HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VANHSENG KEOBOUNPHANH
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VANHSENG KEOBOUNPHANH
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. LÊ MINH TÂM
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận án
Vanhseng KEO BOUN PHANH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp
quyền và khái niệm nhà nước pháp quyền
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
2.3. Tư tưởng Kay-són PHÔM-VI-HÁN về xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân
2.4. Bản chất và những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân
2.5. Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào của dân, do dân và vì dân
2.6. Một số kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam có thể
nghiên cứu, vận dụng vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân
Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN LÀO VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN,
DO DÂN VÀ VÌ DÂN
3.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào qua các thời kỳ
3.2. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
của dân, do dân và vì dân
Chương 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA
DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1. Những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân
4.2. Những giải pháp cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
6
6
21
29
31
31
44
55
62
77
83
94
94
104
125
125
132
151
156
157
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHDCND
:
Cộng hòa dân chủ nhân dân
KTTT
:
Kinh tế thị trường
NDCM
:
Nhân dân cách mạng
NNPQ
:
Nhà nước pháp quyền
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường
(KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Đảng nhân dân cách mạng
(NDCM) Lào rất chú trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới, làm cho Nhà nước thật sự là nhà
nước của dân, do dân và vì dân, đáp ứng các yêu cầu trong việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền (NNPQ). Xây dựng NNPQ là đòi hỏi cấp thiết khách quan, là nhiệm vụ
chiến lược, chỉ có NNPQ mới có khả năng quản lý mọi mặt đời sống xã hội một
cách hiệu quả, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội đất nước, góp phần đẩy mạnh
hội nhập quốc tế, kế thừa và tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của thế giới. Xây
dựng NNPQ sẽ thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội, cải cách hành chính, tăng
cường hiệu lực của hệ thống chính trị, nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán
bộ công chức nhà nước, tạo khuôn khổ pháp lý cho nền KTTT và đẩy mạnh xây
dựng và hoàn thiện các thể chế của xã hội công dân.
Sau Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ V (1991), Hiến pháp nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào ra đời. Đây là một sự kiện quan trọng trong đời
sống chính trị của nước CHDCND Lào. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị
pháp lý cao nhất, thể chế hóa đường lối do Đảng NDCM Lào đề ra trong “Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Hiến pháp 1991
là cơ sở pháp lý căn bản để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng NNPQ
và nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở CHDCND Lào.
Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ VIII (2006) đã khẳng định nhiệm vụ của
Nhà nước CHDCND Lào là tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước theo hướng xây dựng NNPQ CHDCND Lào “Phát huy nhà nước
dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào” [103, tr.59].
Vấn đề xây dựng NNPQ trong điều kiện ở CHDCND Lào hiện nay là hết
sức mới mẻ, còn gặp nhiều khó khăn thử thách, là công việc lâu dài, phức tạp và hệ
trọng, đòi hỏi nhiều giải pháp các yếu tố liên quan đến điều kiện chính trị, kinh tế -
2
xã hội, truyền thống lịch sự, văn hóa, tâm lý dân tộc, nhu cầu xã hội, quan hệ quốc
tế. Việc xác định các giải pháp xây dựng NNPQ phải gắn được lý luận với thực tiễn,
các giải pháp được nêu ra cần phải phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước của
CHDCND Lào và xu hướng phát triển của khu vực và thế giới hiện nay.
Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện NNPQ CHDCND Lào đã
trở thành một trong những nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước Lào nói chung và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng. Việc xây dựng NNPQ
CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện,
có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn để xây dựng cơ sở khoa học cho việc
thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, giải pháp, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của đất nước Lào. Trong thời gian vừa qua, ở CHDCND Lào đã có một số công
trình, đề tài nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền, tuy nhiên qua nghiên cứu và tổng
hợp các công trình nghiên cứu khoa học, tạp chí đã được công bố trong nước có thể
khẳng định, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
và có hệ thống về xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân ở cấp
độ một luận án tiến sĩ luật học. Để góp phần vào việc giải quyết nhiệm vụ quan
trọng này, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân” làm đề tài luận án tiến sĩ
luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích những giá trị có tính phổ biến
và những yếu tố hợp lý của NNPQ có thể vận dụng vào quá trình xây dựng NNPQ
CHDCND Lào; xây dựng luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng NNPQ
CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
Nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận án gồm:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về NNPQ và thực tiễn xây dựng
NNPQ ở một số nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam để xác định những giá trị
có tính phổ biến, những yếu tố hợp lý và những kinh nghiệm có thể tiếp thu và vận
dụng vào quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
- Làm rõ một số tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN
và của Đảng NDCM Lào về xây dựng NNPQ; phân tích đặc điểm, điều kiện và các
3
yếu tố đặc thù có tác động và ảnh hưởng đến quá trình xây dựng NNPQ CHDCND
Lào của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở đó xác định bản chất, đặc điểm, chức
năng, nhiệm vụ của NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
- Phân tích khái quát quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước
CHDCND Lào và quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì
dân, khẳng định những kết quả, thành tựu đã đạt được, chỉ ra những hạn chế, khó
khăn và những yêu cầu đặt ra trong quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của
dân, do dân và vì dân.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ CHDCND
Lào của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là những vấn đề lý luận về Nhà nước pháp
quyền, những giá trị có tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền, kinh nghiệm và bài
học về xây dựng Nhà nước pháp quyền của một số nước nhất là của Việt Nam có
thể vận dụng cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; những tư tưởng của Hồ Chí
Minh, của Kay-són PHÔM-VI-HÁN; các chủ trương, quan điểm của Đảng NDCM
Lào, chính sách, pháp luật của Nhà nước CHDCND Lào về xây dựng NNPQ; các
kết quả nghiên cứu khoa học, tổng kết, đánh giá thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở CHDCND Lào đã được công bố trong những năm gần đây.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ
luật học thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, phạm vi
nghiên cứu của đề tài được giới hạn như sau:
Về cơ sở lý luận, luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu lý luận cơ bản
về Nhà nước pháp quyền, nghiên cứu một cách khái quát lịch sử hình thành và
phát triển tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái niệm Nhà nước pháp quyền, chú
trọng phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh và của Kay-són PHÔM-VI-HÁN về
Nhà nước pháp quyền; tập trung phân tích và làm rõ bản chất, đặc trưng, chức
năng, nhiệm vụ của NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì dân; điều kiện,
hoàn cảnh, các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của
dân, do dân và vì dân.
