vốn FDI tư nhân ở mức thấp và mức lạm phát cao. Một cuộc khảo sát gần đây của 30 nhà đầu tư cũng chỉ ra rằng sự thiếu hụt thông tin và độ nhận diện kém được đánh giá là nguyên nhân thứ ba quan trọng, với 85% người được khảo sát cho rằng hoạt động xúc tiến đầu tư của Thổ Nhĩ Kỳ không hiệu quả. Điều này làm nổi bật sự yếu kém trong việc thu hút vốn FDI của Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh gia tăng về thu hút đầu tư. Các điểm yếu chính của hoạt động xúc tiến đầu tư ở Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm sự thiếu biệt lập của Cơ quan Xúc tiến Đầu tư Quốc gia (IPA) so với bộ máy hành chính, với thiếu thẩm quyền và ngân sách để thuê chuyên gia và thực hiện hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư. Hỗ trợ FDI không đồng thuận rộng rãi, với nhiều bộ phận trong Chính phủ cam kết hạn chế. Chiến lược xúc tiến đầu tư của Thổ Nhĩ Kỳ không rõ ràng và không tập trung vào lĩnh vực cụ thể, thiếu hiểu biết đầy đủ về vị thế cạnh tranh và khả năng xác định cũng như khai thác cơ hội thị trường. Đối với một quốc gia đa dạng và lớn như Thổ Nhĩ Kỳ, khơng có cơ quan khu vực để hỗ trợ hoạt động xúc tiến đầu tư, khiến cho việc quảng bá và tạo thuận lợi cho đầu tư trở nên khó khăn. Các hoạt động xúc tiến đầu tư thường tập trung vào hội nghị nhà đầu tư, không tập trung vào kinh doanh và thiếu sự tham gia của cộng đồng đầu tư. IPA ít chú trọng và thiếu khả năng thực hiện tiếp thị tập trung vào lĩnh vực hay mục tiêu cụ thể. Kết luận từ các điều trên được phản ánh qua trang web thu hút đầu tư trong nước, mang lại trải nghiệm xấu
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">với các tính năng như khả năng truy cập chậm, thiếu thông tin về lĩnh vực hoặc khu vực, cung cấp điểm bán hàng khơng có dữ liệu xác minh và cập nhật mới nhất, cũng như thiếu thông tin về các nhà đầu tư hiện tại và sử dụng tiếng Anh kém. Vì vậy, khơng ngạc nhiên khi cuộc khảo sát cho thấy 60% người được hỏi cho rằng hình ảnh thương hiệu của Thổ Nhĩ Kỳ là tồi tệ, 70% muốn có thêm thông tin chung và 20% muốn thông tin chi tiết về các khác biệt khu vực. Hơn một nửa số người được hỏi cho rằng IPA của Thổ Nhĩ Kỳ cần phải cung cấp thông tin cụ thể liên quan đến nhà đầu tư. Thực tế, sau khi gia nhập Liên minh Châu Âu, việc cải thiện hoạt động xúc tiến đầu tư được coi là một phương tiện quan trọng để tăng cường FDI ở Thổ Nhĩ Kỳ.
<b> 2.2.3. Cơ quan xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương </b>
Sau khi tìm hiểu về bản chất của hoạt động xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài, câu hỏi quan trọng đặt ra là: Hoạt động xúc tiến đầu tư được thực hiện bởi cơ quan nào và liệu đặc điểm và vai trị của cơ quan đó sẽ như thế nào?
<b> 2.2.3.1. Bản chất của cơ quan xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương </b>
Theo quy định của Điều 91 trong Nghị định 31/2021/NĐ-CP, cơ quan xúc tiến đầu tư tại các cấp độ địa phương được phân chia và quản lý như sau: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đảm nhận vai trị chính trong việc quản lý hoạt động xúc tiến đầu tư của Chính phủ trên toàn quốc. Các bộ, ngành sẽ được phân công đầu mối thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư theo từng lĩnh vực và ngành nghề thuộc thẩm quyền của họ. Ở cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý các hoạt động xúc tiến đầu tư tại địa phương. Tùy thuộc vào nhu cầu và điều kiện cụ thể của từng địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể thành lập các cơ quan hoặc bộ phận xúc tiến đầu tư trong tổ chức của mình, và họ có trách nhiệm bố trí cơ sở vật chất, biên chế, kinh phí cho các hoạt động này. Trong thực tế, hoạt động xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài thường do các tổ chức chính phủ có chun mơn trong lĩnh vực này thực hiện. Các tổ chức như Cơ quan Xúc tiến Đầu tư Quốc gia hoặc Cơ quan Xúc tiến Thương mại và Đầu tư thường được giao nhiệm vụ này. Tương tự, ở mỗi địa phương, khi có nhu cầu thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngồi, sẽ có các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương, được quản lý và hướng dẫn bởi Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đó là những cơ quan có trách nhiệm tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài tại địa phương.
<b> 2.2.3.2. Đặc điểm, hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương </b>
Theo quy định của Điều 89 Nghị định 31/2021/NĐ-CP, các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương có nhiều hoạt động cần được thực hiện để thu hút và hỗ trợ nhà đầu tư. Các hoạt động này bao gồm việc thu thập, tổng hợp thông tin, nghiên cứu xây dựng
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">đề án, báo cáo và xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động xúc tiến đầu tư. Ngoài ra, tổ chức các đoàn khảo sát, hội nghị, hội thảo và tọa đàm xúc tiến đầu tư cũng đóng vai trị quan trọng trong việc giới thiệu cơ hội đầu tư cho nhà đầu tư. Đồng thời, các cơ quan này còn tuyên truyền và quảng bá mơi trường đầu tư, chính sách và pháp luật liên quan đến đầu tư trên các phương tiện thông tin đại chúng. Họ cũng cung cấp thông tin và hướng dẫn về thủ tục đầu tư và các vấn đề hành chính liên quan. Cuối cùng, các cơ quan này tổng hợp đề xuất và kiến nghị của nhà đầu tư, hỗ trợ họ trong việc giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư và kinh doanh.
Bên cạnh đó, theo Điều 91 Nghị định 31/2021/NĐ-CP, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngồi sẽ có vai trị đầu mối trong hoạt động xúc tiến đầu tư tại nước ngoài. Điều này bao gồm việc quản lý đầu mối xúc tiến đầu tư, tổ chức đồn cơng tác, và đảm bảo sự hỗ trợ chuyên môn và chỉ đạo toàn diện từ cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng mối quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa địa phương, quốc gia và nhà đầu tư nước ngồi trong q trình thu hút và thúc đẩy hoạt động đầu tư.
