Tải bản đầy đủ (.pdf) (206 trang)

Bình luận về quyền của người khuyết tật theo Công ước quốc tế và thực trạng nội luật hoá ở Việt Nam. Nguyễn Hiền Phương chủ biên, Nguyễn Thị Kim Ngân (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.98 MB, 206 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

PGS. TS. NGUVEN HIEN PHƯƠNG

THEO CONG UOC qudc TẾ

VÀ THUC TRANG NỘI LUẬT HOA 6 VIỆT NAM

-‘cy 1Ä

Ea NHA XUẤT BAN CONG AN NHÂN DAN

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

PGS. TS. NGUVEN HIEN PHƯƠNG

(Chu bién)

_ BÌNH LUẬN

VE QUYEN CUA NGUOI KHUYẾT TAT

THEO CONG UOC QU0C TE

VA THUC TRANG NOI LUAT HOA 0 VIỆT NAM

NHA XUAT BAN CONG AN NHAN DAN

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

TẠP THẺ TÁC GIÁ

PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Ngân PGS. TS. Nguyễn Hiền Phương TS. Đỗ Thị Dung

<small>TS. Lê Thị Anh Đào</small>

NCS. Nguyễn Thị Thu Hường TS. Nguyễn Thị Tuyết Vân ThS. Nguyễn Tiến Dũng

<small>NCS. Đoàn Xuân TrườngCN. Huỳnh Phương Anh</small>

258-2021/CXBIPH/08-03/CAND

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

LỜI NÓI ĐẦU

Người khuyết tật với những đặc điểm riêng của mình

thường gặp phải những khó khăn trong việc thụ hưởng quyền trong các lĩnh vực của cuộc sống so với các đối tượng

khác. Đảm bảo bình đẳng. khơng phân biệt đối xử và thúc

đẩy thụ hưởng quyền của người khuyết tật không chỉ là

vấn để của riêng quốc gia tiến bộ nào mà đã trở thành vấn đề toàn cầu trong điều chỉnh pháp luật.

Một sự kiện lớn trong khuôn khổ quyền của người

khuyết tật là việc thông qua Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (CRPR) (ngày 13/12/2006) của Đại

hội đồng Liên hợp quốc. Có thể nói, Cơng ước CRPD được

coi như khung pháp lý quốc tế, trên cơ sở đó các quốc gia

phê chuẩn Cơng ưóc và nội luật hố thực hiện nhằm đảm

bảo quyền cho người khuyết tật. Tính đến năm 2020, trên

thế giới có 182 quốc gia đã tham gia phê chuẩn Công ước

này. Việt Nam là một trong những quốc gia ngay từ đầu

đã có những động thái mạnh mẽ thể hiện thái độ và quan điểm của mình và chính thức phê chuẩn Cơng ước này vào

ngày 28/12/2014. Bằng Luật Người khuyết tật năm 2010

và một số văn bản liên quan. Việt Nam đã thực hiện điều

chỉnh pháp luật quốc gia trong mối tương quan dam bao sự tương thích và nâng cao hơn nữa quyền của người khuyết tật trên mọi lĩnh vực. Bên cạnh những thành công

đạt được, pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn thực

<small>3</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

hiện còn nhiều hạn chế cần được nghiên cứu nhằm đề ra

những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện.

Để giới thiệu với bạn đọc những quy định pháp luậi

quế tế, cụ thể là Công ước quốc tế về quyển của người

khuyết tật và thực trạng nội luật hoá ở Việt Nam trên các lĩnh vực chủ yếu như giáo dục, y tế, trợ giúp xã hội, tiép cận các dịch vụ xã hội cơ bản hay trong lao động, việc làm, tu pháp... Nhà Xuất bản Công an nhân dân xuất bản cuối

sách chuyên khảo “Bình luận về quyền của người

khuyết tật theo Công ước quốc tế và thực trạng nội luật hoá ở Việt Nam’. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu

của tập thể các giảng viên đại học và các chuyên gia có kinh

nghiệm giảng dạy, nghiên cứu trong lĩnh vực Luật Người khuyết tật ở Việt Nam do PGS.TS Nguyễn Hiền Phương -Phó Viện trưởng Viện Luật so sánh Trường Đại học Luật Ha Nội là chủ biên và chịu trách nhiệm về nội dung.

Cuốn sách không chỉ cung cấp những vấn đề lý luận về quyền của người khuyết tật mà cịn bình luận chuyên sâu từng nội dung quyền trong các lĩnh vực của cuộc sống

từ tiếp cận so sánh, soi chiếu giữa quy định của Cơng ưóc quốc tế về quyền của người khuyết tật và quy định pháp

luật quốc gia. Những kết quả nghiên cứu của cuốn sách có giá trị hữu ích trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy học tập và đặc biệt trong việc hoàn thiện pháp luật quốc gia hướng tới sự tương thích với pháp luật quốc tế, ngày càng

nâng cao hơn nữa vị thế của người khuyết tật.

Hy vọng cuốn sách sẽ luôn là tài liệu hữu ích với mỗi <small>bạn đọc!</small>

<small>Trân trọng giới thiệu!</small>

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

c..„— CHUONG | |

MỘT SO VAN DE LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI KHUYÊT TAT

VÀ QUYỀN CUA NGƯỜI KHUYET TAT

NCS. Nguyễn Thị Thu Hường”

1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NGƯỜI KHUYẾT TẬT

1.1. Khái niệm người khuyết tật

Khuyét tật là một hiện tượng đã, đang và sẽ tồn tại

như một rhần trong cuộc sống loài người. Khuyết tật tạo nên sự đa dạng cho tự nhiên và cộng đồng xã hội. Nhà

nước, xã Oi và tất cả mọi người phải thừa nhận và tơn

<small>trọng sự k¬ác biệt này.</small>

Người khuyết tat (NKT) là người có sự khác biệt về

thể chất, tinh thần va họ gặp phải nhiều khó khăn trong cuộc sống so với người bình thường. Để loại bỏ những bất cơng NKT gặp phải và tăng cường cơ hội bình đẳng cho họ

thì việc hiểu đúng thuật ngữ NKT là rất quan trong.

Thuật ngữ NKT là một khái niệm dễ thay đổi, tuỳ thuộc vào hồn cảnh lịch sử, văn hố, kinh tế, xã hội khác

nhau mà ›ó những cách hiểu khác nhau. Theo thời gian,

Trường Dei học Khoa học - Đại hoc Thái Nguyên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

thuật ngữ NKT không chi thay đổi về hình thức (nói cách khác là thuật ngữ được sử dụng để mơ tả tình trạng khuyết tật) mà còn thay đổi về nội hàm của thuật ngũ

này. Công ước về quyền của NKT năm 2006 ghi nhận

“thừa nhận rằng sự khuyết tật là một khái niệm luôn tiến

triển”. Điều này được thể hiện rõ nét qua các văn bản của

Liên hợp quốc, văn kiện của Tổ chức Lao động quốc tê

(ILO) cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế gidi.