4
Về thực tiễn, luận án nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của Nhà
nước CHDCND Lào và quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân,
vì dân; nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tập trung phân tích những vấn đề còn tồn
tại, bất cập để tìm ra những nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và
giải pháp nhằm hoàn thiện xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì
dân hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Kay-són PHÔM-VI-HÁN, quan điểm của Đảng NDCM Lào về
Nhà nước và pháp luật nói chung và về NNPQ CHDCND Lào nói riêng.
- Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
trong luận án bao gồm: Phương pháp logich - lịch sử được sử dụng cho việc nghiên
cứu một số nội dung của Chương 1, 2 và 3; phương pháp phân tích, tổng hợp và so
sánh được sử dụng cho quá trình nghiên cứu của tất cả các chương; phương pháp
phân tích tài liệu, phân tích thực tiễn và xã hội học được sử dụng để nghiên cứu một
số nội dung của Chương 1,2 và 3; phương pháp tiếp cận hệ thống, kết hợp lý luận
và thực tiễn được sử dung trong Chương 2, 3 và 4. Đồng thời, trong quá trình
nghiên cứu tác giả luận án cũng chú trọng sử dụng kết hợp một cách linh hoạt các
phương pháp của luật học với triết học và chính trị học.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án nghiên cứu xác định những giá trị lý luận có tính phổ biến về
NNPQ có thể tiếp thu và vận dụng vào quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào
của dân, do dân và vì dân.
- Luận án góp phần làm rõ quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng
NDCM Lào và Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về xây dựng NNPQ
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân
- Phân tích, đánh giá một cách tương đối có hệ thống toàn diện thực trạng và
những ưu điểm và hạn chế tồn tại trong việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của
dân, do dân và vì dân.
5
- Luận án đề xuất một số quan điểm và các giải pháp chủ yếu xây dựng
NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Với kết quả của luận án đạt được, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về vấn đề liên quan đến việc xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào.
7. Kết luận của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 13 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về các vấn đề cụ thể trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền
Xây dựng NNPQ đang trở thành một xu thế khách quan tất yếu đối với các
quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Ở nhiều nước ở phương Tây và phương
Đông đã có những công trình nghiên cứu về NNPQ được tiến hành trên nhiều góc
độ khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu sau đây:
- C.Mác, Ph.Ăngghen, Góp phần phê phán triết học pháp quyền [35, tr.2021]. Trong quá trình phê phán học thuyết của Hêghen, C.Mác cho rằng không phải
nhà nước sinh ra xã hội, mà chính gia đình và xã hội dân sự là những tiền đề của
nhà nước, chính chúng mới là yếu tố thực sự tích cực. Cho nên việc nghiên cứu nhà
nước phải dựa vào phân tích xã hội công dân. Đó là kết quả của quá trình tiếp thu có
phê phán của C.Mác với tư tưởng về Triết học pháp quyền của Hêghen, phủ nhận
quan điểm có tính tiêu cực đối với công cuộc đấu tránh giải phóng con người và xã
hội loài người. Hệ thống lý luận này đã từng đóng vai trò quan trọng, tạo động lực
mạnh mẽ, trang bị nền tảng lý luận cho các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng con người trên toàn thế giới.
- Albert Ven Diecy (1885), “Introduction to the study of the law of the
Constitution” (Giới thiệu về các nghiên cứu về luật hiến pháp) [92, tr.16-17]. Dicey
là người Vương quốc Anh đầu tiên sử dụng khái niệm pháp quyền (rule of law) một
cách rộng rãi. Học thuyết của ông có ảnh hưởng hết sức sâu rộng trong giới thẩm
phán và luật sư theo hệ thống luật án lệ (common law). Nội dung chính của học
thuyết pháp quyền do Dicey khởi xướng nhấn mạnh một số khía cạnh sau:
+ Sự ngự trị tuyệt đối của pháp luật như là sự hạn chế ảnh hưởng của việc
sử dụng quyền lực một cách tùy tiện. Yêu cầu đầu tiên và chủ yếu đối với chế độ
pháp quyền là không có chuyên quyền và tùy tiện trong lĩnh vực Luật Hình sự và
tự do cá nhân;
7
+ Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai được đứng trên pháp
luật, tất cả mọi người không phụ thuộc vào đẳng cấp và các điều kiện khác đều là
đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Yêu cầu này cũng đòi hỏi các viên chức chính
phủ phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với việc gây ra thiệt hại như bất kỳ cá
nhân nào trong xã hội;
+ Các nguyên tắc trong hiến pháp không phải là nguồn gốc mà là kết quả của
những quyền của cá nhân.