<b> 2.2.3.3. Vai trò cơ quan xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương </b>
Trên lý thuyết, cơ quan xúc tiến đầu tư, dù là cơ quan tại địa phương hay có phạm vi quốc gia, đều thực hiện chung hoạt động xúc tiến đầu tư. Đương nhiên các cơ quan này cũng sẽ có vai trò gần như tương đương với vai trò của hoạt động xúc tiến đầu tư đối với kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, các cơ quan này đóng thêm những vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư. Cụ thể như sau:
<i><b> Đối với nhà đầu tư nước ngoài </b></i>
Trong hoạt động xúc tiến đầu tư, các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương đóng vai trò quan trọng như là một cầu nối giữa nhà đầu tư và địa phương. Đầu tư thường liên quan đến vốn lớn và có thời gian đầu tư dài hạn, vì vậy nó dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố không ổn định như thời tiết, xã hội, chính trị và kinh tế. Các cơ quan địa phương sẽ hỗ trợ nhà đầu tư trong việc đánh giá các khía cạnh của thị trường, từ kỹ thuật và tài chính đến điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội, cũng như các vấn đề pháp lý liên quan. Bên cạnh đó, các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương cịn cung cấp thơng tin về cơ hội đầu tư trong và ngoài nước, chính sách ưu đãi, thuế quan, trình độ nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên chưa khai thác và lợi ích dự kiến trong tương lai. Nhờ vào thông tin này, nhà đầu tư có thể đánh giá chính xác về sự quan trọng, tiềm năng và các ưu đãi mà chính phủ địa phương cung cấp, giúp họ tiết kiệm thời gian và chi phí, và dễ dàng hơn trong việc chọn lựa nơi đầu tư để đạt được hiệu suất cao nhất. Các cơ quan xúc tiến đầu tư cũng làm cầu nối giữa nhà đầu tư và địa phương, cung cấp
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">thông tin và hỗ trợ để nhà đầu tư vượt qua các khó khăn trong quá trình thực hiện dự án. Với sự hỗ trợ này, các địa phương có cơ quan xúc tiến đầu tư có thể thu hút những nhà đầu tư có tiềm năng nhanh chóng và hồn tất các thủ tục đầu tư một cách hiệu quả.
<i><b> Đối với địa phương được nhận đầu tư </b></i>
Trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương đóng vai trị quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh tích cực với nhà đầu tư quốc tế. Điều này giúp tạo ra ấn tượng về một địa phương giàu tiềm năng và sẵn sàng cung cấp những cơ hội đầu tư hấp dẫn, từ đó thu hút sự quan tâm và đầu tư từ phía các nhà đầu tư quốc tế. Nâng cao tính cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư nước ngồi địi hỏi sự hiểu biết và đánh giá đầy đủ từ phía nhà đầu tư. Mỗi địa phương, khu vực đều sở hữu những lợi thế so sánh riêng, và muốn chia sẻ và thúc đẩy sự hiểu biết về những ưu điểm này trong cộng đồng quốc tế. Vì vậy, cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư thực sự là cuộc đua trong lĩnh vực xúc tiến đầu tư. Các cơ quan thực hiện xúc tiến đầu tư không chỉ giúp địa phương hiểu rõ về những nhà đầu tư mà còn giúp họ tìm kiếm những đối tác tiềm năng. Bằng cách lựa chọn ngành và lĩnh vực mũi nhọn dựa trên nhu cầu và thực tế của địa phương, từ đó có thể chủ động định hình đối tượng mục tiêu cho hoạt động xúc tiến đầu tư. Điều này giúp tạo ra nhiều lựa chọn hợp tác với những nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận đầu tư với các thỏa thuận hợp lý.
Tóm lại, cơ quan hoạt động xúc tiến đầu tư không chỉ là một cơ quan thực hiện q trình thơng tin mà cịn là một cơng cụ quan trọng để xây dựng và duy trì mối quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa địa phương cũng như quốc gia và những nhà đầu tư nước ngoài.
<b> 2.3. Các nội dung hoạt động của xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
Ngày nay, vai trò của các nguồn vốn đầu tư nói chung và vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi nói riêng đã được nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới nhận thức rõ ràng. Vì vậy chính phủ các nước những năm gần đây ngày càng chú trọng vào việc xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư cho địa phương và các khu vực trọng điểm.
Nhận biết được tầm quan trọng của các hoạt động xúc tiến đầu tư trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhóm đã tìm hiểu và nghiên cứu nội dung và kinh nghiệm của các hoạt động xúc tiến tư được thực hiện trong và ngoài nước nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan nhất. Nội dung xúc tiến đầu tư được thống nhất chia thành bốn hoạt động chính được đề cập đến trong phần này: Xây dựng hình ảnh; Nhắm mục tiêu và vận động đầu tư trực tiếp; Dịch vụ cho nhà đầu tư; Vận dụng chính sách.
<b> 2.3.1: Xây dựng hình ảnh </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><b> Hiểu về xây dựng hình ảnh và mục đích hoạt động này: </b>
Xây dựng hình ảnh là hoạt động nhằm mục tiêu tạo nhận thức tích cực về một khu vực/địa phương như một điểm đến đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư tiềm năng, đồng thời sửa chữa những nhận thức sai lầm về những điểm yếu kém của địa phương đó. Nói cách khác, hoạt động xây dựng hình ảnh giúp tăng độ nhận diện của khu vực và đưa nó lên bản đồ những mơi trường đầu tư để được biết đến và nhân rộng.
Hoạt động xây dựng hình ảnh và tạo nguồn đầu tư đều có mục tiêu cuối cùng là thu hút thêm nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên mục tiêu trực tiếp của mỗi hoạt động lại khác nhau, và do đó, các hoạt động cụ thể bên trong của chúng cũng khác nhau (Wells và nnk.,1990). Mục tiêu của hoạt động xây dựng hình ảnh là giúp nâng cao nhận thức của các nhà đầu tư nói chung về môi trường đầu tư và cung cấp cho họ những thông tin chung cần thiết để các nhà đầu tư có thể tìm đến địa phương vào một thời điểm, với những điều kiện thích hợp trong tương lai.
<b> Hoạt động xây dựng hình ảnh gồm những tiêu chuẩn và kỹ thuật hoạt động bên trong: </b>
Có nhiều tài liệu trước đây đã tập trung nghiên cứu về việc xây dựng hình ảnh trong các hoạt động xúc tiến đầu tư và đã đề xuất một số kỹ thuật tiêu chuẩn. Trong cuốn sách "Marketing a country: promotion as a tool for attracting foreign investment" của Wells và đồng nghiệp (1990), đã chỉ ra ít nhất mười hai kỹ thuật xúc tiến khác nhau, trong đó có năm kỹ thuật được sử dụng cho việc xây dựng hình ảnh. Morisset và đồng nghiệp (2004) phân loại các hoạt động tiếp thị, xây dựng hình ảnh thành ba nhóm chính: quảng cáo, sản xuất tài liệu quảng cáo và tham gia vào các sự kiện như triễn lãm và hội nghị. Theo Henry (2001), các hoạt động tiếp thị, xây dựng hình ảnh nhằm nâng cao độ nhận diện bao gồm chiến dịch quan hệ công chúng, xây dựng các tài liệu quảng cáo, tham gia triển lãm đầu tư và hội nghị về cơ hội đầu tư, cũng như tạo website của cơ quan xúc tiến đầu tư. Bamutini (2019) cũng đề xuất một số hoạt động cơ bản của chiến dịch xây dựng hình ảnh bao gồm quảng cáo, tổ chức sự kiện, quan hệ truyền thông công chúng, tạo brochure và xây dựng website. Đây là những phương pháp cơ bản và hiệu quả để thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài và tạo ra một hình ảnh tích cực về quốc gia hoặc khu vực cụ thể đối với họ.