Thuật ngữ NKT trong pháp luật quốc tế có sự thay đổi

trong cách gọi chủ thể này. Từ “handicapped”, “disabled

person” (người tàn tật) được thay thế bởi “people with disabilities” (người khuyết tật). Thuật ngữ “handicap” có

lịch sử lâu hơn vì hồ sơ cho thấy rằng nó được sử dụng lần

đầu tiên vào những năm 1500 -1600. Mặt khác, khuyết tật (disability) có lịch sử ngắn hơn nó được thay thế thuật ngữ

tan tat (handicap) vào năm 1990).

Trong một số văn bản pháp lý quốc tế trước đây, thuật

ngữ “người tàn tật” được sử dung để chỉ NKT. Trong

Tuyên ngôn về quyền của NKT được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 09/12/1975 sử dụng thuật ngữ

“handicapped”. Công ước Quyền trẻ em được Đại hội đồng

Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 20/11/1989 sử dụng thuật

ngữ “trẻ em tàn tật” (disabled child). Trong văn ban cua

Tổ chức Lao động Quốc tế như Khuyến nghị số 99 về phục

hồi chức năng nghề nghiệp cho NKT năm 1955; Công ước

* Gene Balinggan (2019), “The difference between handicapped and

<small>disabled”, Diference Between.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

số 159 về phục hồi chức năng nghề nghiệp và việc làm cho NKT năm 1983; Khuyến nghị số 168 về phục hồi chức năng nghề nghiệp và việc làm cho NKT năm 1983 đều sử

dụng thuật ngữ “disabled person”. Đến ngày 13/12/2006

tại kỳ họp lần thứ 61 của Đại hội đồng Liên hợp quốc các

đại biểu đã nhất trí thơng qua Công ước về Quyền của

người khuyết tật (CRPD). Công ước đã chính thức sử dụng

thuật ngữ “people with disabitity” (người khuyết tật).

Pháp luật Việt Nam quy định về NKT cũng có sự thay

đối theo thời gian. Các vấn đề liên quan đến NKT được ghi

nhận trong các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước cho đến nay. Vấn đề này được ghi nhận tại Điều 14 Hiến pháp năm 1946; Điều 32 Hiến pháp năm 1959; Điều 59, Điều 67, Điều 74 Hiến pháp năm 1992 đều sử dụng thuật ngữ

“người tàn tật”. Một số văn bản khác như Pháp lệnh người

<small>tàn tật năm 1998: Bộ luật Lao động năm 1994; Nghị định</small>

số 81-CP ngày 23/11/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn

thi hành một số điều của BLLĐ về người tàn tật; Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 đều sử dụng thuật ngữ “người tàn tật”; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

năm 1991; Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 sử

<small>dụng thuật ngữ “trẻ em tàn tật”. Thực ra cách gọi này là</small>

phù hợp với các văn ban của Liên hợp quốc va ILO ở thời

điểm đó.

Đến năm 2001, Quốc hội ban hành Nghị quyết số

51/QH10 sửa đối, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm

1992, trong đó sửa doi Điều 59 dùng từ “khuyết tật” thay

cho từ “tàn tật”. Sau này trong Hiến pháp 2013 và nhiều

<small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

luật chuyên ngành khác như Luật Người khuyết tật năm

2010; Bộ luật Lao động năm 2012; Luật Giao thông đường

bộ năm 2008; Luật Khám chữa bệnh năm 2009; Luật Thể dục thể thao năm 2006... đã thống nhất sử dụng thuật ngữ

“người khuyết tật”.

Việc thay đổi cách sử dụng thuật ngữ “người khuyết

tật” thay thế “người tàn tật” có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi

từ “khuyết tật” thường mang sắc thái tốt hon từ “tàn tat”.

Từ “tàn” trong cụm từ “tàn tật” thường gợi đến hình ảnh

tiêu cực, tạo cảm giác khơng cịn kha năng gì, khơng có

tương lai và điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nỗ lực phấn đấu vượt lên hồn cảnh khó khăn. Còn từ “khuyết”

trong cụm từ “khuyết tật” mang ý nghĩa suy giảm chức

năng nhưng vẫn còn khả năng phục hồi và còn hy vọng.

Việc các quốc gia sử dụng thuật ngữ “người khuyết tat” là

<small>phù hợp với xu hướng chung hiện nay.</small>

Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia khi định

nghĩa NKT không chỉ thay đổi về mặt từ ngữ mà cịn có sự

thay đổi về nội hàm của khái niệm. Điều đó được thể hiện

rõ nét qua quy định trong các văn bản của Liên hợp quốc

từ xưa cho đến nay. Theo Tuyên ngôn về quyền của NKT năm 1975 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc thì thuật ngữ

người tan tat (handicapped) là bat cứ người nào mà khơng có khả năng tự đảm bảo cho bản thân, toàn bộ hay từng

phần, những sự cần thiết của một số cá nhân bình thường

hay của cuộc sống xã hội do sự thiếu hụt bẩm sinh hay không bẩm sinh về những khả năng về thể chất hay tâm

thần của họ. Quy tắc tiêu chuẩn về bình dang cơ hội cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

NKT do Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày

<small>20/12/1993, thuật ngữ “khuyết tật” có nghĩa là mất hay</small>

hạn chế cơ hội tham gia vào cuộc sống cộng đồng ở mức độ

bình dang với những người khác. Nó miêu tả sự đối mặt

<small>giữa NKT và mơi trường. Mục đích của thuật ngữ này là</small>

nhấn mạnh vào những thiếu sót của mơi trường và của

nhiều hoạt động có tổ chức của xã hội, ví dụ như, thông

tin, liên lạc và giáo dục, ngăn cản NKT tham gia một cách

bình đẳng. Điều 1 Cơng ước Quốc tế về quyền NKT

(CRPD) năm 2006 của Liên hợp quốc quy định NKT bao

gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất,

tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với

những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham

gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình

đẳng với những người khác.

Trong một số văn ban của ILO cũng có sự quy định khác nhau về thuật ngữ NKT. Theo Khuyến nghị số 99 của ILO về phục hồi chức năng nghề nghiệp cho NKT năm

1955 thì NKT có nghĩa là một cá nhân có triển vọng đảm bảo và duy trì việc làm phù hợp giảm đáng kể do suy yếu về thể chất hoặc tinh thần. Theo Công ước số 159 của ILO

về phục hồi chức năng lao động và việc làm cho NKT năm

1983, thuật ngữ NKT dùng để chỉ một cá nhân có triển

vọng bảo đảm, duy trì, thăng tiến trong cơng việc phù hợp

bị giảm đáng kể do sự suy yếu về thể chất hoặc tinh than

được công nhận hợp lệ. Khuyến nghị số 168 của ILO về

phục hồi chức nang lao động và việc làm cho NKT 1983,

<small>NKT chỉ một cá nhân mà khả năng có việc làm phù hợp,</small>

<small>B</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>trụ lâu dài với cơng việc đó và thăng tiến với nó bị giảm</small>

sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất

hoặc tâm thần được thừa nhận.

