Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 65 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Xuân Hạ Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 1
<i>Hà Nội, tháng 2 năm 2023</i>
3 <sub>Văn Đức</sub><sup>Nguyễn</sup> 20194963 <sup>Nhóm trưởng, phân loại và </sup><sub>ứng dụng, tổng hợp word</sub>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>CHƯƠNG 1: NGUYÊN LÝ CHUNG CỦA PIEZOELECTRIC MICROACTUATOR</b>
<b>1.1 Lịch sử phát triển của hiệu ứng áp điện</b>
Từ áp điện (piezoelectric) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là piezein, có nghĩa là ép lại, đè nén và piezo, trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là đẩy. Hiệu ứng áp điện được nhìn thấy trực tiếp lần đầu tiên vào năm 1880, do hai anh em Pierre và Jacques Curie khởi xướng. Bằng cách kết hợp kiến thức về nhiệt điện và cấu trúc tinh thể, hai anh em nhà Curie đã chứng minh hiệu ứng áp điện đầu tiên bằng cách sử dụng các tinh thể tourmaline, thạch anh, topaz, đường mía và muối Rochelle. Kết quả thí nghiệm ban đầu của họ cho thấy thạch anh và muối Rochelle thể hiện khả năng áp điện mạnh nhất vào thời điểm đó. Trong vài thập kỷ tiếp theo, hiệu ứng áp điện vẫn cịn ở trong phịng thí nghiệm để tiếp tục được nghiên cứu và khám phá. Thế chiến thứ nhất đã đánh dấu sự ra đời thiết bị ứng dụng hiệu ứng áp điện đầu tiên, đó là thiết bị sonar (một thiết bị sử dụng sóng âm thanh có khả năng đo khoảng cách và dẫn hướng). Sau đó, đến Thế chiến thứ hai, các nhóm nghiên cứu ở Mỹ, Liên Xơ và Nhật Bản đã tìm ra được loại vật liệu nhân tạo mới, gọi là ferroelectrics, có khả năng áp điện cao hơn nhiều lần so với các vật liệu tự nhiên. Trải qua nhiều năm, các nhà khoa học đã khơng ngừng nghiên cứu và tìm ra những loại vật liệu áp điện mới ưu việt hơn nhằm ứng dụng trong thực tế. Kết quả nghiên cứu gắt gao này đã dẫn đến sự phát triển của bari titanate và chì zirconate titanate, hai vật liệu có đặc tính rất phù hợp với các ứng dụng cụ thể.
<b>1.2. Hiệu ứng áp điện là gì:</b>
Hiệu ứng áp điện đề cập đến sự thay đổi phân cực điện dẫn đến tạo ra điện tích tương ứng của một số loại vật liệu nhất định khi chúng chịu ứng suất cơ học. Sự thay đổi phân cực điện dựa vào ứng suất biểu hiện cho những đặc trưng tiềm năng khác nhau có thể đo được trên vật liệu, được gọi là hiệu ứng áp điện thuận. Khi đó, vật liệu được đặt dưới ứng suất cơ học, sự chuyển dịch của các tâm điện tích dương và âm trong vật liệu sẽ xảy ra, sau đó tạo ra điện trường bên ngồi. Hiện tượng áp điện thuận có thể được quan sát trong nhiều tinh thể có sẵn trong tự nhiên, bao gồm thạch anh, muối Rochelle và thậm chí cả xương người. Bên cạnh đó, hiệu ứng áp điện cịn có q trình đảo nghịch. Hiệu ứng áp điện ngược đề cập đến sự biến dạng của những vật liệu khi chịu tác dụng của điện trường. Sự biến dạng có thể dẫn đến biến dạng kéo hoặc nén và ứng suất trong vật liệu phụ thuộc vào hướng của điện trường, hướng ưu tiên của phân cực trong vật liệu và cách vật liệu được kết nối với các cấu trúc lân cận khác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Về bản chất, hiệu ứng áp điện được giải thích bằng sự dịch chuyển của các ion trong các tinh thể. Khi tinh thể bị nén, các ion trong mỗi ô đơn vị bị dịch chuyển, gây ra hiện tượng phân cực điện ở mỗi ô đơn vị. Những hiệu ứng này tích tụ, gây ra sự chênh lệch điện thế giữa các mặt của tinh thể. Khi một điện trường bên ngoài được đặt vào tinh thể và các ion trong mỗi ô đơn vị được chuyển dịch bởi lực tĩnh điện, dẫn đến biến dạng cơ học của toàn bộ tinh thể. Hiện tượng áp điện thuận được phát hiện đầu tiên ở trong các tinh thể ngoài tự nhiên, nhiều nhất là thạch anh. Về sau người ta cũng tìm thấy hiệu ứng này ở trong gốm sứ, gần đây là polyme.