<b> - Kết luận về các kỹ thuật sử dụng trong hoạt động xây dựng hình ảnh: </b>
Như đã trình bày trên đây, nhóm đã đưa ra các nghiên cứu ở các mốc thời gian khác nhau trong giai đoạn 1990-2019, và có thể thấy được rằng, ở mỗi thời điểm, các kỹ thuật xây dựng hình ảnh trong hoạt động xúc tiến đầu tư có những sự khác nhau nhất định. Tổng kết lại, nhóm thống nhất đề xuất năm kỹ thuật chính được coi là đầy đủ và phù hợp nhất đối với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay:
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><i><b> Quảng cáo </b></i>
Các quốc gia hoặc địa phương tham gia quảng cáo vùng đất của họ như một điểm đến hấp dẫn đầu tư. Theo Wells và Wint (1990), các quốc gia có xu hướng quảng cáo trên các phương tiện truyền thông chuyên ngành hoặc lĩnh vực trọng điểm mà quốc gia/địa phương đang hướng tới. Các phương tiện truyền thơng phát sóng như truyền hình, TV là những ví dụ điển hình. Báo chí như tạp chí chuyên ngành và báo in cũng khá phổ biến. Ngoài ra, biển quảng cáo hay thước phim quảng cáo trên những chuyến bay hạng thương gia cũng là một ý kiến độc đáo.
<i><b> Sự kiện </b></i>
Sự kiện được nhóm nhắc tới bao gồm các quốc gia/địa phương tự tổ chức triển lãm đầu tư, hội thảo, hội chợ thương mại và hội nghị, nơi họ mời các nhà đầu tư tiềm năng và họ cũng tham dự các sự kiện do những bên khác tổ chức ở những nơi họ có thể nhắm mục tiêu đến các nhà đầu tư và trình bày cho họ các đề xuất đầu tư. Những sự kiện này thường được thiết kế để tạo ra sự tương tác với nhà đầu tư. Quốc gia/địa phương tổ chức các sự kiện về cơ hội đầu tư nhằm cung cấp thông tin, giới thiệu các nhà đầu tư tiềm năng với văn hóa địa phương và những khác biệt trong khu vực, xây dựng hình ảnh khu vực với các bên quan tâm. Họ cũng tham gia các triển lãm đầu tư do các bên khác tổ chức với mục đích chủ yếu là tạo mạng lưới và học hỏi cách thức hoạt động hiệu quả từ các cơ quan xúc tiến đầu tư khác trên thế giới và áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh của địa phương; đồng thời cũng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư mới.
<i><b> Xây dựng brochure và các tài liệu phục vụ xúc tiến đầu tư: </b></i>
Trong quá khứ, có nhiều phương tiện đã được sử dụng để xây dựng bộ tài liệu quảng bá hình ảnh khu vực đầu tư, bao gồm in brochure, newsletter, CD-ROM, tờ thông tin để phân phối tại hội nghị, đồn cơng tác đầu tư và website. Tuy nhiên, trong bối cảnh ngày nay, các hình thức phổ biến nhất là brochure, tờ in thông tin, cuốn cẩm nang đầu tư và video, bởi chúng mang lại sự tiện lợi và phù hợp với nhu cầu cập nhật thông tin của nhà đầu tư. Cuốn cẩm nang đầu tư là một tài liệu phổ biến được sử dụng trong các sự kiện đầu tư để trình bày thông tin về một quốc gia/địa phương và môi trường kinh tế đầu tư của nó. Nó khơng chỉ thông báo về các cơ hội đầu tư mà còn về lợi ích của các chính sách đầu tư. Cuốn cẩm nang này cung cấp nhiều thông tin hơn so với các phương tiện in ấn khác như tạp chí và báo chí dùng cho mục đích quảng cáo. Nó có thể được kết hợp với các công cụ truyền thông tiếp thị khác như phát trong các sự kiện, tiếp thị trực tuyến bằng brochure điện tử (website) và tập trung vào lĩnh vực hoặc ngành cụ thể.
Tờ thông tin (brochure) tập trung vào các ngành cụ thể và các công ty riêng lẻ, thường hiệu quả hơn trong việc thu hút sự quan tâm của các công ty, và được sử dụng hiệu quả hơn nguồn ngân sách hạn chế cho quảng bá đầu tư (UNCTAD, 1999).
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><i><b> Xây dựng website dành cho cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương </b></i>
Internet đã trở thành một xu hướng tất yếu. Do đó, điều bắt buộc đối với các khu vực đầu tư là họ phải có sự hiện diện trực tuyến và tham gia vào tiếp thị trực tuyến. Tiếp thị trực tuyến đơn giản là quảng bá hình ảnh, sản phẩm và dịch vụ của khu vực trên internet. Sử dụng internet để truyền đạt thông điệp quảng cáo đến đúng đối tượng mục tiêu. Trang web rất quan trọng trong giai đoạn tìm kiếm thơng tin trong quá trình ra quyết định của nhà đầu tư. Ngoài việc là nguồn thông tin, nó cịn là một dạng quảng cáo và brochure trực tuyến. Trang web đóng vai trò là điểm liên hệ đầu tiên của nhà đầu tư với cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương (IPA) (Ortega & Griffin, 2009) và hoạt động như một cổng thông tin nên được cập nhật và đáng tin cậy.
Website giúp nâng cao nhận thức và hình ảnh thương hiệu của cơ quan xúc tiến đầu tư, cung cấp thông tin, thu thập thông tin thị trường, giảm chi phí và thời gian cung cấp tài liệu tiếp thị và brochure.
Website cũng đang trở thành phương tiện quan trọng để thu hút khách hàng tiềm năng, đặc biệt là từ các công ty trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
<b> - Ngân sách dành cho hoạt động xây dựng hình ảnh. Bài học cho các địa phương làm xúc tiến đầu tư: </b>
Theo một cuộc khảo sát của Morisset và cộng sự (2004), họ thu thập thông tin để kiểm tra xem liệu những hạng mục nhỏ trong xây dựng hình ảnh có những ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả của xúc tiến đầu tư và kết quả cho thấy: trong khi chi phí liên quan đến thực hiện các chiến dịch quảng cáo thường rất cao nhưng lại khơng có sự liên kết đáng kể với lượng vào của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); ngược lại, hoạt động xây dựng bộ hồ sơ, tài liệu quảng cáo và các tổ chức các sự kiện lại có tác động đáng kể đến dòng vốn FDI.