Một số quốc gia trên thế giới cũng có định nghĩa

khác nhau về NKT. Luật về Người khuyết tật Hoa Kỳ

năm 1990 (sửa đổi năm 2008) thì cho rằng khuyết tật có

nghĩa là đối với cá nhân có khiếm khuyết về thể chất

hoặc tinh thần giới hạn đáng kể một hoặc nhiều hoạt

động sinh hoạt chính của cá nhân đó, có hồ sơ về sự suy yếu đó hoặc được coi là có suy yếu. Các hoạt động chính trong cuộc sống bao gồm, nhưng không bị giới hạn, chăm

sóc bản thân, thực hiện các cơng việc thủ cơng, nhìn, nghe, ăn, ngủ, đi, đứng, nâng, uốn, nói, thở, học, đọc, tập trung, suy nghĩ, giao tiếp và làm việc. Đồng thời khái niệm khuyết tật này không áp dụng với những suy giảm

tạm thời có thời gian thực tế hoặc dự kiến là 6 tháng

<small>hoặc ít hơn. So với Luật NKT năm 1990 của Hoa Kỳ thì</small>

định nghĩa này khơng có gì thay đổi, luật sửa đổi năm

2008 chỉ làm rõ một số thuật ngữ như “các hoạt động

sinh hoạt chính”, cách hiểu về “một suy yếu”.

Điều 2 Luật Bảo vệ Người khuyết tật Trung Quốc năm

1990 quy định: “NKT là một trong những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lí hay sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và

những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham

<small>gia vào các hoạt động một cách bình thường”. Khai niệm</small>

NKT đã được tiếp cận đầy đủ hơn tại Điều 5 Luật Bảo vệ

Quyền người khuyết tật Trung Quốc năm 1990 (sửa đối

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

năm 2015): “NKT là những người có sự sai lệch hoặc mất

mát do suy yếu về thể chất hoặc tinh than, bị hạn chế tham

gia vào các hoạt động sống thông thường và tham gia vào xã hội; và họ, sau các quá trình đánh giá của uy ban bao gồm các chuyên gia từ y học, công tác xã hội, giáo dục đặc

biệt và tư vấn và đánh giá việc làm, có thể được coi là chịu

<small>một trong các loại trục trặc sau đây và đưa ra một nhận</small>

dạng khuyết tật: chức năng tâm thần và cấu trúc của hệ

thần kinh; chức năng cảm giác và đau; mắt, tai, nghe và các

cảm giác liên quan; chức năng và cấu trúc liên quan đến giọng nói và lời nói; chức năng và cấu trúc liên quan đến hệ

thống tim mạch, huyết học, miễn dịch và hô hấp; chức năng

và cấu trúc liên quan đến hệ thống tiêu hoá, trao đổi chất

và nội tiết; chức năng và cấu trúc liên quan đến hệ thống sinh dục và sinh sản; chức năng và cấu trúc liên quan đến hệ thần kinh và vận động: chức năng và cấu trúc liên quan

đến da”.

Theo Điều 2 Luật Co bản về Người khuyết tật Nhật

Bản năm 2004 thì “Người khuyết tật có nghĩa là những cá nhân có cuộc sống hàng ngày hoặc đời sống xã hội bị hạn

chế đáng kể và liên tục do khuyết tật về thể chất, trí tuệ

hoặc tinh than’.

Tại Điều 3 Luật về bình dang của Người khuyết tật

(Đạo luật về người khuyết tật - BGG) năm 2002 thuộc

cuốn thứ 9 cua Bộ luật xã hội Đức định nghĩa người

khuyết tật là người có chức năng về thể lực, trí tuệ hoặc

tâm lý tiến triển khơng bình thường so với người có cùng

độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự khơng bình

<small>1]</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

thường này là ngun nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội. Đến năm 2018, luật này

được sửa đổi và người khuyết tật được định nghĩa như sau:

Người khuyết tật là những người bị suy yếu về thể chất. tâm lý, tinh thần hoặc giác quan lâu dài, tương tác với các

rào can về thái độ và mơi trường, có thể can trỏ họ tham

gia bình đẳng trong xã hội. Một dài hạn là một khoảng

thời gian có khả năng kéo dài hơn sáu tháng.

Tại Điều 2 Bộ luật An sinh xã hội, quyển số 9 Bộ Luật

xã hội Đức về phục hồi chức năng và sự tham gia của NKT

(SGB) năm 2001 (sửa đổi năm 2017) định nghĩa người

khuyết tật, nếu chức năng thé chất, khả năng tinh thần

hoặc sức khoẻ tâm thần của họ với giảm sút hơn sáu tháng

so với tình trạng bình thường của cuộc sống, do đó, việc tham gia vào xã hội bị suy giảm.

Ö Ấn Độ, Luật Quyền của NKT năm 2018 đã thay thế

cho Luật Người khuyết tật năm 1995. Cả hai văn bản luật

đều sử dụng thuật ngữ “người khuyết tật” (people with disability). Mục 2 Phần 1 Luật Quyền của Người khuyết

tật năm 2018 của Ấn Độ quy định người bị khuyết tật

(person with disability), người khuyết tật bao gồm những

người bị suy yếu về thể chất, tinh thần, trí tuệ hoặc giác

quan lâu dài, tương tác với các rào can khác nhau có thé

can trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ vào xã hội

trên cơ sở bình đẳng với những người khác.

Theo Đạo luật Bình dang Anh năm 2010 khuyết tật cónghĩa là một tình trạng thể chất hoặc tinh thần có ảnhhưởng đáng kể và lâu dài đến khả năng của bạn để thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

hiện các hoạt động hàng ngày. Đạo luật Bình đẳng Anh

bảo vệ cả NKT trong q khứ nếu một người có tình trạng

sức khoẻ thâm thần trong quá khứ kéo dài hơn 12 tháng nhưng bây giờ đã hồi phục thì vân được bảo vệ khỏi sự

phân biệt đối xử.

<small>Trong pháp luật Việt Nam khái niệm NKT được ghi</small>

nhận trong Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998 và hiện

nay là Luật NKT 2010. Điều 1 Pháp lệnh người tàn tật quy định: Người tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay

nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những

dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động,

khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn. Khoản 1 Điều 2 Luật NKT 2010 quy định NKT là

người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể

hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao đông, sinh hoạt, hoc tập gặp kho khăn. Như

vậy, khái niệm NKT trong Luật NKT năm 2010 chi thay

đổi về từ ngữ, NKT được thay cho người tàn tật, cịn nội

<small>dung khái niệm thì khơng có gì khác biệt.</small>

Xét về nội hàm thuật ngữ NKT trong pháp luật quốc

tế và các quốc gia hiện nay đang được tiếp cận theo hai góc

độ là góc độ y tế và góc độ xã hội.