Ngày nay hiện tượng áp điện được ứng dụng rất rộng rãi trong kỹ thuật phục vụ cho cuộc sống hàng ngày như: máy bật lửa, cảm biến, máy siêu âm, điều khiển góc quay nhỏ gương phản xạ tia lade, các thiết bị, động cơ có kích thước nhỏ, hiện nay người ta đang phát triển nhiều chương trình nghiên cứu như máy bay bay đập cánh như côn trùng, cơ nhân tạo, cánh máy bay biến đổi hình dạng, phịng triệt tiêu âm thanh, các cấu trúc thông minh, hầu hết các máy in hiện nay... một trong những ứng dụng quan trọng hiện nay trong kỹ thuật là dùng làm động cơ piezo.
<b>1.3. Bộ kích hoạt áp điện </b>
<i>Hình 1: Bộ kích hoạt áp điện</i>
Bộ kích hoạt áp điện là thiết bị hoạt động dựa trên hiệu ứng áp điện ngược, đặt một điện áp lên nó sẽ sinh ra một sự dịch chuyển và khi có rung động, nó sẽ tạo ra một điện áp. Bộ kích hoạt áp điện là một bộ kích hoạt vi dịch chuyển hồn hảo và có thể điều khiển được, được dẫn động bằng điện trường. Bộ kích hoạt áp điện có tốc độ đáp ứng rất cao, thể tích nhỏ, khối lượng tương đối nhỏ và nhiệt lượng ít. Hiệu suất tuyệt vời của bộ kích hoạt áp điện làm cho nó có tiềm năng đáng kể trong lĩnh vực điều khiển tích cực. So với các bộ kích hoạt truyền thống, bộ kích hoạt áp điện có các ưu điểm:
Tiêu thụ điện năng thấp: Hiệu ứng áp điện chuyển đổi trực tiếp năng lượng điện thành chuyền động cơ học trong quá trình di chuyển. Có khả năng hoạt động tĩnh, ngay cả khi giữ tải nặng, không tiêu tốn điện năng.
Không bị hao mịn: Bộ kích hoạt áp điện khơng có bánh răng hay trục quay. Sự dịch chuyển của nó dựa trên động lực ở trạng thái rắn, vì thế không bị ăn mịn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"> Khuếch đại nhanh chóng: Bộ kích hoạt áp điện cung cấp thời gian phản hồi nhanh nhất hiện có ( ms ). Gia tốc có thể tương đương gấp 10 lần gia tốc trọng trường
<i>S=d . E</i>
<i>S=d . E</i>
<i>D=ϵ . E</i>
<i>S=</i>¿
<i>D=</i>¿
<i>0=ϵ . E</i>
<i>S=d<sup>T</sup>. E</i>
<i>s<small>D</small></i>
<i>s<sup>E</sup></i>=<i>Ss<small>D</small></i>
=<i>s−d<small>T</small>. ϵ</i><small>−1</small><i>.</i>
<i>S=</i>¿ <i>s<small>E</small></i>
<i>D=ϵ<small>T</small>. E</i>
<b>CHƯƠNG 3: PHÂN LOẠI VÀ ỨNG DỤNG</b>
Các dạng dẫn động áp điện thường được sử dụng nhiều nhất trên các vật liệu phổ biến là ceramic và polime bao gồm: Multilayer (stack) actuators
actuators
<b>3.1. Multilayer (stack) actuators.</b>
Bộ kích hoạt ngăn xếp bao gồm nhiều lớp áp điện được ngăn cách bởi các lớp cách điện (xem Hình 4). Phần đầu và cuối của mỗi lớp được đặt cùng một điện áp. Các phần tử áp điện riêng lẻ trong thiết bị truyền động xếp chồng lên nhau có phân cực xoay chiều và điện trường được đặt song song với hướng phân cực. Khi một điện áp được đặt vào, một biến dạng, hoặc sự dịch chuyển, được tạo ra theo hướng phân cực. Chuyển động của một phần tử áp điện bằng điện áp đặt nhân với hệ số áp điện. Chuyển động của cả ngăn xếp áp điện bằng tổng dịch chuyển của các phần tử trong stack
<i>Hình 7 Bộ kích hoạt điện áp ngăn xếp</i>
Các điện cực bên trong có cùng cực được nối với nhau bằng các điện cực bên ngoài đặt trên mặt của thiết bị truyền động. Các điện cực bên trong được cách điện với các điện cực bên ngoài antipode bằng một lớp thủy tinh mỏng được đặt giữa các mặt của vật liệu áp điện.