Như vậy, các cơ quan địa phương thực hiện xúc tiến đầu tư không nên tham gia vào các chiến dịch quảng cáo quyết liệt và đắt đỏ mà thay vào đó tập trung vào việc sản xuất và phân phối tài liệu quảng cáo cũng như tham gia sự kiện, triển lãm, tổ chức hội thảo, hội nghị, đặc biệt là nếu cơ quan tiếp tục theo dõi các liên hệ ban đầu. Khơng có gì ngạc nhiên, việc xây dựng mạng lưới được xem như một trong những phẩm chất quan trọng của một IPA nói riêng và khu vực muốn thu hút đầu tư nói chung.
<b> 2.3.2 Nhắm mục tiêu và vận động đầu tư trực tiếp </b>
Song song với việc thực hiện các chiến dịch xây dựng và tổ chức các sự kiện, các cơ quan xúc tiến đầu tư cũng phải đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau để hoạt động một cách trơn tru và hiệu quả. Để thực hiện được tất cả các chức năng này một cách suôn sẻ và hiệu quả, các cơ quan cần phải có định hướng và kế hoạch hoạt động rõ ràng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Theo Nguyễn Ngọc Anh (2015) trong bài nghiên cứu về "Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng kinh tế trọng điểm miền Trung", việc thu hút FDI không chỉ đơn giản là làm cho một địa điểm đầu tư trở nên hấp dẫn, mà cịn là kích thích nhà đầu tư nước ngồi hình thành ý định và thực hiện quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư. Quá trình này khơng chỉ làm tăng dòng chảy FDI vào một địa phương mà còn thể hiện qua số lượng và giá trị FDI đăng ký và thực hiện. Từ đó, có thể kết luận rằng hoạt động nhắm mục tiêu và vận động FDI là quá trình nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến một quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Quá trình này bao gồm việc xác định các nhà đầu tư tiềm năng, hiểu nhu cầu và mong muốn của họ, cung cấp thông tin và hỗ trợ cần thiết để họ đưa ra quyết định đầu tư. Mặc dù các hoạt động này đã được thực hiện tại các cơ quan xúc tiến đầu tư ở Việt Nam và Thành phố Hà Nội theo như bài nghiên cứu đã đề cập, nhưng hiệu quả của chúng đối với một số tỉnh thành vẫn chưa được rõ ràng.
Ngoài ra, The Millennium Cities Initiative (MCI) - một dự án thuộc Viện Trái Đất của Đại học Columbia, trong bài viết “Target Investors and Generate Leads”, đã nhấn mạnh rằng nhắm mục tiêu vào các nhà đầu tư cụ thể có cơ hội thành công cao hơn so với các phương pháp thu hút đầu tư khác, đặc biệt khi có sự kết hợp tốt giữa nhu cầu của nhà đầu tư tiềm năng và thế mạnh của thành phố. Điều này đặt ra tầm quan trọng của việc xác định các công ty mục tiêu và sử dụng các nguồn lực như mạng lưới, doanh nghiệp hiện có, nhà môi giới, cộng đồng người hải ngoại, cơ sở dữ liệu, internet cũng như các tạp chí và trang web chuyên ngành để phát triển cơ sở dữ liệu hoặc bảng tính về các nhà đầu tư tiềm năng nhằm nhắm mục tiêu vào các lĩnh vực đã xác định. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là việc thực hiện hoạt động này đòi hỏi những nhân viên có kỹ năng đặc biệt và yêu cầu chi phí khá lớn.
Tuy hoạt động nhắm mục tiêu và vận động FDI là một hoạt động tương đối quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động khác, nhưng bản thân chức năng này vẫn chưa được các cơ quan xúc tiến đầu tư tại Việt Nam chú trọng đưa vào sử dụng, chủ yếu do tính đắt đỏ và yêu cầu cao đối với nhân viên phụ trách. Để triển khai hoạt động này một cách hiệu quả, cần đầu tư nhiều chi phí vào đào tạo nhân viên và chi trả lương cho họ, trong khi thu nhập từ hoạt động này thường thấp hơn so với các chức năng khác của hoạt động xúc tiến đầu tư.
<b> 2.3.3. Dịch vụ cho nhà đầu tư </b>
Trong nghiên cứu "Marketing a country: promotion as a tool for attracting foreign investment," Wells và đồng nghiệp (1990) đã làm rõ vai trò quan trọng của việc cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư trong chiến lược xúc tiến đầu tư. Họ nhấn mạnh đến việc tư vấn đầu tư và hỗ trợ giải quyết các vấn đề pháp lý tại địa phương là những yếu tố quan trọng trong dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư. Nghiên cứu của Sung-Hoon Lim là "Determinants of the Performance of Investment Promotion Agencies:
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Evidence from a Mix of Emerging Economies Finance and Trade" đã mở rộng quan điểm này, chỉ ra rằng dịch vụ đầu tư không chỉ giới hạn ở tư vấn và thủ tục pháp lý, mà còn bao gồm quản lý rủi ro, an ninh, và chính sách địa phương. Các cơ quan xúc tiến đã chứng minh khả năng cung cấp dịch vụ đa dạng hơn, mở ra một hướng nghiên cứu mới về vai trò của chúng trong việc thu hút và duy trì nhà đầu tư.
Tuy có quan điểm cho rằng dịch vụ đầu tư có ảnh hưởng quan trọng đến việc thu hút nguồn vốn mới nhưng trên thực tế rất khó để chứng minh điều này. Có ý kiến cho rằng hình ảnh và chiến lược tiếp cận mới của cơ quan xúc tiến sẽ là yếu tố chủ yếu thu hút nhà đầu tư mới hơn là các dịch vụ cho họ. Cuối cùng, nghiên cứu của Wells và đồng nghiệp cũng nhấn mạnh rằng quy trình lựa chọn đầu tư ít ảnh hưởng bởi dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư, và nhà đầu tư thường quyết định dựa trên hình ảnh được xây dựng và chiến lược tiếp cận của cơ quan xúc tiến, chứ không phải là dịch vụ cụ thể.