Thứ nhất. tiếp cận khuyết tật dưới góc độ y tế.

Theo quan điểm này cho rằng khuyết tật là tình trạng

suy giảm thể chất, tinh thần của cá nhân, từ đó đã làm

ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Do cơ thể có những

khiếm khuyết đã khiến họ bị khuyết tật, như vậy khuyết

tật là ở chính con người đó. Để khắc phục khuyết tật thì cá

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

nhân đó phải thay đổi. Tuyên bố về quyền NKT năm 1975

của Liên hợp quốc, Khuyến nghị số 99 về phục hồi chức năng nghề nghiệp cho NKT năm 1955; Công ước số 159 về

phục hồi chức năng nghề nghiệp và việc làm cho NKT năm

1983; Khuyến nghị số 168 về phục hồi chức năng nghề

<small>nghiệp và việc làm cho NKT năm 1983 của ILO và pháp</small>

luật của một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Việt Nam... hiện nay vẫn tiếp cận dưới góc độ y

tế. Điều này cũng dễ hiểu bởi biểu hiện đầu tiên để xác định khuyết tật là do sự khiếm khuyết của cơ thể, nên nhiều quốc gia van nhấn mạnh đến yếu tố y học để xác

định tình trạng khuyết tật. Thậm chí, một số quốc gia khi

định nghĩa về NKT còn coi khiếm khuyết cơ thể là căn cứ

duy nhất xác định tình trạng khuyết tật (như quy định về NKT trong luật bảo vệ NKT năm 1990 của Trung Quốc).

Quan điểm y tế về khuyết tật cũng có ưu điểm là cố

gắng tìm ra cách chữa trị cho NKT để họ khắc phục tốt hơn về tình trạng sức khoẻ và giúp họ điều chỉnh bản thân

để chung sống cũng những bất lợi một cách tự lập?. Tuy nhiên quan điểm này hạn chế ở chỗ xem NKT là đối tượng

đặc biệt và cần phải được đối xử đặc biệt như giáo dục đặc

biệt, giao thông đặc biệt, vui chơi giải trí đặc biệt... Vơ hình chung đã tách biệt, loại trừ NKT với cuộc sống, khi đó NKT càng cảm thấy mình khơng bình thường, từ đó

<small>hình thành tâm lý tự t1, tự cơ lập chính mình. Mọi người</small>

<small>? Nguyễn Hữu Chí (2011), Giáo trình Luật Người khuyết tật, NXB.</small>

<small>Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.14.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>trong xã hội cũng xem NKT là những người đặc biệt, từ đóhình thành thai độ coi thường, xa lánh NKT. Bên cạnh đó,</small>

tại các nước có nền kinh tế chậm phát triển, việc khơng có

khả năng cung cấp đầy đủ những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, việc làm cho toàn dân đã trở thành lý do biện hộ cho việc không cung cấp những dịch vụ cho NKT

và họ coi đó là hiển nhiên”. Tiếp cận khuyết tật dưới góc độ y tế thì trách nhiệm của các chủ thể đối với NKT rất hạn

chế chỉ bảo gồm cơ sở y tế, cơ sở giáo dục chuyên biệt.

Thứ hai, tiếp cận dưới góc độ xã hội

Theo quan điểm này, người bị khiếm khuyết về thể

chất nhưng do những rào can xã hội đã biến họ thành

khuyết tật. Với quan điểm này, coi xã hội là vấn đề và giải pháp là phải thay đổi xã hội. Một số văn bản pháp luật tiếp cận khái niệm NKT theo quan điểm này như Quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng cơ hội cho NKT năm 1993 của Liên hợp

quốc, Công ước quốc tế về quyền NKT năm 2006, Luật về

bình dang NKT của Đức năm 2009 sửa đổi năm 2018, Luật

quyền NKT An Độ năm 2018...

Tiếp cận khuyết tật theo quan điểm xã hội là cách tiếp cận tiến bộ. Bởi phần cơ thể bị mất, chức năng bị suy giảm là sự thật hiển nhiên và làm sao để sự mất mát, khiếm

khuyết trở nên lành lặn, bình thường là điều rất khó thực hiện. Trong khi đó, nếu loại bo các rào can xã hội (như

thay đổi cơ sở vật chất, thể chế hay nhận thức) để người có

<small>* Nguyễn Thị Báo (2011), Pháp luật về quyền của NET ở Việt Nam</small>

<small>hiện nay, NEB. Tu phắp, Hà Nội, trờn,</small>

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

khiếm khuyết không trở thành khuyết tật lại khả thi hơn

rất nhiều. Cách tiếp cận này sẽ giải quyết gốc rễ của việc NKT bi tách khỏi cuộc sống. Khi những rào can xã hội được loại bo, NKT sẽ có cơ hội được sống, học tập, làm việc, vul chơi, giải trí cùng những người bình thường từ đó NKT

sẽ cảm thấy mình được đối xử bình đẳng, họ sẽ tự tin hơn

vươn lên trong cuộc sống. Cộng đồng xã hội cũng sẽ cảm thơng, chia sẻ và sống có trách nhiệm với NKT. Nhà nước

sẽ ghi nhận va bảo đảm các điều kiện để NKT được thực

hiện các quyền của mình. Tiếp cận khuyết tật theo quan

điểm xã hội thì cả xã hội phải có trách nhiệm với NKT mà khơng riêng chủ thể nào.

<small>Qua phân tích cho thấy, khái niệm NKT là một khái</small>

niệm dé thay đổi và phụ thuộc vào việc các quốc gia tiếp cận

dưới góc độ nào. Tuy nhiên, để phù hợp với văn bản của các

tổ chức quốc tế cũng như với xu thế chung hiện nay và để

đảm bảo quyền cho NKT thì nên tiếp cận khái niệm theo cả

hai góc độ y tế và xã hội/quyền. Có thể hiểu “NKT là người

bị khiếm khuyết lâu dài về thể chất hoặc tinh thần được biểu hiện dưới dạng tật khi tương tác với các rào

can xã hội khiến cho họ bị mat hoặc hạn chế cơ hội

tham gia bình đẳng trong cuộc sống”.