Bộ kích hoạt áp điện trực tiếp chuyển đổi năng lượng điện thành năng lượng cơ học thơng qua hiệu ứng áp điện, có nghĩa là chúng khơng có bộ phận chuyển động tạo ra ma sát hoặc mài mịn. Do đó, độ phân giải của chúng chỉ bị giới hạn bởi các thành phần cơ và điện bên ngồi. Chúng có thể đạt được thời gian phản hồi cực nhanh và tốc độ tăng tốc cao. Bộ kích hoạt áp điện xếp chồng lên nhau có khả năng hoạt động trong các mơi
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">chúng thích hợp cho các ứng dụng trong ngành công nghiệp điện tử tiêu dùng, hàng không vũ trụ, ô tô và bán dẫn. Huixing Zhou
<i>Hình 8 Cơ chế khuếch đại thủy lực bằng bộ kích hoat áp điện ngăn xếp</i>
Cũng trong
<i>Hình 10 Động cơ truyền động bằng quán tính</i>
Một trong những ứng dụng quan trọng khác của cấu trúc áp điện ngăn xếp là ứng dụng truyền động trong các cơ cấu vi kẹp với độ chính xác cao. Zheng Li
<i>Hình 9 Cơ cấu kẹp của Zheng Li (bên trái) và Das (bên phải)</i>
<b>3.2. Bimorph (bender) actuators.</b>
Thuật ngữ bimorph được sử dụng phổ biến nhất với bimorphs áp điện. Trong các ứng dụng thiết bị truyền động, một lớp hoạt động co lại và lớp kia mở rộng nếu điện áp được đặt vào, do đó, hai lớp uốn cong. Trong các ứng dụng cảm biến, uốn cong lưỡng hình tạo ra điện áp, ví dụ có thể được sử dụng để đo độ dịch chuyển hoặc gia tốc. Chế độ này cũng có thể được sử dụng để thu năng lượng
<i>Hình 11 Bimorph piezoelectric actuator</i>
Khơng chỉ sử dụng hai lớp áp điện với nhau mà còn có thể thay một lớp áp điện bằng một loại vật liệu khác. Qing-Ming Wang
triple layer benders. Hai ví dụ cổ điển về thiết bị áp điện là các cấu hình bimorph và unimorph được sử dụng rộng rãi cho cảm biến âm thanh, loa, rơle, micropumps, micropositioners, và nhiều ứng dụng khác. Trong nghiên cứu của mình Wang
<i>Hình 12 Cấu trúc bimorph, unimorph và triple layer benders, (a) bimorph bender trongchuỗi kết nối, (b) bimorph bender trong kết nối song song, (c) triple layer bender, (d)</i>
<i>unimorph bender, (e) thiết bị cầu vồng [ CITATION QMW99 \l 1033 ]</i>
Ngay trong năm nay Zhang và nhóm của ơng đã phát triển động cơ quay quán tính hai bậc tự do được đề xuất sử dụng bộ kích hoạt áp điện hai chiều (PEA)
<i>Hình 13 Động cơ quay quán tính hai bậc tự do và sự bố trí các tấm bimorph piezo[ CITATION SZh21 \l 1033 ]</i>
<i>Hình 14 Mơ tả ngun lý hoạt động của động cơ của Zhang [ CITATION SZh21 \l 1033 ]</i>
<b>3.3. Stick-slip actuators.</b>
<b>3.3.1. Tổng quan về Stick-Slip actuators.</b>
Nếu xét hiện tượng này trong các hệ trượt macro, dính-trượt bị coi là yếu tố gây nhiễu. Do đó đã có rất nhiều mơ hình, cơng cụ phân tích và các phương pháp ổn định được phát triển để điều khiển các hệ động lực học với ma sát. Nhưng trong các hệ micro, hiện tượng này có thể được tận dụng để thành một nguyên lý kích hoạt, gọi là chuyển động dính-trượt. Nếu các lực tác động lên phần tử chấp hành (PTCH) có thể được điều khiển cả về độ lớn lẫn phương chiều thì hồn tồn có thể thu được chuyển động dính-trượt lặp đi lặp lại theo một hướng định sẵn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><i>Hình 1 Sơ đồ nguyên lý chuyển động dính-trượt [ CITATION Nic10 \l 2057 ]</i>