Dựa vào những nhận định từ nhiều nhà khoa học đi trước, ta có thấy rằng dịch vụ đầu tư đóng một vai trị không thể phủ nhận và quan trọng đối với hoạt động xúc tiến đầu tư hay hoạt động đầu tư, đương nhiên là đòn bẩy quyết định giữa sự thành công và thất bại trong việc quyết định đầu tư ở ngày nay. Trong bối cảnh ngày càng cạnh tranh và phức tạp của thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp và nhà đầu tư ngày càng cần sự hỗ trợ toàn diện để đưa ra những quyết định đầu tư chiến lược và hiệu quả. Một trong những vai trò quan trọng nhất của dịch vụ đầu tư chính là việc cung cấp thông tin chi tiết và nghiên cứu chất lượng. Việc này giúp nhà đầu tư hiểu rõ về bức tranh tổng thể của thị trường, từ đặc điểm nền kinh tế địa phương đến tiềm năng và rủi ro trong từng ngành công nghiệp cụ thể. Thơng tin này là chìa khóa để xây dựng chiến lược đầu tư vững chắc và linh hoạt. Dịch vụ đầu tư cũng đóng vai trò lớn trong việc tư vấn chiến lược đầu tư. Những chuyên gia trong lĩnh vực này không chỉ cung cấp sự hỗ trợ về chiến lược tổng thể mà còn giúp nhà đầu tư tối ưu hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Họ phân tích sâu rộng về mục tiêu và nhu cầu cụ thể của từng nhà đầu tư, từ đó xây dựng lộ trình đầu tư phù hợp và bền vững. Mặt khác, các dịch vụ còn đóng vai trị lớn trong việc hỗ trợ pháp lý và thuế. Việc này không chỉ giúp nhà đầu tư hiểu rõ về các quy định và điều kiện pháp lý liên quan mà còn giúp họ tối ưu hóa cấu trúc pháp lý và giảm áp lực thuế đối với dự án đầu tư của mình. Hơn thế nữa các dịch vụ mà các cơ quan xúc tiến đầu tư cung cấp cũng giúp các nhà đầu tư xây dựng và quản lý các mối quan hệ quan trọng. Việc này bao gồm việc liên kết với các đối tác kinh doanh, cơ quan chính phủ, và tổ chức quốc tế để tạo ra cơ hội hợp tác và đối tác đầu tư. Mối quan hệ này không chỉ giúp mở rộng tầm nhìn của nhà đầu tư mà còn tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình triển khai dự án.
Nghiên cứu chi tiết về hoạt động của các cơ quan xúc tiến đầu tư cho thấy rằng họ thường không đầu tư đủ nguồn lực tài chính và chú ý cho chức năng dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư so với việc xây dựng hình ảnh. Các nghiên cứu, như của Jacques Morisset và Kelly Andrews-Johnson (2004) trong “The Effectiveness of Promotion Agencies at
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Attracting Foreign Direct Investment”, cho thấy rằng ngân sách và nguồn nhân lực thường được ưu tiên cho hoạt động xây dựng hình ảnh hơn là các dịch vụ cho nhà đầu tư. Các cơ quan thường tập trung sử dụng dịch vụ đầu tư để duy trì và kỳ vọng tái đầu tư từ những nhà đầu tư hiện tại. Hoạt động dịch vụ đầu tư của cơ quan xúc tiến đầu tư nhằm xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ với những nhà đầu tư hiện tại và đã đầu tư trong địa phương. Mục tiêu này kết hợp chiến lược chi phí và lợi ích kinh tế dài hạn, không chỉ giữ chân những nhà đầu tư hiện tại mà còn giúp giảm chi phí thu hút nhà đầu tư mới và bảo vệ nguồn thu nhập dài hạn. Tối ưu hóa dịch vụ cho những nhà đầu tư hiện tại mang lại lợi ích lớn, từ việc cung cấp giải pháp mới đến mở rộng quan hệ kinh doanh. Trong bối cảnh chi phí thu hút nhà đầu tư mới tăng cao, sự tập trung vào giữ chân những nhà đầu tư quen thuộc trở thành chiến lược hiệu quả với chi phí thấp. Mối quan hệ dài hạn không chỉ tạo ra cộng đồng ổn định và đáng tin cậy mà còn là nền tảng cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Tuy nhiên thực tế lại cho thấy rằng chức năng dịch vụ thường ít được coi trọng và không nhận đủ nguồn lực so với việc xây dựng hình ảnh, đặt ra câu hỏi về sự phù hợp và tối ưu hóa của các dịch vụ cho cả nhà đầu tư hiện tại và mới.
<b> 2.3.4. Vận động chính sách </b>
Theo nghiên cứu của UNCTAD về "Investment promotion agencies as policy advocates," vận động chính sách được định nghĩa là những nỗ lực của cơ quan xúc tiến đầu tư để thay đổi các quy định, luật pháp, và chính sách của chính phủ liên quan đến đầu tư, thương mại, lao động, nhập cư, bất động sản, thuế, cơ sở hạ tầng, công nghệ và giáo dục. Mục tiêu ngay lúc đầu là tạo ra một môi trường thuận lợi để thu hút và hưởng lợi từ FDI, với mục tiêu cuối cùng là đảm bảo FDI đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Ở Việt Nam, khái niệm và mục tiêu của vận động chính sách tương tự như đã định nghĩa bởi UNCTAD. Cụ thể, theo Trung tâm Xúc tiến Đầu tư Miền Trung, vận động chính sách là quá trình tham gia vào các hoạt động hỗ trợ cụ thể của IPA, bao gồm khảo sát khu vực tư nhân, tham gia nhóm cơng tác, đề xuất, khuyến nghị nhằm cải thiện chính sách và pháp chế, và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư. Mục đích chính của vận động chính sách là thúc đẩy sáng kiến và cải thiện chất lượng môi trường đầu tư, đồng thời xác định quan điểm của cộng đồng doanh nghiệp về vấn đề này. Vận động chính sách đóng vai trò quan trọng trong xúc tiến đầu tư, làm cầu nối giữa nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan trong lĩnh vực FDI. Hoạt động này nhằm tác động đến những quyết định chính sách để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, minh bạch và hấp dẫn, hỗ trợ hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho quốc gia.
Trong nghiên cứu “Nghiên cứu về chiến lược xúc tiến FDI tại Việt Nam” đã nói rằng: “…xúc tiến đầu tư là “chào bán các cơ hội đầu tư” cho các nhà đầu tư tiềm năng. Một chương trình tiếp thị khơng thể thành cơng, bất kể nó tốt đến mức độ nào, nếu như
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">có một sản phẩm “tồi”. Thiết lập nên “một môi trường đầu tư tốt” tức là làm ra một sản phẩm tốt”. Có thể thấy rằng, chất lượng của một môi trường đầu tư được cung cấp trong giai đoạn trước và sau đầu tư có thể ảnh hưởng đến quyết định chọn địa điểm đầu tư và khả năng tái đầu tư của các nhà đầu tư trong tương lai.