1.2. Đặc điểm người khuyết tật

Từ khái niệm về NKT có thể thấy NKT có một số đặc

<small>trưng sau:</small>

Thứ nhất, NET là người bị khiếm khuyết lâu dài về thể

chất hoặc tinh than.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Bất kỳ NKT nào cũng bị khiếm khuyết về thể chất

hoặc tinh thần. NKT có thể bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể, suy giảm chức năng hoặc có rối loạn

về tâm sinh lý. Khiếm khuyết đó đã khiến cho sức khoẻ,

khả năng vận động, nghe, nói, nhận thức của NKT khơng

được như người bình thường. Những khiếm khuyết đó

được biểu hiện dưới dạng tật với nhiều dạng tật và mức độ

khác nhau. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam chỉ ra một

số dạng khuyết tật như sau: khiếm thính (khuyết tật nghe), khiếm thị (khuyết tật nhìn), khuyết tật trí tuệ, khuyết tật ngơn ngữ, khuyết tật vận động..

Khiếm thính (khuyết tật nghe): Người khiếm thính là

những người bị mất hoặc suy giảm sức nghe kéo theo

những hạn chế về phát triển ngôn ngữ nói cũng như khả

năng giao tiếp. Do khơng có khả năng tri giác thế giới âm

<small>thanh đặc biệt là ngơn ngữ âm thanh nên NKT nghe</small>

khơng bắt chước nói được. Do đó, NKT nghe thường khuyết tật nói. Khiếm thính được chia làm 4 mức độ: điếc nhẹ (nghe được hầu hết những âm thanh đơn nhưng

không nghe được tiếng nói thầm), điếc vừa (có thể nghe

được những âm thanh to, nghe được tiếng nói chuyện bình thường), điếc nặng (chỉ nghe được tiếng nói to sat tai), điếc

sâu (hầu như không nghe được trừ một số âm thanh thật to như tiếng sấm, tiếng trống)”.

<small>1 Trần Ngọc Giao, Lê Van Mạc (2010), Quan lý giáo dục hoà nhập,</small>

<small>NXB Phụ nữ, Hà Nội, tr.31.</small>

<small>° Trần Ngọc Giao, Lê Văn Mạc, tldd chú thích 55, tr.31.</small>

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Khiém thị (khuyết tật nhìn): Người khiếm thi là người

có tật về mắt như hỏng mắt, không đủ sức nhận biết thế giới hữu hình bằng mắt hoặc nhìn thấy khơng rõ rang’.

Khuyết tật trí tuệ khi chức năng trí tuệ dưới mức

trung bình (chỉ số thơng minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trách nhiệm cá nhân). Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ

năng xã hộ1/ cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng

đồng, tự định hướng, kĩ năng học đường, làm việc, giải trí,

sức khoẻ, an tồn. Tật xuất hiện trước 18 tuổi.

Khuyết tật ngơn ngữ là những người có khó khăn

đáng kể về nói và/hoặc về đọc viết, làm ảnh hưởng tiêu cực

đến q trình giao tiếp và học tập. Có hai nhóm trẻ

khuyết tật ngơn ngữ chính: khó khăn về nói và khó khăn đọc viết. Các dạng khó khăn về nói thường gặp gồm nói

ngọng, nói lắp, nói khó, khơng nói được, mất ngơn ngữ...,

khó khăn đọc viết: q trình học đọc gặp khó khăn đáng

kể, mặc dù nhận được những hướng dẫn như mọi học sinh

khác. Khó khăn về đọc thường kéo theo khó khăn viết và tính toán ở các mức độ khác nhauŸ.

Khuyết tật vận động là những người có cơ quan vận

động bị tổn thương, biểu hiện đầu tiên là có khó khăn khi ngồi, nằm, di chuyển, cầm nắm... Do đó, NKT vận động

<small>° Trần Ngọc Giao, Lê Van Mạc, tldd chú thích 55, tr.32.7 Trần Ngọc Giao, Lê Văn Mac, tldd chú thích 55, tr.33.8 Trần Ngọc Giao, Lê Văn Mạc, tldd chú thích 55, tr.37.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui chơi,

<small>học tập và lao động".</small>

Sự khiếm khuyết về thể chất, tinh thần được biểu

hiện dưới dạng tật phải lâu dài, tức là liên tục và kéo dài

trong một khoảng thời gian nhất định. Đồng thời để đảm

bảo rằng sự khiếm khuyết đó đã xuất hiện trong quá khứ van có ở hiện tai và sẽ ton tại ở tương lai chứ không phải

là những khiếm khuyết chỉ mới xuất hiện, chỉ có ở hiện

tại. Đối với những khiếm khuyết tạm thời trong thời gian ngắn thường không khiến cho các rào cản xã hội ảnh

hưởng đến cuộc sống của NKT. Để xác định khoảng thời

<small>gian bao lâu được coi là “lâu dài” thì còn phụ thuộc vào</small>

quan điểm của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, nhiều quốc gia

như Hoa Ky, Nhật Bản đều quy định khoảng thời gian này <small>là 6 tháng.</small>

Thứ hai, rào cần xã hội là ngun nhân chính gây ra tình trạng khuyết tật.

Những khiếm khuyết về thể chất va tinh thần khơng

phải ngun nhân chính gây ra tình trạng khuyết tật. Nếu

môi trường sống, học tập, làm việc của NKT được trang bị

cơ sở vật chất phù hợp thì những NKT vẫn có thể sống,

học tập, lao động như những người khơng khuyết tật.

Những NKT nhìn vẫn có thé đọc nếu có sách, báo chữ nổi dành cho họ, họ có thể tham gia giao thơng nếu như đường có tấm lát nổi NKT vận động có thể tới trường, vào lớp

nếu như trường lớp có dốc lên xuống cho người sử dụng xe

<small>* Tran Ngọc Giao, Lê Văn Mạc, tldd chú thích 55, tr.38.</small>

<small>I9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

lăn; hay NKT trí tuệ cũng có thể học nếu như có một <small>chương trình giáo dục phù hợp với họ... Như vậy, ngun</small>

nhân chính dẫn đến khuyết tật khơng phải thuộc về cá nhân NKT mà thuộc về xã hội. Do xã hội đã tạo ra những rào cản nên đã khiến cho khiếm khuyết trở thành khuyết

<small>tật. Có ba loại rào can chính là rào can về nhận thức, rào</small>

can về cơ sở vật chất và rào can về chính sách.

