Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

phân tích luận điểm Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.56 KB, 16 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>LỜI CẢM ƠN</b>

Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn Khoa Quản trị kinh doanh, Viện Đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao và POHE và trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho em học tập và thực hiện bài tập lớn này!

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Nguyễn Hồng Sơn giảng viên bộ mơn tư tưởng Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện bài tập lớn mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Dưới sự hướng dẫn của thầy, em đã có cơ hội tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, một hệ thống tư tưởng phong phú, tồn diện, có giá trị to lớn đối với cách mạng Việt Nam và nhân loại.

Em xin chân thành cảm ơn thầy đã cung cấp cho em những kiến thức quý báu, những định hướng khoa học, giúp em hoàn thành bài tập lớn một cách tốt nhất. Và em tự nhận thức được rằng với lượng kiến thức và kinh nghiệm ít ỏi của bản thân chắc chắn bài tập lớn này sẽ khó tránh khỏi thiếu sót. Kính mong thầy thơng cảm và góp ý để em ngày càng hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 19 tháng 10 năm 2023 Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Ngọc Mai

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, “Ðộc lập Tự do -Hạnh phúc” là khát vọng và cũng là cả một hệ giá trị vô giá và trở thành lẽ sống, lý tưởng cao đẹp, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta luôn kiên định thực hiện.

Cách mạng tháng 8 tỏa sáng vào dân tộc khát vọng Việt Nam có thể sánh vai với các nước giàu mạnh trên thế giới. Những giá trị có ý nghĩa nhân văn cao cả là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Một nguyên tắc bất di bất dịch và cũng là phương châm của Cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc phải được gắn bó chặt chẽ với tự do và hạnh phúc của nhân dân.

Trong suốt cuộc đời, Bác luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi con người, quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe; trẻ em được ni dưỡng, chăm sóc; người già, người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ. Các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được đề cao và hoàn thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất về cả tư tưởng và hành động, trong chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật mà Người muốn thực hiện hố. Khơng có độc lập chân chính, vững chắc thì khơng thể nào thực hiện đầy đủ quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản, thiết thực của con người.

Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với con đường xây dựng

<i>chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, em sẽ phân tích luận điểm: “Nước độclập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”</i>

và làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>NỘI DUNG</b>

<b>1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc</b>

a) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc

Độc lập, tự do là quyền tự nhiên, quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của

<i>mỗi quốc gia, đó là quyền “thiên định” khi con người được sinh ra trên trái đất. Đó là</i>

quyền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn trên tất cả các lĩnh vực về chính trị, kinh tế,

<i>văn hóa, xã hội, ngoại giao, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. “Tự do” có</i>

nghĩa là khả năng của các cá nhân được đưa ra lựa chọn của riêng họ và làm những gì họ muốn mà không bị hạn chế. Quyền tự do của một quốc gia là quyền dân tộc tự quyết. Tất cả các quốc gia, tổ chức lớn trên thế giới đều phải tôn trọng quyền này.

<i>Khi mở đầu Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Bác Hồ đã khẳng định những giátrị thiêng liêng bất biến về quyền dân tộc bằng việc trích câu nói trong Tun ngơnĐộc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", và trong Tuyên ngônNhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự dovà bình đẳng về quyền lợi, và phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.</i>

Điều này cho ta thấy rằng con người từ khi sinh ra đã có quyền sống, quyền hưởng tự do, hạnh phúc. Trải qua hàng vạn năm đấu tranh khắc nghiệt, con người gắn bó với nhau trong một vùng lãnh thổ nhất định và tạo nên quốc gia với bản sắc riêng. Sự xâm lược của nước ngoài với những chính sách thống trị, đàn áp tàn bạo đã bắt họ trở thành nô lệ, mất đi độc lập, tự do và họ bị lệ thuộc vào các nước đế quốc. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến bao cuộc chiến đấu chống lại âm mưu xâm lăng của của các nước đế quốc của các dân tộc trên thế giới nhằm đòi lại độc lập, tự do – quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Đối với dân tộc Việt Nam thì khát vọng được độc lập, tự do luôn luôn rực cháy mãnh liệt nhất trong mỗi người dân đất Việt. Dân tộc ta từ khi dựng nước tiến hành hơn 200 cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Khi giặc đến thì nhân dân ta khơng phân biệt là già trẻ hay gái trai, tất cả đều cùng đồng lòng, chung sức kiên quyết chống lại và đứng lên giành cho bằng được độc lập dân tộc. Những cuộc kháng chiến vẻ vang trong lịch sử ta: khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống nhà Đông Hán - cuộc khởi nghĩa đầu tiên chống Bắc thuộc, khởi nghĩa Ngô Quyền chống quân Nam Hán, khởi nghĩa Quang Trung chống lại nhà Xiêm và nhà Thanh,… đã trở thành bản anh hùng ca vẻ vang trong trang sử của dân tộc ta. Rồi sau đó là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ác liệt, toàn nhân dân ta đã đứng lên chiến đấu anh dũng, kiên cường không ngại hy sinh gian khổ để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc mặc cho kẻ thù mạnh hơn rất nhiều lần. Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền độc lập, tự do trên thế giới:

<i>“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”.</i>

b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân

<i>“Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dântộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nói đến hai từ “Tự do” và “Hạnh phúc” là ta sẽ</i>

nghĩ ngay đến hình ảnh người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng.