- Dr. Prof. Richard H. Fallon (1997), “The rule of law” as a concept in
Constitutional discourse (Các quy định của pháp quyền là một khái niệm trong
ngôn ngữ Hiến pháp) [92, tr.31-32]. Ông cho rằng sự phát triển của học thuyết pháp
quyền đã làm cho các yếu tố cơ bản của pháp quyền ngày càng được mở rộng, giúp
cho học thuyết pháp quyền thích ứng và đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Dưới ánh sáng pháp quyền, pháp luật chỉ là pháp luật thực sự khi đáp ứng
được chức năng cơ bản của nó là hướng dẫn hành vi con người. Trên cơ sở phân
tích, tổng hợp các học thuyết pháp quyền hiện đại, ông khẳng định pháp quyền
được công nhận khi có đủ các yếu tố như: Khả năng của các quy tắc pháp lý, chuẩn
mực, nguyên tắc trong việc hướng dẫn người dân thực hiện công việc của họ. Mọi
người phải có thể hiểu pháp luật và tuân thủ chúng; tính hiệu lực của pháp luật,
pháp luật phải thực sự hướng dẫn dân chúng; tính ổn định, để giúp các cá nhân triển
khai các kế hoạch và phối hợp hành động trong tương lai, pháp luật cần phải có sự
ổn định hợp lý; tính tối cao của pháp luật, pháp luật cần phải chi phối mọi công
chức, thẩm phán và người dân bình thường; những thiết chế để thực thi một nền
công lý không thiên vị với những thủ tục xét xử công bằng.
Để đạt được yêu cầu này, pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Pháp
luật phải mang tính tổng quát; pháp luật phải được công bố công khai, không được
giữ bí mật; pháp luật không được hồi tố; pháp luật phải rõ ràng; pháp luật phải hài
hòa, không được mâu thuẫn; pháp luật không được đưa ra những điều khoản không
thực hiện được; pháp luật phải mang tính ổn định; pháp luật phải được áp dụng một
cách nhất quán.
- Josel Thesing biên tập (2002), Nhà nước pháp quyền, gồm một số tiểu luận
của các học giả nước ngoài [24]. Nghiên cứu của các tác giả tập trung giải quyết
8
nhiều vấn đề liên quan đến các giá trị của Nhà nước pháp quyền và chế độ pháp trị
như: nhà nước tồn tại để đem lại lợi ích cho công dân của mình; chế độ pháp trị là
một sự bảo vệ dân chủ và quyền con người, ở đó có sự ràng buộc của pháp luật và
công lý với quyền lực nhà nước, sự kiểm soát quyền lực nhà nước bằng phân định
quyền lực, đề cao dân chủ và quyền tài phán hiến pháp. Đặc biệt các nghiên cứu
còn quan tâm làm rõ các điều kiện tiên quyết, cũng như các khó khăn thách thức đề
thực thi chế độ pháp trị.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết về Nhà nước pháp quyền của tác giả nước
ngoài ở phương Tây như: David Kairys (2003), Researching for Rule of Law,
Suffolk University Law Review (Nghiên cứu Nhà nước pháp quyền, tạp chí ĐH
Suffolk); John K.M Ohnesorge (2007), The Rule of Law, University of Wisconsin
law school (viết về Nhà nước pháp quyền với đặc trưng cơ bản); Mathias Koeter:
Rechtssaat and Rechsstaatlichkeit in Germany, Research Papers Series:
Understandings of the Rule of Law in various Legal Orders of the World, 2010,
ISSN 2192 - 6905 (Tìm hiểu về Nhà nước pháp quyền trong các trật tự pháp lý khác
nhau của thế giới)…
Cũng như ở Việt Nam, trong những năm gần đây cũng có nhiều cuốn sách,
luận án, luận văn và bài báo đăng trên tạp chí nghiên cứu về NNPQ, điển hình như:
Về sách, luận án đã tham khảo nhiều sách chuyên khảo, tham khảo về
NNPQ đã được công bố trong đó có một số sách tiêu biểu như:
- Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của dân,do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn [63]. Mục tiêu và
nhiệm vụ của cuốn sách này là xây dựng cơ sở lý luận về NNPQ XHCN, đưa ra
những luận điểm khoa học có tính hệ thống về NNPQ XHCN của dân, do dân, vì
dân. Trên cơ sở nghiên cứu của đề tài, các tác giả đã đề cập đến học thuyết NNPQ, sự
vận dụng và những đặc trưng của học thuyết NNPQ trong lịch sử phương Tây và
phương Đông, đồng thời đã khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về
NNPQ của dân, do dân, vì dân là cơ sở tư tưởng rất quan trọng định hướng quá trình
xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam. NNPQ không phải là sản phẩm riêng của xã
hội tư bản chủ nghĩa mà có thể được xây dựng trong xã hội XHCN; NNPQ XHCN
9
khác với NNPQ tư sản ở mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ; sự khác nhau đó được
quy định bởi cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chế độ XHCN. Với bản chất của nhà
nước XHCN Việt Nam, tác giả khái quát và trình bày rõ khái niệm, đặc trưng cơ bản
và chức năng của NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân, đồng thời nghiên cứu các
yếu tố quy định, chi phối quá trình xây dựng NNPQ ở Việt Nam. Trên cơ sở lý luận
cũng như thực tiễn, các tác giả đã kiến nghị những vấn đề cụ thể về những phương
hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt
Nam. Để xây dựng NNPQ XHCN, cần tiếp tục nghiên cứu những vấn đề mới về lý
luận trong quá trình chuyển đổi của đất nước và của các yếu tố quốc tế. Tiến hành đổi
mới tiếp tục hệ thống chính trị, tăng cường sự lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, cải cách mạnh mẽ bộ máy nhà nước, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức tốt việc thi hành pháp luật. Xây dựng
cơ chế phản biện xã hội và giám sát xã hội, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho xã hội
dân sự hoạt động bình thường và lành mạnh.