Rào cần về nhận thức là một rào cản vô hình nhưng lại có ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc NKT được tham gia

bình đẳng vào các hoạt động xã hội. Nhiều gia đình có

NKT có thái độ coi thường, ruồng bỏ, hắt hủi NKT, coi

<small>NKT là tai hoạ, gánh nặng cả cuộc đời. Thậm chí lăng mạ,khơng chăm sóc, khơng cho ăn, khố xích trong nhà, nhốt</small>

trong cũI. Cũng có nhiều gia đình vẫn chăm sóc NKT,

<small>nhưng vì danh dự đã giấu kín việc thành viên gia đình họ</small>

bị khuyết tật. Cộng đồng xã hội nơi NKT sinh sống vẫn có

<small>tâm lý coi NKT là vơ dụng, khơng có khả năng gi. Nhiều</small>

trường học vẫn nghĩa rằng NKT không có khả năng học

tập hoặc nếu học tập cũng sẽ ảnh hưởng đến những học sinh không khuyết tật. Từ đó, dẫn đến tỷ lệ NKT di hoc thấp hoặc có đi học nhưng khơng học cao. Các đơn vị sử dụng lao động vẫn còn nghi ngại về khả năng làm việc của NKT nên từ chối nhận NKT vào làm việc hoặc có nhận vào làm thì cũng làm công việc lương thấp, thời hạn hợp đồng

ngắn. Về phía nhà nước, nhiều quốc gia chưa quan tâm

đến NKT. Hoặc hiểu chưa đúng về NKT nên các chính

<small>sách ban hành chưa phù hợp, chưa bảo đảm được quyền</small>

lợi cho NKT. Bản thân NKT còn tập trung quá nhiều vào

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

những khiếm khuyết của cơ thể mình, họ nghĩ mình

<small>khơng bình thường, họ tin vào sự kì thị mà xã hội dành</small>

cho họ, do đó, họ thường tự ti, mặc cam với ban thân và

cảm thấy không thể hoà nhập với cộng đồng.

Rao can về cơ sở vật chất là rào can lớn nhất khiến cho người có khiếm khuyết trở thành NKT. Do cơ sở vật

chất không phù hợp với từng dang tật nên NKT rất khó

khăn để tiếp cận với giao thơng, trường học, cơ quan, bệnh

viện, cơng trình cơng cộng, khu vui chơi giải trí, khu du

lịch... để thực hiện các quyền tham gia giao thông, học tập,

làm việc, khám chữa bệnh, vui chơi giải trí, du lịch... như

những người bình thường. Nhiều trường học chưa có tài liệu học tập phù hợp với người khiếm thính, khiếm thị, giáo viên khơng có kỹ năng dạy cho NKT nên NKT khó tiếp thu kịp

<small>bài; trường học xây dựng chưa phù hợp với NKT vận động</small>

nên khiến cho họ khó khăn vào trường, vào lớp; nhiều cơ sở khám chữa bệnh chưa đáp ứng về cơ sở vật chất như cơng

trình xây dựng chưa phù hợp để NKT tiếp cận, vật tư y tế

còn nghèo nàn chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng của NKT;

công trình giao thơng chưa được xây dựng đồng bộ nên

NKT khó khăn khi tham gia giao thơng... Do đó, nếu cơ sở

vật chất được đảm bảo phù hợp với nhu cầu sử dụng của

NKT thì họ mới có thể tham gia đầy đủ vào đời sống xã hội

và hưởng mọi quyền lợi từ cộng đồng.

Rào cần về chính sách cũng là một nguyên nhân dẫn

đến tình trạng khuyết tật. NKT bị “lãng quên” trong chính

sách của nhà nước. NKT cũng có mong muốn được tham gia mọi mặt vào đời sống xã hội nhưng pháp luật quốc gia

<small>2]</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

chưa bao quát hết, còn nhiều lĩnh vực còn bỏ ngỏ, không

quy định riêng cho NKT nên NKT không thể tham gia

được. Nhiều quy định khơng khả thi, chính sách phúc lợi

xã hội chưa đáp ứng được những nhu cầu của NKT, hoặc có quy định ghi nhận quyền của NKT nhưng không quy

định cơ chế để đảm bảo thực hiện quyền trên thực tế.

Thứ ba, NKT bị mất hoặc hạn chế cơ hội tham gia bình

đẳng trong cuộc sống.

Do các rào cản xã hội về nhận thức, cơ sở vật chất, chính sách nên đã khiến cho NKT không được thực hiện

quyền con người và các quyền cơ bản khác một cách bình

đẳng và tồn diện trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Mặc

dù pháp luật quốc tế và các quốc gia vẫn ghi nhận tất cả

mọi người đều bình dang khi tham gia vào các hoạt động

xã hội nhưng điều đó dường như rất khó khăn đối với NKT. Một người khiếm thính sẽ khơng nghe được nếu khơng có ngơn ngữ ký hiệu, người sử dụng xe lăn sẽ khơng

lên được tầng cao của tồ nhà nếu tồ nhà đó khơng có

thang máy hoặc thang máy không tiếp cận được, người

khiếm thị sẽ không sử dụng được máy tính nếu khơng có

phần mềm đọc màn hình... điều đó có nghĩa là để NKT có

thể bình đẳng tiếp cận thơng tin, tiếp cận cơng trình xây

dựng, học tập, làm việc, di chuyển... thì cần phải tạo cho

họ một cơ sở vật chất phù hợp để họ khắc phục những hạn

chế của cơ thể và từ đó thực hiện các quyền của mình.

Để xố bỏ sự bất bình đẳng thì cần phải xố bỏ được

các rào can như sự kỳ thị, đảm bao cơ sở vật chất phù hợp với từng dạng tật, pháp luật của nhà nước không

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

thể hiện sự phân biệt đối xử mà cịn cần có thêm những

quy định ưu tiên dành cho NKT. NKT có những khiếm

khiếm, cơ thể bị hạn chế một số khả năng như nghe, nói,

<small>nhìn, vận động, nhận thức. Nên cùng tham gia một hoạt</small>

động, NKT có quyền, nghĩa vụ như người khơng khuyết

tật thì đó cũng chưa phải là bình đẳng bởi NKT ln ở

vạch xuất phát điểm thấp hơn so với người không

khuyết tật. Do đó, để đưa NKT cùng vạch xuất phát hoặc giảm sự chênh lệch về xuất phát điểm thì nhà nước

cần dành thêm cho họ sự ưu tiên, ưu đãi. Tuy nhiên, nên

cân nhắc các ưu tiên, ưu đãi ở mức độ vừa phải, bởi nếu

dành quá nhiều ưu tiên, ưu đãi cho NKT lại thành bất

bình đẳng. Ưu tiên ở mức độ vừa phải cùng với việc xoá

bỏ đi sự kỳ thị và đảm bảo cơ sở vật chất phù hợp với

từng dạng tật để NKT có thể tự mình thực hiện quyền

của mình thì đó mới là bình đẳng thực chất.

NKT bị đối xử bất bình đẳng là hiện tượng phổ biến ở các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Hiện nay, các quốc gia đã và đang nỗ lực xoá bỏ những rào cản này, nhưng thực tế nó vẫn tồn

tại. Do đó, từ xưa cho đến nay NKT vẫn bị mất hoặc hạn

chế cơ hội tham gia bình đẳng vào cuộc sống. Có thể

trong tương lai, khi điều kiện kinh tế - xã hội phát triển

thì những rào can này được xố bỏ hồn tồn thì khi đó

đặc điểm này của NKT sẽ khơng cịn nữa và khái niệm NKT cũng sẽ thay đổi. Bởi khái niệm NKT luôn luôn là

một khái niệm phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội và rất dễ

thay đổi.