Sơ đồ trên bao gồm PTKH được làm từ vật liệu áp điện và được gắn với nửa cầu tạo tiếp xúc điểm với PTCH. Tín hiệu điện dùng để kích hoạt chuyển động dính-trượt có dạng răng cưa bao gồm hai pha: pha tăng chậm và pha giảm nhanh. Tín hiệu điện được đưa vào PTKH khiến cho những điểm tiếp xúc sẽ chuyển vị theo dạng tín hiệu điện. Chính vì thế, trong một chu kì, PTKH sẽ có hai trạng thái: dãn chậm và co lại nhanh. Pha tăng chậm được thể hiện trong hình 1.2b, khi này PTCH cùng di chuyển với PTKH, do chuyển động chậm nên lực do quán tính của PTCH nhỏ hơn nhiều so với lực ma sát tĩnh giữa hai phần tử nên độ dịch chuyển của hai phần tử là như nhau. Pha này cịn được gọi là pha dính. Trong hình 9.2c, PTKH co lại nhanh, gia tốc lớn dẫn tới sau một khoảng thời gian xác định, lực quán tính của PTCH lớn hơn lực ma sát tĩnh. Trong pha này, ở một khoảng thời gian xác định ban đầu, hai phần tử vẫn dính với nhau do lực quán tính chưa đủ lớn kết hợp với các yếu tố như độ nhấp nhô bề mặt, vật liệu là không cứng tuyệt đối – tạo ra một khoảng dịch chuyển gọi là bước lùi (back step). Sau đó, khi lực qn tính đủ lớn, PTCH không theo kịp chuyển động của PTKH và bị trượt trên phần tử này. Do đó, pha giảm nhanh cịn gọi là pha trượt. Sau một chu kì dính-trượt, PTCH thực hiện được một bước dịch chuyển/chuyển vị.
Mỗi bước chuyển vị thu được sau mỗi chu kì là rất nhỏ do giới hạn về độ biến dạng của vật liệu áp điện, tuy nhiên, theo lý thuyết thì khoảng làm việc của thiết bị là không giới hạn. Hơn thế nữa, khi làm việc ở chế độ quét (Scaning mode), độ dịch chuyển nhỏ đem lại nhiều ưu điểm khi đáp ứng được yêu cầu độ chính xác cao. Một vài cơ cấu tương tự có thể kể đến mơ hình của Zhang
<i>Hình 15 Mơ hình Stick-slip actuator của Zhang [ CITATION YZh18 \l 1033 ]</i>
<i>Hình 16 Mơ hình Stick-slip actuator của Xu [ CITATION ZXu20 \l 1033 ]</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><b>3.3.2. Một số các hiện tượng của cơ cấu Stick-Slip.</b>
<i>a. Hiện tượng chuyển vị đầu</i>
<i><b>Khi thiết bị hoạt động, tại vùng tiếp xúc ln có hai chế độ ma sát: chế độ chuyểnvị đầu, đơi khi cịn gọi là chế độ vi trượt, và chế độ trượt. Chế độ chuyển vị đầu của tiếp </b></i>
xúc ma sát giữa hai bề mặt được mơ tả như hình dưới [16].
<i>Hình 17 Biến dạng của các nhấp nhô và chuyển vị đầu dưới tác dụng của ngoại lực</i>
Khi tác dụng lực pháp tuyến và lực tiếp tuyến lên hai vật để chúng tiếp xúc với nhau, luôn xuất hiện những tiếp xúc tế vi giữa các nhấp nhô tại bề mặt tiếp xúc (Hình 15a). Ở chế độ ma sát chuyển vị đầu, lực giữ giữa các nhấp nhô chiếm ưu thế do vậy lực ma sát giống như một hàm của chuyển vị hơn là của vận tốc. Điều này là do các nhấp nhô biến dạng đàn hồi dẻo, phụ thuộc vào tải đặt lên từng cặp nhấp nhơ tiếp xúc, khiến chúng có ứng xử giống như các lị xo phi tuyến (hình 15b). Biến dạng đàn hồi gây ra dịch chuyển chuyển vị đầu, trong khi biến dạng dẻo gây ra ma sát tĩnh, khi lực tiếp tuyến F<small>e</small> tăng đến một mức độ nào đó, các dịch chuyển chuyển vị đầu cũng sẽ tăng theo khiến cho các tiếp xúc nhấp nhơ bị phá vỡ, từ đó dẫn tới hiện tượng trượt hồn tồn. Sau đó ma sát sẽ chuyển sang chế độ trượt, lực ma sát trở thành hàm theo vận tốc. Tại thời điểm chuyển giữa hai chế độ ma sát, lực ma sát có giá trị F<small>ba</small> (còn gọi là lực tới hạn/break away force)- khi lực tiếp tuyến F<small>e</small> lớn hơn F<small>ba</small> thì sẽ gây ra chế độ ma sát trượt; đồng thời, giá trị
chuyển vị chuyển vị đầu tối đa trước khi các tiếp xúc nhấp nhô bị phá vỡ được gọi là
<b>khoảng tới hạn - z</b><small>ba</small>
<i>b. Hiện tượng biên độ 0</i>
Cụm từ “Biên độ 0” biểu thị biên độ biến dạng nhỏ nhất của “Phần tử kích hoạt” (bằng vật liệu áp điện) mà không gây ra chuyển động cho “phần tử chấp hành”. Nói cách khác, dưới mức biên độ này, chuyển vị tương đối giữa hai phần tử không thể vượt qua được các biến dạng tiếp xúc mà phần tử chấp hành chỉ dao động quanh vị trí ban đầu do biến dạng đàn hồi của các nhấp nhô bề mặt tại vùng tiếp xúc. Hình dưới mơ tả chuyển vị của phần tử chấp hành với các giá trị biên độ kích hoạt khác nhau, từ đó cho ta thấy rõ hiện tượng biên độ 0.