- Đạo Trí Úc (2007): Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [84]. Tác giả đã tiếp cận dưới góc độ phân tích
của khoa học pháp lý, trên cơ sở khái quát về mô hình thiết kế tổ chức bộ máy nhà
nước trên thế giới, nêu bật sự khác biệt và tính phổ quát về NNPQ. Trong đó phân
tích chỉ rõ NNPQ là yêu cầu, giá trị cơ bản của chế độ dân chủ, tạo nên sự đồng
thuận xã hội. Với bản chất nhà nước XHCN Việt Nam, tác giả khái quát và nêu rõ
những đặc trưng của NNPQ dân chủ XHCN. Đồng thời, với việc nghiên cứu phân
tích thực trạng tổ chức và phương thức hoạt động của cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp, từ đó đề xuất mô hình tổng thể hoạt động của các thiết chế trong NNPQ
XHCN Việt Nam. Mặt khác, tác giả đề xuất mô hình tổng thể các cơ chế kiểm tra,
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong NNPQ XHCN, cụ thể trực tiếp đề
xuất, xây dựng mô hình kiểm tra, giám sát bên ngoài bộ máy nhà nước bao gồm:
Kiểm tra Đảng, giám sát của MTTQ, các đoàn thể nhân dân, thanh tra nhân dân, cá
nhân, công dân đối với hoạt động bộ máy nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Tạ Xuân Đại (2004): Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, [10]. Tác giả
10
đã nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tác giả đã đưa ra nhiều luận cứ khoa học về xây dựng NNPQ XHCN
Việt Nam không hề mâu thuẫn với sự lãnh đạo của một Đảng cầm quyền. Sự lãnh
đạo của Đảng Công sản Việt Nam là điều kiện để xây dựng NNPQ XHCN Việt
Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng nhà nước và thực hiện quyền
giám sát đối với mọi tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị xã hội, kể cả tổ chức Đảng.
Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là xây dựng, bảo đảm, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, làm cho tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đó cũng chính là bản
chất và yêu cầu của việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong công trình nghiên cứu khoa học này, tác giả đã đề cập đến 6 vấn đề có
tính tổng thể. Phần thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì
dân. Phần thứ hai, đối mới tổ chức và hoạt động của quốc hội đáp ứng yêu cầu xây
dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Phần thứ ba, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ đáp
ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần thứ tư, đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần thứ năm,
xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ
XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Phần thứ sáu, đề xuất, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN
Việt Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đặc biệt trong công trình nghiên cứu khoa học này, tác giả đã đưa ra cơ sở lý
luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, sau
khi phân tích những thành tựu nổi bật tác giả cũng chỉ ra những bất cập, hạn chế của
các cấp ủy trong thời gian qua, đồng thời, đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt
Nam của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
11
- Trần Ngọc Đường, Ngô Đức Mạnh (2008): Mô hình tổ chức và phương
thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, [19]. Trên cơ sở phân tích các yêu cầu về chủ quyền tối cao của
nhân dân, tính tối cao của pháp luật, các tác giả đưa ra mô hình tổ chức và phương
thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ để nâng cao chất lượng hoạt động, tính
đại diện nhân dân của Quốc hội, tính trách nhiệm cao của Chính phủ làm cơ sở cho
một nhà nước phục vụ nhân dân.
- Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân [69]. Với
công trình nghiên cứu này, tác giả đề cập tới lịch sử NNPQ, khai thác một cách triệt
để, đầy đủ những giá trị tư tưởng của loài người đã được các nhà tư tưởng ở mọi
thời đại viết về NNPQ; nêu ra một số quan điểm về NNPQ; khái quát lại những giá
trị phổ biến của tư tưởng NNPQ trong sự phát triển của xã hội; làm rõ tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng NNPQ XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời đã chỉ rõ thực tiễn tổ chức nhà
nước theo hướng NNPQ hiện nay trên thế giới về phân quyền hoặc phân công và
phối hợp quyền lực như ở Mỹ, ở Cộng hòa Liên bang Nga. Trên phương diện lý
luận và thực tiễn, tác giả đã trình bày một số quan điểm và nội dung cơ bản xây
dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời tác giả đề
cập đến một số nhiệm vụ cấp bách trước mắt: đổi mới, kiện toàn bộ máy đảng; đổi
mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội; đội ngũ CBCC được xây dựng
trong sạch, có năng lực, gần dân và vì dân.