<small>a</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

2. KHÁI NIỆM VA ĐẶC ĐIỂM QUYỀN CUA

NGƯỜI KHUYET TAT

2.1. Khái niệm quyền của người khuyết tat

Quyền của NKT là quyền con người của NKT tồn tại

bên cạnh quyền con người của những nhóm người khác

như quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền người cao tuổi,

quyền người thiểu số, quyền người lao động... Do đó, để có

cái nhìn chính xác về quyền của NKT thì trước hết cần tìm

hiểu về quyền con người.

Quyền con người hay nhân quyền (human rights) là vấn đề mang tính chính trị pháp lý, xuất hiện từ rất sớm. Tư tưởng về quyền con người được xuất hiện từ thời kỳ cổ

đại'? và từ đó cho đến nay tư tưởng về quyền con người da, đang va sẽ tiếp tục được ghi nhận trong các văn bản pháp

lý quốc gia và quốc tế. Các bộ luật cổ xưa đã phản ánh các quan niệm về sự cơng bằng, nhân phẩm, quyền lợi chính

đáng của con người như Bộ luật Hamurabi (khoảng năm 1780 TCN); Bộ luật Manu (khoảng năm 1200 TCN); Luật Asoka (khoảng năm 271-231 TCN); Hiến pháp Medina do nhà tiên tri Mohammad sáng lập vào năm 622; Hiến

<small>chương Magna Carta do vua John nước Anh ban hành năm</small>

1215... Sau này có Tun ngơn Độc lập của Mỹ năm 1776,

Tun ngơn về Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm

<small>'° Nguyễn Dang Dung, Vũ Cơng Giao, La Khanh Tùng (2011), Giáotrình Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB. Đại học Quốc</small>

<small>gia Hà Nội, Hà Nội, tr.49.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<small>1791, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam nam 1945... Cùng</small>

nhiều bản hiến pháp của các quốc gia trên thế giới hiện nay

đều ghi nhận tư tưởng quyền con người như quyền tự do cá

nhân, quyền được đối xử bình đẳng, cơng bằng...

Cho đến khi Liên hợp quốc ra đời thông qua Hiến

chương Liên hợp quốc vào ngày 24/10/1945, thông qua Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 và hai Công

ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Cơng ước Quyền kinh tế, văn hố, xã hội vào năm 1966 đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về quyền con

người, đã đặt nền móng cho việc xây dựng một nền văn

hoá mới về quyền con người.

Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 đã khuyến

khích sự tơn trọng nhân quyền và những quyền tự do cơ bản cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo và khuyến khích mọi người cơng nhận mối tương quan giữa các dân tộc trên thế gidi.

Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 đã ghi

nhận mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm

cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái. Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên ngôn này khơng phân

biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da,

nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất

<small>cứ thân trạng nào khác.</small>

Cả hai Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Cơng ước ICCPR) và Công ước quốc tế về quyền

<small>Bác</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

kinh tế, xã hội, văn hố năm 1966 (Cơng ước ICESCR) đều

thừa nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng,

không thể chuyển nhượng của mọi thành viên trong cộng

đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hồ bình trên thế giới, những quyền này bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người, các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tơn

trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do của con người. Sau khi Tuyên ngôn Quốc tế về quyền con người

<small>(UDHR) được thông qua năm 1948, một số khu vực trên</small>

thế giới đã thiết lập các hệ thống riêng để bảo vệ quyền

con người. Đến nay, có ba châu lục là châu Âu, châu Mỹ,

châu Phi đã thiết lập được cơ chế khu vực để bảo vệ và

thúc đẩy quyền con người. Châu Âu là khu vực đi đầu trên thế giới về phát triển cơ chế bảo vệ quyền con người ở khu

vực. Ở châu Âu có Cơng ước châu Âu về Nhân quyền (Công

ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản). Công

<small>ước được thông qua ngày 04/11/1950 và có hiệu lực vào</small> năm 1953 với những nội dung nhằm bảo vệ nhân quyền và

các quyền tự do căn bản cho công dân ở châu Âu. Quyền

<small>con người cũng được ghi nhận và bảo vệ ở khu vực châuMỹ khá sớm. Ngay từ năm 1948, Tuyên ngôn châu Mỹ về</small>

các quyền và nghĩa vụ của con người đã được thông qua. Đến ngày 22/11/1969, Công ước châu Mỹ về Nhân quyền <small>(Hiệp ước San José) được các nước châu Mỹ chấp thuận.</small>

Công ước đã tái khẳng định những nguyên tắc nền tảng

trong Tuyên ngôn châu Mỹ về các quyền và nghĩa vụ của

<small>con người, trong đó ghi nhận con người có các quyền dân</small>

sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá... Nền

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

tảng của hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở

châu Phi là Hiến chương châu Phi về quyền con người và

quyền các dân tộc được thơng qua ngày 27/06/1981 và có

hiệu lực vào năm 1986. Chau A là châu lục lén nhất trên

thế giới với dân số chiếm một nửa nhân loại nhưng là châu lục duy nhất hiện chưa thiết lập được cơ chế chung về bảo

vệ và thúc đẩy các quyền con người. Có lẽ châu Á là châu

lục có q nhiều khác biệt về tơn giáo, văn hố, lịch sử,

chính trị và cả kinh tế,

Tuy nhiên, ở châu Á cũng tồn tại những văn kiện và

thiết chế chung. Trong khu vực thế giới A Rap có Tuyên bố

Cairo về quyền con người trong các quốc gia Hồi giáo năm

1990; Tuyên bố về bảo vệ người tị nạn và người bị chuyển

dịch trong thế giới Ả Rập năm 1992: Hiến chương Ả Rập

về quyền con người thông qua vào ngày 15/09/1994 và

được sửa đối trong Hội nghị thượng đỉnh A Rap 6 Tunisia

năm 2004, Hiến chương có hiệu lực vào ngày 16/03/2008.

Các quốc gia ở Đơng Nam Á có Tun bố nhân quyền

ASEAN (AHRD). Đây là văn bản tuyên bố chung về nhân

quyền của các nước ASEAN được thông qua 18/11/2012.

Tuyên bố Nhân quyền ASEAN gồm 40 điều khoản, khẳng

định mọi cơng dan ASEAN có 4 nhóm quyền căn bản về

dân sự và chính trị, về kinh tế, xã hội và văn hố, quyền

phát triển và quyền hưởng hồ bình. Như vậy, trong những văn bản kể trên đều ghi nhận con người có quyền

<small>1! Khoa Luat - Dai học Quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình Ly luậnvà Pháp luật về Quyền con người, NXB. Chính trị quốc gia.</small>

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

sống, quyền được đối xử nhân đạo, cơng bằng, quyền có

cuộc sống riêng tư, quyền lập hội, kết hôn...