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><i>Hình 18 Quan hệ giữa độ lớn biên độ dao động và độ lớn bước dịch chuyển của PTCH</i>
Khi giá trị biên độ đạt tới 16nm, PTCH bắt đầu dịch chuyển, trong trường hợp này, Biên độ 0 có giá trị bằng 16nm. Giá trị biên độ liên quan tới mức điện áp cấp vào, vì vậy giá trị điện áp tương đương giá trị biên độ 0 được gọi là giá trị điện áp điều khiển tối thiểu. Hiểu biết về hiện tượng này giúp cải thiện và tối ưu hiệu suất của các thiết bị, ví dụ: tối thiểu hóa được biên độ 0 sẽ giúp giảm mức điện áp tối thiểu cấp vào, từ đó giảm bớt được chi phí liên quan tới vật tư [17].
<i>c. Hiện tượng vi dao động</i>
Hiện tượng vi dao động sau pha trượt cũng được giải thích qua chế độ ma sát chuyển vị đầu, sau khi kết thúc pha trượt, các liên kết giữa các nhấp nhô được hình thành trở lại khi giá trị biên độ nhỏ hơn hoặc bằng biên độ 0. Do đó, ở pha dính, PTCH chuyển động dưới tác động của lực ma sát chuyển vị đầu. Do các tiếp xúc tế vi biến dạng đàn hồi, chúng ứng xử giống các lị xo có biến dạng ban đầu. Điều này khiến PTCH dao động như trong một hệ khối lượng-lò xo-cản. Các vi dao động này sẽ được dập tắt sau một khoản thời gian. Tuy nhiên nếu thiết bị hoạt động ở tần số cao, những vi dao động này có thể chưa được dập tắt hoàn toàn trước khi pha trượt tiếp theo bắt đầu. Điều này sẽ gây ra sự hỗn loạn trong chuyển vị của PTCH và hiệu suất thiết bị. Do vậy các phương pháp giảm vi dao động là vô cùng cân thiết. Trong thực tế, dao động của PTKH cũng góp phần gây ra vi dao động, nên nếu lựa chọn vật liệu cho PTKH có độ cứng cao hơn nhiều so với độ cứng của tiếp xúc, vi dao động sẽ chỉ bị gây ra bởi biến dạng đàn hồi tại các tiếp xúc là chủ yếu.