- Lê Văn Quang, Văn Đức Thành (2006), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay [62]. Các tác giả làm rõ khái niệm
định chế xã hội và các đặc trưng của NNPQ trong vai trò là một định chế xã hội đặc
biệt. Vai trò của các định chế xã hội trong xây dựng NNPQ. Từ đó, phân tích vao
trò của NNPQ với các định chế xã hội và các vấn đề rút ra từ thực tiễn các mối quan
hệ. Trên cơ sở đó các tác giả đưa ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện NNPQ và
các định chế xã hội ở nước ta hiện nay.
12
- Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn [85]. Trong cuốn sách này các tác giả đã nghiên cứu về đặc trưng của NNPQ
Việt Nam, trên cơ sở phân tích, xác định, khẳng định giám sát xã hội đối với việc
thực hiện quyền lực Nhà nước là tất yếu, bởi lẽ quyền lực Nhà nước do con người
cụ thể thực thi, trong bản thân con người bao giờ cũng có chứng bệnh quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền có thể dẫn đến việc áp dụng sai pháp luật mặc dù pháp luật vốn
là công bằng và hợp lý. Vì vậy, nhằm bảo đảm quyền lực Nhà nước vận hành đúng
quỹ đạo bản chất Nhà nước XHCN Việt Nam, phải xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với việc thực thi quyền
lực Nhà nước. Để thực hiện quyền giám sát ấy, phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng,
đổi mới chức năng của NNPQ, xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến và hợp pháp trong hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền,
hiện thực hóa dân chủ trên cơ sở mở rộng xã hội dân sự ở Việt Nam, cải cách tư
pháp bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Công trình nghiên cứu với
nhiều tác giả tham gia, do đó, mỗi tác giả nghiên cứu dưới một chuyên đề cụ thể,
nên tính hệ thống chưa toàn diện. Nhưng công trình là cơ sở khoa học cho nghiên
cứu sinh tham khảo, tiếp thu rất bổ ích.
- Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam - Lý luận và thực tiễn [36]. Tác giả tập trung nghiên cứu phân tích
làm rõ cơ sở lý luận, những đặc trưng cơ bản của NNPQ XHCN; trong đó, khái
quát có hệ thống những quan điểm, tư tưởng về NNPQ trong lịch sử nhân loại, quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
kiểu mới. Sau khi phân tích lập luận về nhà nước và pháp luật kiểu mới, tác giả đã
đi sâu phân tích trên cơ sở khoa học và luận giải về bản chất giai cấp nhà nước kiểu
mới là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, đó là một nhà nước XHNC trong sạch; ngăn chặn loại trừ được quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiên cực khác trong bộ máy nhà nước, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước kiểu mới, đồng thời nhà nước kiểu mới
phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ
13
công chức nhà nước. Cuốc sách đã tập trung hệ thống về quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam nhận thức về NNPQ kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành
lập và Nhà nước Việt Nam giành được chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Trong phần tiếp theo, tác giả đã đánh giá những thành tựu cũng như
những hạn chế tồn tại trong thực tiễn xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam trong
những năm qua. Trên cơ sở tổng kết đánh giá một cách khoa học toàn diện, tác giả
đã đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN của
dân, do dân, vì dân ở nước Việt Nam.
- Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam [20]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đề cấp đến 3 vấn đề có
tính tổng thể. Phần thứ nhất, cơ sở lý luận về phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực trong các kiểu nhà nước. Trong phần này tác giả nêu ra quan điểm về
quyền lực; phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong lịch sử
và phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong các nhà nước chủ
nô, phong kiến và tư sản, sau đó, tác giả đã phân tích, lý giải tính tất yếu khách
quan, bản chất và đặc điểm phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà
nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phần thứ hai, tác
giả đã phân tích phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam qua các thời kỳ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992
(đã sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong phần cuối, tác giả đã đưa ra và phân tích
phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện việc phân công, phối hợp và kiểm
soát quyền lực nhà nươc trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Ngoài các sách tham khảo nêu trên, còn có nhiều tác giả viết về xây dựng
NNPQ XHCN Việt Nam như: cuốn sách, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, do Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa;
cuốn sách, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, do Nguyễn
Trọng Thó; sách chuyên khảo, Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam theo quan
điểm Mácxít, do Trương Quốc Chính…
14
Về luận án, luận văn và các bài báo đăng trên tạp chí về Nhà nước
pháp quyền:
- Trần Thị Ánh Tuyết (2000), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Đại học Luật Hà Nội [81]. Tác giả đã trình bảy về quá trình hình thành và
phát triển của tư tưởng về Nhà nước pháp quyền và các giá trị phổ biến của Nhà
nước pháp quyền; trong chương tiếp tác giả lý giải, phân tích cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong phần cuối luận
văn đã đề xuất những phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
- Đào Ngọc Tuấn (2002), Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội [80]. Nội dung luận án tác giả đã chủ yếu nghiên cứu lôgic
của sự hình thành và phát triển khái niệm NNPQ, chỉ ra các tiêu chí phổ biến của
NNPQ; Phân tích các điều kiện đặc thù của đất nước và ảnh hưởng của chúng đối
với việc tiếp thu những giá trị phổ biến của NNPQ. Luận án nêu bật việc vận dụng
nhuần nhuyễn giữa tính phổ biến và tính đặc thù, làm cho những giá trị phổ biến trở
nên tương thích với trình độ phát triển của đất nước, cũng như đáp ứng được tôn
chỉ, mục đích của Đảng là điều kiện tiên quyết trong quá trình xây dựng NNPQ Việt
Nam. Ngoài ra tác giả đã nêu ra khi phân tích khái niệm NNPQ cần phải quán triệt
tính lịch sử của nó, do đó việc khảo sát sự vận động của khái niệm này qua các nấc
thang phát triển: quá khứ - hiện tại - tương lai là một nhu cầu tất yếu. Trên cơ sở
đánh giá những thuận lợi và khó khăn do các đặc thù đem lại, luận án đã đề xuất
một số đề xuất có tính nguyên tắc đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu nhà nước
của chúng ta theo hướng NNPQ, trong đó nguyên tắc Đảng lãnh đạo là nguyên tắc
giữ vai trò quyết định trong quá trình xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay.