<i>Nói đến ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn và học thuyết “Tam dân” đối với Hồ</i>

Chí Minh, trước hết phải kể đến lịng tơn kính, sự khâm phục, trân trọng của Hồ Chí Minh đối với Tơn Trung Sơn. Trong tồn bộ tư tưởng của mình, Người đã kế thừa, phát triển nhiều tư tưởng của Tôn Trung Sơn. Người chủ trương xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng hồ có độc lập, tự do, hạnh phúc. Bác Hồ mong mỏi độc lập cho nhân dân, tự do cho đồng bào. Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc là niềm mong mỏi khôn nguôi của Người. Tư tưởng của Tôn Trung Sơn in đậm dấu ấn trong tư tưởng của Người. Hồ Chí Minh đã thận trọng lọc ra, bảo tồn và phát

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

triển Chủ nghĩa Tam dân, nhào nặn với thực tiễn Việt Nam, dưới học thuyết Chủ nghĩa Mác- Lênin.

Theo Bác Hồ, độc lập dân tộc phải được gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân. Đó là mục tiêu như đã nói ở trên nhưng cũng là nguyên tắc bất di bất dịch của Cách mạng Việt Nam. Ngay sau Cách mạng Tháng 8 thành cơng, trong hồn cảnh nhân dân phải sống trong khổ cực, chịu đói, chịu rét, khơng biết chữ,…, Người

<i>đã bày tỏ rằng: “ Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao chonước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơmăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Để cho độc lập gắn liền vơi hạnh phúc của nhândân, Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn,Làm cho dân có mặc, Làm cho dân có nhà, Làm cho dân có học hành”. Một nước</i>

Việt Nam độc lập, nhân dân Việt Nam được tự do, hạnh phúc luôn là tâm niệm canh cánh đến tận cuối đời của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh.

c) Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để

Mọi dân tộc trên thế giới phải được hưởng một nền độc lập thật sự, độc lập hồn tồn. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và

<i>triệt để trên tất cả các lĩnh vực. Bác Hồ đã nhấn mạnh: “Độc lập mà người dân khơngcó quyền tự quyết về ngoại giao, khơng có qn đội riêng, khơng có nền tài chínhriêng…, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì”. Người đã khẳng định rằng nhân dân</i>

Việt Nam quyết đấu tranh cho dân tộc - chủ quyền – tồn vẹn lãnh thổ. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám cịn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngồi bao vây tứ phía, để bảo vệ nền độc lập mới giành được, Người đã cùng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa sử dụng nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp ngoại giao, để đảm bảo nền độc lập thực sự của đất nước.

d) Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia nước ta thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ), với những chính sách khác nhau trên mọi lĩnh vực nhằm tạo ra sự khác biệt giữa ba miền với âm mưu chia cắt vinh viễn. Với quyết tâm mãnh liệt và ý chí sắt đá, Hồ Chí Minh đã kiên trì, đấu tranh chống lại

<i>âm mưu chia cắt đất nước, thống nhất Tổ quốc: “Nước Việt Nam là một, dân tộc ViệtNam là một”. Đến khi Bác mất, trong Di chúc, Người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vàosự thắng lợi của cách mạng, sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đếnmấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cútkhỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽsum họp một nhà”. Thực hiện tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã</i>

tiến hành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975 và độc lập dân tộc từ đó gắn liền với toàn vẹn lãnh thổ.

<b>1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội</b>

a) Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh khơng khơng định nghĩa chủ nghĩa

<i>xã hội. Với cách diễn đạt đơn giản, dễ hiểu, khái niệm “chủ nghĩa xã hội” được</i>

Người tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau bằng cách chỉ ra đặc trưng ở lĩnh vực nào đó (kinh tế, chính trị, văn hóa…) của chủ nghĩa xã hội song tất cả đều hướng đến mục

<i>tiêu cơ bản: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làmcho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn, việc làm,được ấm no và sống một đời hạnh phúc”.</i>

Hồ Chí Minh khẳng định mục đích của cách mạng Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản vì: Chủ nghĩa Cộng sản có hai giai đoạn là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn đều có kinh tế tư liệu sản xuất đều là của chung, sức sản xuất đã phát triển cao, khơng có giai cấp áp bức, bóc lột.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Còn khác nhau ở chỗ trong khi chủ nghĩa xã hội vẫn cịn chút ít vết tích xã hội cũ thì Xã hội cộng sản khơng cịn vết tích xã hội cũ.

Như vậy, chủ nghĩa xã hội là ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa công sản. Mặc dù còn tồn động nhiều tàn dư của xã hội cũ, nhưng chủ nghĩa xã hội khơng cịn áp bức, bóc lột, nhân dân làm chủ. Con người được sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau

b) Một số đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa

Thứ nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ Thứ hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát. triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình cao về văn hóa và đạo đức, đảm bảo sự cơng bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội.

Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là cơng trình tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

<b>2. Độc lập dân tộc phải được gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân</b>

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cả đời cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, phá tan ách đơ hộ, xố bỏ mọi áp bức, bóc lột, mang lại độc lập cho Tổ quốc, mang lại hồ bình, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân. Khơng chỉ vậy, Người ln hết lịng vào cơng cuộc giải phóng con người, chiến đấu giải phóng nhân loại khổ đau, chịu áp bức, bóc lột trên tồn thế giới.

Vì mục tiêu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phấn đấu khơng ngừng và đã kết tinh thành một tinh thần, một ý chí và thành một tư tưởng xuyên suốt trong mọi hoạt động của Người. Tư tưởng và sự nghiệp cách mạng đấy của Người xuất phát từ nhân văn

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>cao cả: “Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đaukhổ bị áp bức”.</i>

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng cuộc sống no ấm, hạnh phúc cho nhân dân đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện thực hóa bằng những đường lối, chủ trương, chính sách và từng bước được hiện thực hóa thành cơng, thể hiện sinh động trong thành tựu đạt được qua các chặng đường lịch sử cách mạng đầy vẻ vang của Đảng và dân tộc ta trong suốt chặng đường lịch sử từ năm 1930 đến ngày nay. Ngay sau khi dân tộc vừa thốt khỏi ách đơ hộ của ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định công việc chăm lo đời sống cho người dân, khắc phục hậu quả của chế độ thực dân, phong kiến, nghèo đói cùng cực và nguy cơ nạn đói là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ mới.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập dân tộc và mang lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là hai mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam.

<i>Người đã nhấn mạnh: “Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc, tự do, thìđộc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Bởi vậy, ngay từ khi lên nắm quyền, Chủ tịch Hồ</i>

Chí Minh cùng Chính phủ tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách cụ thể là: xố bỏ nạn đói, nạn dốt và các tệ nạn xã hội; bãi bỏ thuế thân, thuế chợ; thực hiện tín ngưỡng tự do,... Đó là những chủ trương, biện pháp và bước đi quan trọng nhằm mang lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho người dân.

Quan điểm chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao hàm các nội dung cơ bản sau: đời sống của người dân phải được cung cấp đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần; nhân dân phải được tự do với một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý đảm bảo quyền con người của người dân một cách trọn vẹn và người dân thực sự là chủ trong xã hội mới.

Theo Hồ Chí Minh, việc chăm lo, xây dụng tốt một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân trước hết là phải xây dựng nhà nước thât sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Để Nhà nước giữ vững bản chất nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ quản

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

lý xã hội, tổ chức xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc. Ngay sau khi Cách mạng Tháng 8 thành cơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp, khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Đồng thời, Người xây dựng và chấn chỉnh bộ máy chính quyền các cấp, bảo đảm là hạt nhân chính trị chế độ xã hội mới với bản

<i>chất tốt đẹp. Bác nhắc nhở “Các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc cho đến cáclàng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phảiđể đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi chodân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phảiu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Với tư tưởng này, nhân dân ngày càng</i>

được quan tâm và thực sự là chủ thể trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

Như vậy, độc lập dân tộc và CNXH hay độc lập dân tộc với tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay, Đảng ta thể hiện quan điểm đó ở mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là thước đo sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH trong thực tiễn.

Quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân được Đảng và Nhà nước Việt Nam quán triệt, hiện thực hóa thành đường lối, chủ trương, chính sách. Trở thành một trong các nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt quá trình cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ xây dựng CNXH. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là thước đo và tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân.

<b>3. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay</b>

<i>Luận điểm "Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độclập chả có ý nghĩa gì" là một luận điểm có ý nghĩa sâu sắc, phản ánh mối quan hệ</i>

giữa độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Về mặt ý nghĩa, luận điểm này khẳng định độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân là hai mục tiêu có ý nghĩa quan trọng và gắn bó mật thiết với nhau. Độc lập dân tộc là cơ sở để bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Khi đất nước độc lập, nhân dân mới có quyền tự do phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần mà mình tạo ra. Hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu cuối cùng của mọi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nếu nhân dân khơng được hưởng hạnh phúc thì độc lập dân tộc cũng khơng có ý nghĩa.

Về mặt thực tiễn, luận điểm này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Người đã khẳng định rằng mục đích của cuộc cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, thực hiện độc lập dân tộc và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Luận điểm này đã trở thành kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam, dẫn dắt nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau hơn 37 năm đổi mới toàn diện (từ 1986 đến nay), Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, tạo nên kỳ tích cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Nước ta đã vượt qua khủng hoảng kinh tế, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng trong kỷ nguyên mới của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nền kinh tế phát triển tốt, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần hình thành và phát triển. Đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đã nhanh chóng đạt được và được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống nhân dân có những thay đổi to lớn. Chính trị, xã hội ổn định, quốc phịng, an ninh được củng cố và giữ vững. Sức mạnh đoàn kết mọi mặt của đất nước được tăng cường.

</div>

×