<b>3.4. Tube actuators.</b>
Cơ cấu Tube actuators là cơ cấu thường có hình trụ gồm các tấm áp điện có điện cực hai phía khác nhaucó khả năng giãn dài theo trục thẳng đứng hay theo hướng tâm của
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">trục áp điện
<i>Hình 19 Tube actuators</i>
Thơng thường, các hành động không chỉ giới hạn ở các hướng một chiều, và các đường chuyển động phức tạp liên quan đến nhiều bậc tự do được yêu cầu cho hầu hết các ứng dụng. Theo truyền thống, động cơ điện từ để tạo ra chuyển động nhiều bậc tự do, nhưng trong phạm vi hẹp và không gian hạn chế, một động cơ siêu âm sẽ cho thấy sự linh hoạt hơn để thiết kế các chuyển động đa bậc tự do
<i>Hình 20 Cơ cấu 2 bậc tự do, 3 bậc tự do, và toàn bậc do bằng vật liệu áp điện [18]</i>
<b>3.5. Bulk actuators.</b>
Các cơ chế khác có thể được sử dụng cho các thành phần hoạt động nhưng việc sử dụng bộ kích hoạt màng áp điện là rất phổ biến. Việc thiết lập thông thường của một bộ kích hoạt màng, trong đó tấm áp điện được phân cực theo chiều dày, sử dụng hiệu ứng áp điện ngang. Đặt điện áp điều khiển vào hai điện cực bề mặt trên mỗi mặt của màng áp điện dẫn đến biến dạng co lại trong mặt phẳng làm việc, vng góc với hướng phân cực, do hiệu ứng áp điện. Mặc dù thiết kế này thích hợp cho nhiều ứng dụng, nhưng hiệu ứng này là đẳng hướng trong mặt phẳng cơ cấu truyền động và không cho phép tách các biến dạng dọc và ngang, điều này có thể cần thiết cho một số ứng dụng. Hiệu ứng ngang cũng yếu hơn (khoảng 50%) so với hiệu ứng áp điện sơ cấp, xảy ra theo hướng phân cực. Có nhiều con đường khác nhau đến thiết bị truyền động IDE áp điện, dựa trên màng áp điện số lượng lớn hoặc vật liệu composite với sợi áp điện. Cả hai khái niệm đều được trình bày sau đây.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><i>Hình 21 Sơ đồ thiết kế IDE của cơ cấu chấp hànhBộ kích hoạt phim IDE hàng loat</i>
Vật liệu hoạt động áp điện bao gồm một tấm vật liệu PZT thương mại (SonoxP53, CeramTec) với độ dày hpie ¼200 lm. Một lớp phủ polymer cung cấp khả năng cách ly điện và độ ẩm khỏi môi trường cho các điện cực trên cả hai mặt của lớp piezoceramic. Sử dụng quan hệ đối xứng cho phép giảm kích thước mơ hình hơn nữa, dẫn đến một ơ đơn vị nhỏ. Vì lớp phủ điện cực rất mỏng nên nó khơng có tác dụng cơ học và khơng được đưa vào mơ hình như một vật liệu phụ. Thay vào đó, nó được biểu diễn bằng một giới hạn điện, giả sử điện thế khơng đổi trên vùng ngón tay điện cực của bề mặt gốm sứ. Tải điện trong mơ hình được biểu thị bằng điện áp điều khiển, được áp dụng giữa các ngón tay điện cực lân cận.
<i>Bộ kích hoạt phim tổng hợp</i>
Trong những năm qua, sợi gốm với đặc tính áp điện đã được phát triển. Có sẵn các loại sợi khác nhau, dựa trên các thành phần PZT khác nhau và có độ dày khác nhau, từ 30 đến 200. Việc nhúng các sợi này vào một ma trận polyme cho phép sản xuất vật liệu tổng hợp áp điện có thể được sử dụng cho các ứng dụng cảm biến và thiết bị truyền động.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24"><i>Hình 22 Thiết kế chính bộ chuyển động hỗn hợp IDE</i>
<b>3.6. Ứng dụng</b>
Với thiết kế đơn giản, các bộ phận chuyển động tối thiểu, không cần bơi trơn để vận hành và đặc tính độ tin cậy cao, bộ truyền động áp điện được sử dụng trong nhiều ứng dụng công nghiệp, ô tô, y tế, hàng không, hàng không vũ trụ và điện tử tiêu dùng. Bộ truyền động Piezo được tìm thấy trong máy dệt kim chính xác và máy chữ nổi. Các đặc điểm truyền động im lặng làm cho bộ truyền động áp điện trở thành một cơ chế lấy nét tự động tuyệt vời trong máy quay video và điện thoại di động được trang bị micrô. Cuối cùng, vì bộ truyền động áp điện khơng cần bôi trơn để hoạt động nên chúng được sử dụng trong môi trường đông lạnh và chân không.
Sử dụng bộ truyền động ngăn xếp, có thể thực hiện độ phân giải cực kỳ tốt, gần như vô hạn với điện áp rất cao tương ứng với các chuyển động giãn nở nhỏ. Một bộ truyền động áp điện có thể hoạt động hàng tỷ lần mà khơng bị mài mòn hoặc hư hỏng. Tốc độ phản hồi của nó là đặc biệt và nó chỉ bị giới hạn bởi quán tính của đối tượng được di chuyển và khả năng đầu ra của trình điều khiển điện tử. Khi hoạt động ở trạng thái tràn đầy năng lượng, bộ truyền động áp điện hầu như không tiêu thụ điện năng và tạo ra rất ít nhiệt.