- Nguyễn Thanh Bình (2004), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền từ sự hình
thành xã hội công dân”, tạp chí Cộng sản (17) [1, tr.33-36]. Tác giả đã nêu ra về
khái niệm xã hội công dân và mối quan hệ giữa xã hội công dân với nhà nước trong
xây dựng NNPQ ở Việt Nam.
15
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến Nhà nước pháp quyền
Hiện nay, ở nhiều nước đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề xây dựng NNPQ tiêu biểu và đa dạng như sau:
- Cuốn sách: Bàn về tinh thần pháp luật, của Montesquieu (2004), do dịch
giả Hoàng Thanh Đạm dịch [49]. Theo tác giả, sau khi được ủy quyền, quyền lực
nhà nước có xu hướng bị lạm dụng, tách rời chủ thể của nó. Vì vậy, quyền lực nhà
nước cần phải được kiểm soát bằng cách dùng quyền lực để chế ước quyền lực theo
nguyên tắc tam quyền phân lập. Tức là quyền lực nhà nước phải được phân chia
cho các cơ quan nhà nước theo chức năng của nó là quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp, các cơ quan nhà nước hoạt động trong cơ chế kiểm chế, đối trọng lẫn nhau,
để không cơ quan nào nắm trọn quyền lực nhà nước và không cơ quan nào nằm
ngoài sự kiểm soát từ cơ quan nhà nước khác.
- Cuốn sách: Bàn về khế ước xã hội, của Jean - Jacques Rousseau (2006), do
dịch giả Hoàng Thanh Đạm dịch [23]. Theo tác giả, quyền lực của cá nhân là bất
khả nhượng, chỉ có thể ủy quyền hoặc bị thoán quyền. Nhà nước được thành lập
trên cơ sở sự đồng thuận xã hội, mỗi cá nhân tự nguyện chuyển giao một phần
quyền lực của mình cho nhà nước trên cơ sở khế ước xã hội, Như vậy, chủ quyền
nhân dân là tối cao và là sự đóng góp chủ quyền từ mỗi cá nhân, quyền lực nhà
nước là quyền lực ủy quyền.
- Cuốn sách: Chế độ dân chủ nhà nước và xã hội, của N.M. Voskresenskaia
và N.B. Davletshina (2008) [50], do dịch giả Phạm Nguyễn Tường. Tác giả đã đề
cập đến các vấn đề quan trọng của một xã hội dân chủ như: khái niệm dân chủ, xã
hội và các giá trị dân chủ, quyền con người, bầu cử, Đảng phái chính trị và các tổ
chức xã hội khác.
Ngoài ra, có thể kể đến Nancy L.Rosenblum, Robert C.post về: Civil Society
and Government (Xã hội dân dự và nhà nước); Jonh Stuart Mill về: Bàn về tự do,
dịch giả Nguyễn Văn Trọng dịch; David Chandler về: Civil Socialty in Asia (Xã hội
dân sự ở Châu Á); Jiunn Rong and Wel Chen Chang, The Changing landscape of
Modern Constitutionnalism: Transitionnal Perspective (Bổi cảnh thay đổi của Chủ
nghĩa hợp hiến hiện đại: Quan điểm và sự thay đổi).
16
Ở Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả liên quan
đến vấn đề NNPQ như:
Về sách chuyên khảo, tham khảo liên quan đến Nhà nước pháp quyền:
- Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá
nhân công dân với nhà nước [17]. Các tác giả phân tích và lý giải về mối quan hệ
bình đẳng giữa nhà nước và công dân về quyền và nghĩa vụ. Bởi lẽ, chế độ chính trị ở
nước ta nhân dân là người chủ của đất nước, đương nhiên phải có đầy đủ quyền của
người làm chủ, đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ, đó là mối quan hệ biện
chứng. Nhưng để bảo đảm quyền, nghĩa vụ được thực thi trên thực tế, phải được luật
quy định chính xác, đầy đủ, đó là điều kiện quyết định, nếu không thì dù có cơ chế tốt
đến đâu cũng không thể thực thi được. Nhưng quyền, nghĩa vụ có đi vào cuộc sống
hay không, còn phụ thuộc vào việc thực thi quyền lực nhà nước và một trong những
phương thức quan trọng cần phải có cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức thành viên và nhân dân bảo đảm quyền, nghĩa vụ không bị xâm phạm.
- Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân [38], ở mức
độ nhất định tác giả đã bước đầu phân tích làm rõ tính khách quan của cá nhân, mối
quan hệ giữa nhà nước và cá nhân, từ đó đặt ra những yêu cầu hoàn thiện pháp luật
với tính chất là những bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân trên các
lĩnh vực hoạt động của nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu về cá nhân và mối quan hệ
giữa nhà nước và cá nhân, mới chỉ dừng ở những nhận định ban đầu để phục vụ cho
nghiên cứu của mình về quyền lực nhà nước và quyền công dân.
- Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn [66], tác giả đã phân tích làm rõ khái niệm, bản
chất, vai trò của pháp luật; các tiêu chí để đánh giá sự hoàn thiện của hệ thống pháp
luật; phân tích và đánh giá quá trình phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam
trong lịch sử và thực trạng. Từ đó, luận giải các yêu cầu, quan điểm, giải pháp phát
triển hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
- Hoàng Thế Liên (2006), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế bảo
đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp [33].
Trên cơ sở khoa học pháp lý, công trình đã phân tích làm rõ lý luận và thực tiễn
hoàn thiện cơ chế bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các cơ
17
quan tư pháp. Nội dung nghiên cứu chia làm 3 phần. Phần thứ nhất, nghiên cứu
một số vấn đề lý luận về giám sát và cơ chế giám sát của nhân dân đối với các hoạt
động của cơ quan tư pháp. Phần thứ hai, thực trạng hoạt động giám sát của nhân
dân đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp. Phần thứ ba, một số vấn đề về tăng
cường sự giám sát và xây dựng cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của
cơ quan tư pháp.
- Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn (2008) (đồng chủ biên), Đổi
mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị Việt Nam [51]. Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài KX.10 “Tiếp túc đổi
mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế”. Các tác giả nghiên cứu
đã nêu quan điểm đổi mới hệ thống chính trị thực chất là đổi mới quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội quan hệ với nhân dân, với xã hội.
Mục đích đổi mới để xây dựng một nền chính trị thực sự của dân, do dân, vì dân,
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Thực hiện đổi mới hệ thống chính trị phải dựa
trên nền tảng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng. Trong đổi mới hệ thống chính trị tác giả đã chỉ rõ nguy cơ là đội
ngũ cầm quyền của Đảng sẽ xa dân, quan liêu, lạm quyền trong điều kiện một Đảng
duy nhất lãnh đạo và là hạt nhân của hệ thống chính trị. Vì vậy, Mặt trần Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng phải
bảo đảm tính độc lập, chủ động sáng tạo trong phạm vi chức năng hoạt động của
mình. Thực hiện giám sát và phản biện xã hội đối với Đảng, Nhà nước nhằm tránh
sai lầm do quan liêu, chủ quan duy ý chí gây nên trong quá trình lãnh đạo và quản
lý điều hành đất nước.
- Trịnh Thị Xuyến (2009), Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay [96]. Nội dung của cuốn sách tập trung chủ
yếu vào vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước cả phương diện lý luận và phương
diện thực tiễn, phạm vi nghiên cứu tổ chức quyền lực nhà nước trung ương giữa lập
pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát xã hội đối với hoạt động quyền lực nhà
nước, thông qua đó góp phần làm sáng tỏ một phần kiểm soát quyền lực nhà nước ở
18
Việt Nam hiện nay. Với đối tượng nghiên cứu tương đối rộng, nên chưa có điều
kiện đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của kiểm soát quyền lực nhà nước,
chẳng hạn như kiểm soát quyền lực nhà nước trung ương và địa phương, kiểm soát
quyền lực nhà nước ở các cấp các ngành; cũng như chưa tập trung nghiên cứu vấn
đề giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước; cơ chế pháp lý của giám sát xã hội.
Với cách tiếp cận ở góc độ khoa học chính trị, nhưng một số vấn đề lý luận, cũng
như đề ra những giải pháp kiểm soát quyền lực nhà nước có ý nghĩa nhất định đến
việc nghiên cứu giám sát xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nước.
- Lê Minh Tâm và Nguyễn Minh Đoan (2010), Giáo trình lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật [79]. Nhà nước và cá nhân trở thành một nội dung trong lý
luận về nhà nước và pháp luật, được nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn
nâng cao nhận thực khách quan về mối quan hệ giữa các chủ thể này phục vụ cho
quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật trong điều kiện mới. Các
tác giả đã đưa ra những cơ sở lý luận khái quát về cá nhân, mối quan hệ nhà nước
và cá nhân, cùng với sự phát triển quan hệ giữa nhà nước và cá nhân trong lịch sử.
- Nguyễn Minh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [15], tác
giả làm rõ tính hệ thống, tác động của pháp luật và thực trạng hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu
cầu xây dựng NNPQ.
- Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [20]. Tác giả nghiên cứu về cá nhân,
bản chất mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân làm cơ sở cho những nhận thức về
vấn đề quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền hiện nay. Từ
đó, đưa ra những phương hướng, giải pháp cho quá trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật và nhà nước.
Về luận án, luận văn và các bài báo đăng trên tạp chí liên quan đến Nhà
nước pháp quyền:
- Ngô Hải Phan (2004), Trách nhiệm pháp lý của công chức trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [54]. Trong giới hạn nghiên cứu, đã
19
làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của công chức ở góc độ tiêu
cực, tương quan giữa trách nhiệm pháp lý của công chức với các dạng trách nhiệm
xã hội khác, các hình thức trách nhiệm pháp lý của công chức và mối quan hệ giữa
chúng. Ngoài ra, Luận án còn nêu ra những yêu cầu của NNPQ XHCN Việt Nam
đối với trách nhiệm pháp lý của công chức, đồng thời tác giả đã phân tích một cách
cơ bản, toàn diện thực trạng quy định pháp luật và thực hiện pháp luật về trách
nhiệm pháp lý của công chức. Phần cuối tác giả nêu ra những giải pháp hoàn thiện
pháp luật và thực hiện pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chức trong thực
tiễn xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay.
- Trần Thanh Hương (2006), Những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện
các quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tự do cá nhân, Luận án tiến sĩ
Luật học, Viện khoa học xã hội, Hà Nội [31]. Tác giả nghiên cứu các vấn đề lý
luận về các quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tự do cá nhân và bảo đảm
pháp lý thực hiện. Thực trạng bảo đảm pháp lý thực hiện quyền cơ bản của công
dân trong lĩnh vực tự do cá nhân. Ngoài ra còn một số nghiên cứu về bảo đảm
thực hiện quyền con người, quyền công dân thông qua hoạt động của các thiết
chế nhà nước.
- Vũ Quang Dương (2007), Xây dựng đội ngũ công chức trong điều kiện
Nhà nước pháp quyền qua thực tiễn Quận Cầu Giấy, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Đại học Quốc gia Hà Nội [9]. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu chế độ công chức của
Việt Nam và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, qua thực trạng đội ngũ
công chức Quận Cầu Giấy, trong luận văn tác giả làm sáng tỏ những bất cập, hạn
chế của đội ngũ công chức ở Việt Nam hiện nay; những yếu tố ảnh hưởng, tác
động đến đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam
của dân, do dân, vì dân.
- Trương Thị Hồng Hà (2007), Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức
năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [26]. Trên cơ
sở tiếp cận, phân tích về cơ chế làm sáng tỏ khái niệm cơ chế pháp lý, các yếu tố
cấu thành và mối quan hệ mật thiết các yếu tố tạo nên hệ thống cơ chế pháp lý.
20
Trong hệ thống cơ chế pháp lý bao gồm bốn yếu tố cấu thành đó là: những quy định
của pháp luật; hình thức và phương pháp pháp lý; trình tự và thủ tục pháp lý; hậu
quả pháp lý. Mỗi yếu tố trong hệ thống cơ chế là tiền đề của nhau, bổ sung cho
nhau, không thể có cái này mà không có cái kia mà nếu không như vậy thì chỉ là
hình thức bề ngoài không có nội dung thực chất. Cho nên, để hoàn thiện cơ chế
pháp lý phải xác định rõ mỗi một yếu tố đóng một vai trò nhất định và các yếu tố
hợp thành tạo nên cơ chế pháp lý vận hành mới có hiệu quả. Xét về mặt lý luận,
luận án là một công trình nghiên cứu một cách tập trung có hệ thống về cơ chế pháp
lý, phân tích sâu các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát
của Quốc hội và sự vận hành, mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó. Tuy nhiên,
phạm vi nghiên cứu của Luận án nghiên cứu chức năng giám sát của Quốc hội, do
đó tác giả chưa đề cập đến cơ chế pháp lý giám sát xã hội, nhưng một số vấn đề lý
luận về các yếu tố cấu thành của cơ chế pháp lý có ý nghĩa tham khảo đối với đề tài
của nghiên cứu sinh.
- Võ Khánh Vinh (2003), “Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước
trong Nhà nước pháp quyền và vai trò của nó trong xác định mô hình tổng thể Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (2)
[94, tr.8-14]. Dưới góc độ tiếp cận pháp lý, tác giả đã đề cập các khái niệm cá nhân,
xã hội, nội dung, các nguyên tắc cơ bản của mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân.
Từ đó, tác giả đưa ra những luận giải về mô hình xây dựng NNPQ XHCN Việt
Nam hướng tới thực hiện tốt mối quan hệ này. Đây là một trong những công trình
đưa ra những nhận thức khác toàn diện về mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân,
nhưng trong khuôn khổ của một bài viết, các vấn đề chỉ được nhận thức ở mức độ
khái quát.
- Tường Duy Kiên (2005), “Tăng cường hoạt động lập pháp bảo đảm
quyền con người đáp ứng yêu cầu xâu dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”,
tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (5) [32, tr.34-41]. Tác giả đã làm rõ tính được
bảo đảm bằng pháp luật quốc gia trong thực hiện quyền con người và cách thức
để tăng cường vai trò của pháp luật quốc gia trong thực hiện quyền con người ở
Việt Nam hiện nay.