Điều này cũng đã được chỉ ra bởi UNCTAD trong nghiên cứu “Investment promotion agencies as policy advocates”. Trong khi việc tạo ra đầu tư và xây dựng hình ảnh phụ thuộc vào việc “tiếp thị” một quốc gia trên cơ sở những thế mạnh hiện có của quốc gia đó như một điểm đến đầu tư, thì việc vận động chính sách thành công sẽ khắc phục được những điểm yếu trong môi trường đầu tư và tạo ra những điểm mạnh mới. Hay OECD (2015) cho rằng “investment promotion and facilitation can be powerful means to attract investment and maximise its contribution to development, but their success depends on the quality of investment-related policies and on the overall investment climate”. Điều này có nghĩa là xúc tiến và tạo thuận lợi đầu tư có thể là phương tiện mạnh mẽ để thu hút đầu tư và tối đa hóa sự đóng góp của nó cho sự phát triển, nhưng thành công của chúng phụ thuộc vào chất lượng của các chính sách liên quan đến đầu tư và môi trường đầu tư tổng thể.
Theo cách này, nghiên cứu của UNCTAD (2007) cũng làm rõ ba chức năng chính của vận động chính sách, mà các cơ quan xúc tiến đầu tư (IPA) nhắm đến để thúc đẩy sự phát triển tổng thể của quốc gia.
Thứ nhất, chức năng "Định hình Mơi trường Đầu tư" của IPA nhấn mạnh vào việc tạo ra một môi trường đầu tư minh bạch, công bằng và hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài. Điều này bao gồm các biện pháp như cải thiện pháp luật, đơn giản hóa thủ tục hành chính, và nâng cao chất lượng dịch vụ công, nhằm giảm rủi ro và tăng cường thu hút dòng vốn FDI, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra việc làm mới.
Thứ hai, chức năng "Thúc Đẩy Chính Sách Lợi Ích Lớn" đặt IPA trong vai trò đảm bảo rằng FDI mang lại lợi ích cho cả quốc gia và nhà đầu tư. Điều này bao gồm việc đàm phán các thỏa thuận đầu tư có lợi, giám sát hoạt động của doanh nghiệp FDI, và đảm bảo tuân thủ luật pháp quốc gia. Việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và cải thiện chất lượng đời sống người dân.
Thứ ba, chức năng "Xây Dựng Năng Lực Cạnh Tranh Quốc Gia" của IPA nhấn mạnh sự hỗ trợ doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này bao gồm việc giúp họ tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng cao quản lý, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng thương hiệu quốc gia. Bằng cách này, việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ hỗ trợ thu hút FDI, tạo ra tăng trưởng kinh tế bền vững và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Ngoài ra, UNCTAD (2007) còn đề cập đến các chức năng khác như thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển cơ sở hạ tầng, và nâng cao đời sống người dân. Quá trình
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">vận động chính sách bao gồm các bước xác định vấn đề, nghiên cứu và thu thập dữ liệu, thực hiện, và cuối cùng là giám sát và đánh giá. Để đạt được thành cơng, địi hỏi nguồn lực đầy đủ, tính hợp pháp, cam kết mạnh mẽ từ Chính phủ, và sự hiệu quả trong việc giảm thiểu rủi ro và đảm bảo lợi ích cho cả quốc gia và nhà đầu tư.
Tuy nhiên, việc đo lường hiệu quả và tác động của các hoạt động vận động chính sách là một thách thức đối với tất cả các IPA. Theo OECD (2020) việc đánh giá vận động chính sách bao gồm hai phần: Chất lượng nội dung, đánh giá chính sách đó nghiêm ngặt về mặt kỹ thuật thông qua một loạt các tiêu chuẩn phương pháp luận. và chất lượng của quá trình quản trị. Điều này ngụ ý rằng quy trình tiến hành đánh giá chính sách và đưa kết quả vào quá trình hoạch định chính sách được quản lý tốt và đưa ra những đảm bảo về tính độc lập trong phân tích cũng như các cơ chế phù hợp để đảm bảo tính minh bạch và sự tham gia từ bên ngồi, do đó làm giảm phạm vi ảnh hưởng khơng đáng có
Thực tế là các hoạt động vận động chính sách thường mang tính chất khơng chính thức cùng với đó việc đánh giá vận động chính sách là một quá trình phức tạp và cần được thực hiện một cách khoa học và khách quan. Do đó khó được giám sát chính thức trong hệ thống quản lý quan hệ khách hàng (CRM). Điều này gây khó khăn trong việc đo lường hiệu quả hoạt động của IPA và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các hành động phù hợp. Đồng thời cũng khiến IPA gặp khó khăn hơn trong việc đánh giá tác động của chúng đối với môi trường kinh doanh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><b> 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.4.1. Yếu tố bên trong của cơ quan xúc tiến đầu tư </b>
<i><b> Cơ cấu và cách thức tổ chức của cơ quan xúc tiến đầu tư </b></i>
Cấu trúc tổ chức của một cơ quan xúc tiến đầu tư thường bao gồm các bộ phận chức năng chính như: quản lý chiến lược, quản lý dự án, tư vấn và hỗ trợ, thông tin - truyền thông. Mỗi bộ phận này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và phát triển các hoạt động xúc tiến đầu tư. Sự cấu trúc tổ chức có thể ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các cơ chế quản lý và phân công nhiệm vụ. Sự linh hoạt và hiệu quả trong việc phối hợp giữa các bộ phận khác nhau có thể tăng cường khả năng phát triển và triển khai các chiến lược xúc tiến đầu tư. Harding và cộng sự (2012) với bài nghiên cứu “ Developing economies and international investors: Do investment promotion agencies bring them together?” đã trình bày kết quả nghiên cứu, cho rằng: Nỗ lực thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư mang đến nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho những nước đang phát triển, trong đó nâng cao thẩm quyền và cách thức tổ chức cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận và tương tác với các nhà đầu tư và đối tác tiềm năng. Một cơ quan xúc tiến đầu tư có cơ cấu linh hoạt và mạng lưới rộng lớn có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận các thị trường mới, và tăng cường mối quan hệ với các đối tác quan trọng.
<i><b> Chức năng và hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư </b></i>
Chức năng này có thể bao gồm cả các khả năng xây dựng hình ảnh và tiếp thị, các dịch vụ trước, trong và sau của cơ quan xúc tiến. Trong lĩnh vực xúc tiến đầu tư, cơ quan xúc tiến đầu tư (IPA) đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư từ trong và ngoài nước. Chức năng và hoạt động cơ bản của IPA, bao gồm khả năng xây dựng hình ảnh, cung cấp dịch vụ đầu tư, thực hiện tốt những chức năng này góp phần quyết định đến hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư. Chi tiết những chức năng nhiệm vụ này đã được đề cập đầy đủ ở mục
<i><b> Nguồn nhân lực của cơ quan xúc tiến đầu tư </b></i>
Để thực hiện thành công được công tác xúc tiến đầu tư, cán bộ đảm trách yêu cầu phải có một lượng kiến thức rộng về ngôn ngữ, nắm rõ chính sách, luật, … Nguồn nhân lực không chỉ nói đến số lượng mà cả chất lượng và kỹ năng của những người làm việc trong cơ quan xúc tiến đầu tư. Sự chuyên nghiệp và năng động của nhân lực có thể đóng vai trị quyết định trong việc thực hiện các chiến lược và kế hoạch xúc tiến đầu tư. Những nhân viên có trình độ chun mơn cao và kinh nghiệm phong phú sẽ có khả năng hiểu biết sâu sắc về thị trường và mối quan hệ giúp họ thúc đẩy các dự án đầu tư một cách hiệu quả. Ngoài ra, sự sáng tạo và khả năng làm việc nhóm cũng là yếu tố quan trọng giúp tạo ra các chiến lược và phương pháp xúc tiến đầu tư mới mẻ và hiệu quả.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Bên cạnh đó, sự đa dạng về chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm trong nguồn nhân lực cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường sức mạnh và linh hoạt của cơ quan xúc tiến đầu tư. Việc có các nhân viên có khả năng làm việc tương tác với đối tác quốc tế, đàm phán và thuyết phục cũng như hiểu biết sâu sắc về các vấn đề pháp lý và chính sách có thể giúp cơ quan này tối ưu hóa hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư.