Ngày nay hiện tượng áp điện được ứng dụng rất rộng rãi trong kỹ thuật phục vụ cho cuộc sống hàng ngày như: máy bật lửa, cảm biến, máy siêu âm, điều khiển góc quay nhỏ gương phản xạ tia lade, các thiết bị, động cơ có kích thước nhỏ, hiện nay người ta đang phát triển nhiều chương trình nghiên cứu như máy bay bay đập cánh như côn trùng, cơ nhân tạo, cánh máy bay biến đổi hình dạng, phịng triệt tiêu âm thanh, các cấu trúc thông minh, hầu hết các máy in hiện nay… một trong những ứng dụng quan trọng hiện nay trong kỹ thuật là dùng làm động cơ piezo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><b>CHƯƠNG 4: CÁC BÀI BÁO NGHIÊN CỨU4.1. Mơ hình hố bộ vi dẫn động áp điện</b>
<b>4.1.1. Mơ hình bộ kích hoạt áp điện ngăn xếp</b>
Mơ hình của chúng tôi cho bộ truyền động ngăn xếp áp điện dựa trên cách tiếp cận của Adriaens et al. (2000), sử dụng mô tả bao gồm các yếu tố điện và cơ.
Trong Adriaens và cộng sự. (2000), hệ thống PEA được mơ hình hóa bằng cách sử dụng mơ hình cơ điện được hiển thị trong hình 1.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><i><b>Hình 1. Mơ hình cơ điện của PEA</b></i>
Biểu thức cho lực tương tác <i><small>Fp</small></i>
trong mơ hình này là: <small>...</small>
<i>F</i> <i>T U</i> <i>m y c y ky</i> (1)
Trong phương trình (1), y biểu diễn độ dịch chuyển cơ học và lực tương tác phụ thuộc vào các thông số cơ học của khối lượng m, hệ số tắt dần c và độ cứng k. Ngoài ra,
<i>T</i> được định nghĩa là tỷ số biến áp cho bộ chuyển đổi cơ điện. Sử dụng mơ hình cơ điện trong hình 1, chúng ta có thể thu được một mạch tương đương của hệ piezo hoàn chỉnh như trong Hình 2.
<i><b>Hình 2. Mơ hình bộ kích hoạt áp điện ngăn xếp</b></i>
Ở đây U đại diện cho điện áp bộ khuếch đại đặt vào mạch, R1 đại diện cho điện trở tương đương Thevenin của bộ khuếch đại cơng suất, C2 là tụ điện bên ngồi mắc nối tiếp với bộ truyền động ngăn xếp áp điện, U2 là điện áp tụ điện được đo bằng đầu dò vi sai, R2 là điện trở của đầu dò vi sai. Sử dụng phép tương tự tiêu chuẩn giữa hệ thống điện và cơ áp dụng cho (1), chúng ta có thể thay thế các phần tử cơ bằng một mạch điện tương đương như trong Hình 3. Ở đây R, L và C có thể được tính tốn từ các thơng số cơ học
. Trong Adriaens và cộng sự. (2000), độ trễ phi tuyến giữa điện áp trễ Uh và điện tích q trong mơ hình được mơ tả bằng phương trình:
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><i><b>Hình 3. Đoạn mạch RLC tương đương</b></i>
trong đó α, a và b là các hằng số xác định hình dạng của tính phi tuyến. Từ đó có thể thấy rằng độ lớn của độ trễ phi tuyến trong cơ cấu chấp hành áp điện phụ thuộc vào giá trị của α. Nếu α đủ nhỏ, chúng ta có thể coi hệ thống như một hệ thống tuyến tính. Sử dụng (2), mối quan hệ phi tuyến giữa dòng điện i trong piezo và điện áp tạo ra bởi độ trễ Uh có thể được suy ra như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Các biến trạng thái cho mơ hình mạch điện tương đương trong Hình 5 được định nghĩa là x1 = iP, x2 = UC, x3 = U2, x4 = Uh và x5 = q. Điều này dẫn đến mơ hình khơng gian trạng thái cho mạch truyền động piezo như sau:
trong đó i = q˙ như trong (3)
Thiết bị truyền động không tải và tần số cộng hưởng không tải của thiết bị truyền động là khoảng 70 kHz, vượt xa phạm vi tần số quan tâm. Điều này có nghĩa là chúng ta có thể có được một mơ hình phi tuyến đơn giản cho hệ thống bằng cách đặt Tem bằng không. Điều này ngụ ý rằng các phần tử cơ điện không cần phải được đưa vào mơ hình nữa. Sau đó, có thể thu được một mạch tương đương được đơn giản hóa như trong Hình 5.
<i><b>Hình 5. Mơ hình mạch tương đương đơn giản hóa.</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">Trong trường hợp này, chỉ cần ba biến trạng thái, x1 = U2, x2 = Uh và x3 = q. Sau đó, chúng ta có thể viết các phương trình khơng gian trạng thái tương ứng như sau
Đầu ra của hệ thống y = U2 trong mơ hình tuyến tính này được xác định bởi phương trình y = Cx trong đó C = [1 0 0]. Các thông số trong mô hình này được đo trực tiếp như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Điện dung tĩnh của bộ truyền động ngăn xếp áp điện được đo ở 360nF, là giá trị của b mắc nối tiếp với CP.