<i><b> Nguồn ngân sách mà cơ quan xúc tiến đầu tư </b></i>
Trong nghiên cứu về hoạt động xúc tiến đầu tư, nguồn ngân sách được cấp cho cơ quan xúc tiến đầu tư được coi là một yếu tố quyết định ảnh hưởng đến hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư. Mức độ và tính chất của nguồn ngân sách này có thể định hình rõ ràng chiến lược và phạm vi của các hoạt động xúc tiến đầu tư. Sự đầu tư hợp lý vào các chương trình xúc tiến đầu tư có thể tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực, tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặt khác, sự thiếu hụt về nguồn lực tài chính có thể làm giảm tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các hoạt động xúc tiến đầu tư, gây ra sự hạn chế trong việc đạt được mục tiêu và kế hoạch đề ra. Tính ổn định và dự báo về nguồn ngân sách cũng đóng vai trị quan trọng trong việc quyết định về chiến lược và lập kế hoạch dài hạn của cơ quan xúc tiến đầu tư.
<b> 2.4.2. Yếu tố bên ngồi </b>
<i><b> Mơi trường chính trị </b></i>
Mơi trường chính trị bao gồm các yếu tố như ổn định chính trị, chính sách công cộng, quy định pháp luật và mối quan hệ giữa các quốc gia. Trong một mơi trường chính trị ổn định, với chính sách công cộng rõ ràng và dự đoán được, các nhà đầu tư có thể dễ dàng dự đoán các rủi ro và cơ hội liên quan đến việc đầu tư. Sự ổn định chính trị cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và quy tụ vốn đầu tư, từ đó làm tăng hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư.
Tuy nhiên, một mơi trường chính trị khơng ổn định hoặc có sự biến động có thể tạo ra không chắc chắn và rủi ro cho các nhà đầu tư. Các thay đổi chính sách đột ngột hoặc môi trường pháp luật không ổn định có thể làm mất lòng tin của nhà đầu tư và làm giảm hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư. Ngoài ra, mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động xúc tiến đầu tư. Sự hịa bình và hợp tác giữa các quốc gia có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư và hợp tác kinh tế, trong khi mối quan hệ căng thẳng có thể tạo ra các rủi ro và hạn chế cho hoạt động xúc tiến đầu tư.
<i><b> Môi trường pháp luật và chính sách </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Chính sách ưu đãi của một quốc gia hoặc khu vực có thể thu hút sự quan tâm và đầu tư từ các nhà đầu tư. Các biện pháp ưu đãi như giảm thuế, cung cấp hỗ trợ tài chính, hay tạo điều kiện thuận lợi về hạ tầng có thể làm tăng tính hấp dẫn của một địa điểm đầu tư. Sự linh hoạt và tính khách quan của chính sách ưu đãi cũng đóng vai trị quan trọng trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh tích cực và thu hút nhà đầu tư. Bên cạnh đó, chính sách bảo vệ mơi trường cũng có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định đầu tư của các công ty. Các quy định về bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về sử dụng tài nguyên có thể tăng chi phí vận hành cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều này cũng có thể tạo ra một cơ hội cho các doanh nghiệp chú trọng vào công nghệ và phương thức sản xuất sạch hơn, có thể thu hút nhà đầu tư đòi hỏi tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường cao.
<i><b> Môi trường xã hội </b></i>
Môi trường xã hội, bao gồm các yếu tố như con người, văn hóa, kinh tế và cơ sở hạ tầng. Sự ổn định và phát triển của môi trường xã hội có thể tạo ra một nền tảng thuận lợi cho các hoạt động đầu tư.
Về yếu tố con người, một lực lượng lao động giá rẻ, có tay nghề chất lượng và đào tạo tốt có thể cung cấp một lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp và dự án đầu tư. Mức độ động viên và hỗ trợ từ phía cộng đồng địa phương cũng có thể ảnh hưởng đến thành công của các hoạt động xúc tiến đầu tư. Bên cạnh đó, sự hiểu biết và tôn trọng văn hóa địa phương có thể giúp tạo ra một môi trường làm việc tích cực và thuận lợi cho các nhà đầu tư. Môi trường kinh tế phát triển mạnh mẽ và cơ sở hạ tầng hiện đại cũng cung cấp điều kiện cần thiết cho sự thành công của các dự án đầu tư.
<b> 2.5. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số địa phương trong nước hay quốc gia khác </b>
Trước khi nghiên cứu về hiệu quả xúc tiến đầu tư tại Hà Nội thì cùng nhóm tìm hiểu qua về các chính sách cũng như cách xử lý các vấn đề khác liên quan đến hoạt động xúc tiến đầu tư khác của Quảng Ninh, Hải Phòng và Indonesia nhé.
<b> 2.5.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư của các địa phương tại Việt Nam </b>
<b> 2.5.1.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư tại Quảng Ninh </b>
Trong năm 2022, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài nhờ ổn định chính trị, kinh tế tích cực và vị trí địa lý thuận lợi, đặc biệt sau đại dịch Covid-19. Điều này đã thúc đẩy doanh nghiệp quốc tế, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, tìm kiếm cơ hội đầu tư mới để đa dạng hóa chuỗi cung ứng và giảm phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Tính đến thời điểm hiện tại, tỉnh Quảng Ninh được xác định là một địa điểm thuận lợi để thu hút đầu tư sau đại dịch. Để tối ưu hóa hiệu suất trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">việc thu hút đầu tư, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã triển khai Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2022 thông qua Quyết định số 4068/QĐ-UBND. Mục tiêu của chương trình là thu hút đầu tư có hiệu quả và chọn lọc, đặc biệt từ các thị trường quan trọng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Singapore, Mỹ và các nước thành viên của CPTPP và EVFTA.