<b>4.1.2. Mơ hình hố bộ kích hoạt bimorph</b>
<i><b>Hình 6. Cấu hình của bimorph áp điện ba lớp không đối xứng với các cổng riêng biệt về</b></i>
Bimorph áp điện ba lớp không đối bao gồm một miếng đệm ở giữa tương đối dày và hai lớp áp điện có đặc tính và độ dày vật liệu khác nhau, như được thể hiện trong Hình 1. Các lớp áp điện được điện ở mặt trên và mặt dưới, và chúng có các cổng điện riêng biệt. Sự phân cực của các lớp áp điện hướng lên trên; hai mặt biến dạng theo chiều dọc và / hoặc dọc theo các hướng của điện trường và độ dày của các lớp áp điện. Chiều dài (phương x), Tổng chiều dày (phương z), và chiều rộng (phương y) lần lượt được ký hiệu là l, h, và b; mỗi độ dày cho miếng đệm ở giữa và lớp trên cùng và dưới cùng được ký hiệu tương ứng bằng h(m), h(t) và h(b). Các phản ứng cơ và điện cũng như điện áp và tải đặt vào được cho là dao động điều hịa với tần số góc chung v.
Trong lý thuyết dầm Thimoshenko, tổng độ võng thẳng đứng uz (x) của dầm được tạo ra bởi cả uốn và cắt, do đó độ dốc của đường cong lệch và trục độ dời ux (x, z) có thể
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">trong đó là góc quay do uốn, <sup></sup> là góc biến dạng do cắt, và uo là chuyển vị kéo dọc trục tại trục trung hòa (z = 0). Mối quan hệ biến dạng - chuyển vị do đó tạo ra Sxx dọc
Điện trường <i><small>Ez</small></i><sup>( )</sup><i><sup>p</sup></i> hướng z của mỗi lớp áp điện <i><sup>p</sup><sup>th</sup></i> đối với lớp trên cùng và b đối với lớp dưới cùng được cho là không đổi trong đó <i><sup>V</sup></i><sup>( )</sup><i><sup>p</sup></i> biểu thị hiệu điện thế hoặc hiệu điện thế ở lớp áp điện thứ p
Phương trình cấu tạo một chiều cho một piezoelement được viết lại là
trong đó Txx và Txz là pháp tuyến dọc trục và ứng suất cắt, và Dz là dịch chuyển điện hướng z. Các thuộc tính vật liệu trong Eq (4) được định nghĩa là
trong đó s11 E và s55 E biểu thị sự phù hợp về độ giãn và độ cắt đàn hồi trong điện trường không đổi; d31 hằng số biến dạng áp điện; và <small>33</small>
ứng suất phép không đổi. Với Eqs. (1)- (4), tải trọng giãn Nx, mômen uốn Mx và lực cắt ngang Rx có thể
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">trong đó <i><small>zc</small></i><sup>( )</sup><small></small>
biểu thị tọa độ tâm hướng z của lớp thứ p đối với trục trung hòa, tức là z=0, được xác định từ điều kiện
Mỗi độ cứng A11, D11 và A55 trong Eq. (6) được định nghĩa là <small>2</small>
trong đó tích hợp theo hướng <sup></sup> chỉ đơn giản mang lại phép nhân chiều rộng b, và <sup></sup>là hệ số hiệu chỉnh lực cắt (<sup></sup>=5/6 cho mặt cắt ngang hình chữ nhật).
Điện tích của mỗi lớp áp điện được định nghĩa là
là liên hợp của điện áp khi điện trường được giả định như trong phương trình (3) Cơng thức thay thế. (1)-(4) vào Eq.
Lưu ý rằng điện tích được tạo ra bởi cả chuyển động giãn và chuyển động uốn mà từ đó chuyển động cứng và chuyển động quay của vật thể bị loại trừ. Người ta cũng quan sát thấy rằng vòng quay ròng, tức là, <sup></sup><sup>( )</sup><i><sup>l</sup></i> = <sup></sup><sup>(0)</sup>nhân với khoảng cách <i><small>zc</small></i><sup>( )</sup><i><sup>p</sup></i>
Để mở rộng trục, làm tăng thêm phần mở rộng trục thuần, tức là, <i>u l</i><small>0</small>( )-<i>u</i><small>0</small>(0) Thay thế biểu thức (6) vào các phương trình cân bằng giãn và uốn tạo ra hai phương trình vi phân
</div>