Chương trình xúc tiến đầu tư của Quảng Ninh trong năm 2022 tập trung vào đa dạng hóa phương thức xúc tiến đầu tư, tăng cường đầu tư tại chỗ và chuẩn bị các yếu tố đầu vào như quỹ đất, cơ sở hạ tầng, chính sách ưu đãi và nguồn nhân lực. Các lĩnh vực ưu tiên bao gồm công nghiệp chế biến, chế tạo, logistics, chuyển đổi số, du lịch, nông nghiệp thông minh, giáo dục đào tạo quốc tế và y tế. Với mục tiêu thu hút vốn đầu tư ngoại ngân sách tăng trên 10% so với năm 2021, chương trình cịn chú trọng vào việc nghiên cứu tiềm năng thị trường và xu hướng đối tác đầu tư để định hình chiến lược thu hút đầu tư phù hợp. Chương trình này cũng đáp ứng đối với diễn biến của dịch Covid-19, nhằm đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam và Quảng Ninh, đồng thời đề xuất giải pháp chủ động và đổi mới để thu hút dòng vốn đầu tư FDI.
Trong những năm tiếp theo, chương trình xúc tiến đầu tư của Quảng Ninh sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh tích cực về mơi trường đầu tư. Điều này sẽ được thực hiện thông qua nghiên cứu và ứng dụng các hình thức tuyên truyền trực tuyến. Sự hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế, đại sứ quán và đối tác chiến lược như JETRO, KCCI, AMCHAM, VKBIA sẽ giúp quảng bá và giới thiệu tiềm năng và cơ hội đầu tư đến cộng đồng quốc tế.Chương trình cịn đặc biệt chú trọng vào việc hỗ trợ, hướng dẫn và tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, với ưu tiên đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và logistics. Cải cách thủ tục hành chính và nâng cao hạ tầng sẽ tạo môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi. Chương trình cũng tập trung vào hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp của dịch Covid-19. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu được đề cập trong chương trình nhằm cung cấp thông tin đầy đủ và cập nhật, hỗ trợ quyết định đầu tư. Xây dựng danh mục dự án thu hút đầu tư và ấn phẩm quảng bá được chuẩn hóa với nhiều ngôn ngữ nhằm nâng cao chất lượng thông tin và tạo ấn tượng tích cực đối với cộng đồng đầu tư quốc tế. Tỉnh Quảng Ninh cũng đặt sự chú trọng đặc biệt vào đào tạo và tập huấn nhân sự, đặc biệt là trong lĩnh vực xúc tiến đầu tư. Các hoạt động như tổ chức khóa học, tọa đàm và giao lưu giữa chuyên gia và doanh nghiệp sẽ nâng cao năng lực của cán bộ xúc tiến đầu tư. Hợp tác quốc tế là một điểm nổi bật, với tổ chức các hội nghị và hội thảo trực tuyến với Hàn Quốc, Nhật Bản và các doanh nghiệp quốc tế, tạo cơ hội tăng cường giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và thu hút đầu tư từ những thị trường chính.
Tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện chiến lược xúc tiến đầu tư một cách sáng tạo và linh hoạt, dựa trên nền tảng sẵn có. Chiến lược này bao gồm đa dạng hóa tiếp cận đối tác đầu tư từ nghiên cứu thị trường đến sử dụng công cụ truyền thông trực tuyến. Tập
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">trung vào lĩnh vực đầu tư chiến lược như công nghiệp chế biến, chế tạo, logistics, chuyển đổi số, du lịch, nông nghiệp thông minh, giáo dục đào tạo quốc tế và y tế, Quảng Ninh đã tối ưu hóa nguồn lực và tạo ưu thế cạnh tranh. Tỉnh chứng minh khả năng chủ động và đổi mới trong thu hút đầu tư, duy trì sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư bằng cách đánh giá xu hướng dịch chuyển vốn FDI và đưa ra giải pháp chủ động. Hợp tác quốc tế và xúc tiến thông tin đóng vai trị quan trọng, tối ưu hóa quảng bá và tạo cơ hội giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm. Chăm sóc doanh nghiệp và hỗ trợ trong bối cảnh khó khăn là ưu tiên hàng đầu, không chỉ tập trung vào thu hút đầu tư mới mà còn chú trọng đến sự ổn định và phát triển bền vững của doanh nghiệp trong ngữ cảnh đại dịch Covid-19. Với cách tiếp cận hiệu quả, Hội nghị Xúc tiến đầu tư Quảng Ninh 2022 đã thành công với sự tham gia của các tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thiết bị điện tử. Có những cam kết đầu tư lớn như Stavian Quảng Yên (1,5 tỷ USD) và Vietnam Investment Q Limited (23,9 triệu USD), cùng ba dự án mới trị giá 68,7 triệu USD. Các nhà đầu tư quốc tế như NEC Corporation, Quanta Computer và BAE Systems plc cũng đã lựa chọn Quảng Ninh là điểm đến chiến lược. Những thành công này là kết quả của chương trình xúc tiến đầu tư đa dạng và hợp tác hiệu quả của tỉnh, vượt qua thách thức của thị trường quốc tế.
<b> 2.5.1.2. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư tại Hải Phòng </b>
Vào ngày 12/01/2023, thành phố Hải Phòng đã thông qua Quyết định số 72/QĐ-UBND, phê duyệt "Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023" với mục tiêu chính tăng cường việc thành lập khu công nghiệp và dự án nhà ở cho công nhân, hướng theo Chương trình hành động số 76-CTr/TU từ Ban Thường vụ Thành ủy. Chương trình nhấn mạnh vào cải cách, hiện đại hóa thủ tục hành chính để tạo mơi trường đầu tư linh hoạt và cạnh tranh. Đồng thời, cam kết thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp với xu hướng phát triển của thành phố, tập trung vào ngành kinh tế mũi nhọn và các dự án có giá trị gia tăng cao. Chương trình cũng đặt trọng tâm vào việc thu hút các dự án trong danh mục dự án công nghiệp khuyến khích đầu tư và ưu tiên kêu gọi nhà đầu tư uy tín trong nước và thị trường quốc tế.
Trong Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023 tại thành phố Hải Phòng, nhiều đơn vị chịu trách nhiệm với các nhiệm vụ và vai trò cụ thể. Ban Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo, Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và phối hợp với các đơn vị khác để triển khai kế hoạch xúc tiến đầu tư. Các sở như Ngoại vụ, Xây dựng, Công Thương, Nông nghiệp, Tài chính, Tài nguyên và Mơi trường đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và quản lý nguồn lực tài chính, kiểm sốt tiêu chuẩn mơi trường. Sự đồng bộ của các đơn vị này thể hiện chiến lược toàn diện thu hút đầu tư và phát triển bền vững. Hải Phòng chủ động và chiến lược trong việc thu hút đầu tư, với Chương trình xúc tiến năm 2023 đặt ra mục tiêu cụ thể và chiến lược chi tiết. Thành công thấy rõ qua việc thành lập khu công nghiệp và dự án nhà ở, cùng với kế hoạch thu hút đầu tư nước
</div>