Ở cấp độ quốc gia, quyền con người cũng được khẳng

định trong các bản tuyên ngôn và hệ thống pháp luật của

mỗi quốc gia. Trong lời nói đầu của Tuyên ngôn Độc lập của

Hoa Kỳ năm 1776 khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được tạo hố

ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 có 17 điều, trong đó có nhiều điều chú

trọng đến quyền tự do, bình dang về quyền lợi và biện pháp

bảo đảm quyền. Hay trong bản Tuyên ngôn Độc lập của

<small>Việt Nam năm 1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân</small>

chủ Cộng hoà. Tuyên ngôn khẳng định “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền

ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Như vậy, trong các bản tuyên ngôn của một số

quốc gia cũng đều khẳng định con người từ khi sinh ra đã

được hưởng các quyền tự nhiên, vốn có như quyền được

sống, được đối xử bình đẳng, quyền tự do...

Tất cả những văn bản kể trên của Liên hợp quốc, khu

vực hay quốc gia đều ghi nhận về quyền con người nhưng

khơng có văn bản nào đưa ra định nghĩa về quyền con người. Khái niệm quyền con người đã được đề cập trong một

số tài liệu trong nước và nước ngoài. Ỏ phạm vi quốc tế có

định nghĩa của Văn phịng Cao uỷ Liên hợp quốc về quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

con người được sử dụng khá phổ biến, theo đó quyền con

người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu và các nhóm

chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn

hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản

của con người'. Một số tài liệu trong nước định nghĩa về quyền con người như sau: Quyền con người thường được

hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con

người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế”. Quyền con người là

phẩm giá, nhu cau, lợi ích, nang lực vốn có và chỉ có 6 con

người - với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại,

được thể chế hoá trong pháp luật quốc tế và pháp luật

quốc gia".

Qua đó có thể thấy, quyền con người là quyền bẩm

sinh, vốn có, là quyền tự nhiên, con người sinh ra đã được hưởng. Tuy nhiên, quyền tự nhiên, vốn có đó sẽ khơng có cơ sở thực hiện trên thực tế nếu như không được nhà nước

ghi nhận bằng pháp luật bởi chỉ khi mang tính pháp lý các

quyền tự nhiên mới trở thành quyền con người. Bên cạnh đó, pháp luật là cơ sở đảm bảo quyền con người được tôn <small>trọng và thực hiện.</small>

<small>2 United Nation (1994), Human rights: Question and answer, tr.4.</small>

<small>!# Nguyễn Dang Dung, Vũ Công Giao, La Khanh Tùng (2011), Giáotrình Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB. Đại học Quốc</small>

<small>gia Hà Nội, Hà Nội, tr.38.</small>

<small>' Trung tâm nghiên cứu quyền con người Học viện Chính trị quốc</small>

<small>gia Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình lý luận về quyền con người, Hà</small>

<small>Nội, tr.31.</small>

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Từ đó, có thể hiểu quyền con người là những lợi

ích tự nhiên, vốn có của con người được pháp luật

quốc tế và quốc gia ghi nhận và bảo vệ.

Quyền của NKT không được quy định riêng trong Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 và hai Công ước về Quyền dân sự, chính trị và Quyền kinh tế, xã hội, văn hố năm 1966. Các Cơng ước ghi nhận tất cả mọi người sinh ra

đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi, khơng bị

phân biệt vì bất cứ lý do nào. Điều đó có nghĩa rằng, quyền

con người là quyền vốn có dành cho tất cả mọi người trong đó có NKT, là giá trị thuộc về tồn nhân loại, khơng phụ thuộc

vào sự thừa nhận của một quốc gia hay tổ chức nào và nhà

nước có nghĩa vụ tơn trọng những quyền đó.

Trong hai Cơng ước về Quyền dân sự, chính trị và

Quyền kinh tế, xã hội, văn hố năm 1966 có các điều

khoản về quyền trẻ em, phụ nữ và người thiểu số nhưng

khơng có quy định riêng về NKT. Theo Ủy ban về Quyền

kinh tế, xã hội, văn hố, việc khơng có một điều ước

riêng hay những điều khoản cụ thể liên quan đến vấn đề

quyền của NKT trong hai công ước quốc tế cơ bản về

quyền con người năm 1966 là do nhận thức không đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề này chứ không phải là sự lãng quên các quyền con người của NKT', Tuy nhiên, những quy định trên đã đưa ra những chuẩn mực chung

về quyền con người và quyền của NKT.

<small>!* Đoạn 6 Khuyến nghị chung số 5 năm 1994 của Uy ban về cácquyền kinh tế, xã hội, văn hoá.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Tính đến thời điểm trước năm 2007 chỉ có duy nhất 2

cơng ước quốc tế của Liên hợp quốc có giá trị pháp lý ràng

buộc đề cập trực tiếp đến quyền của NKT là Cơng ước về

xố bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Công

<small>ước CEDAW) được thông qua ngày 18/12/1979 va Công</small>

ước về Quyền trẻ em (Công ước CRC) được thông qua

ngày 21/11/1989. Điểm e Khoản 1 Điều 11 Công ước

CEDAW ghi nhận “Quyền được hưởng an sinh xã hội, đặc biệt trong các trường hợp về hưu, thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, tuổi già và các tình trạng mất khả năng lao động khác, cũng như quyền được nghỉ phép có hưởng lương”.

Cịn trong Công ước CRC ghi nhận trẻ em khuyết tật

được đối xử bình dang như những trẻ em khác. Cơng ước dành riêng Điều 23 để ghi nhận quyền của trẻ em khuyết

tật: “Quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em khuyết

tật về tinh thần hay thể chất cần được hưởng một cuộc

sống đầy đủ và tươm tất, thừa nhận quyền của trẻ em

khuyết tật được chăm sóc đặc biệt và tùy theo các nguồn

luc sẵn co, để bảo dam rằng trẻ em khuyết tật được tiếp

cận một cách hiệu qua và được nhận sự giáo dục, đào tạo,

dich vụ y tế, phục hồi chức nang, việc làm, vui chơi, giải

trí để trẻ em có thể hồ nhập tối đa vào xã hội và phát

triển năng lực cá nhân”.

Qua các văn kiện trên cho thấy NKT cũng có những

quyền cơ bản và bình đẳng hưởng quyền như các chủ thể

<small>khác trong xã hội, mặc dù, sự thừa nhận đó chưa được ghi</small>

nhận trong một văn bản thống nhất về NKT. Cho đến khi

Công ước Quyền người khuyết tật (Công ước CRPD) được

<small>3]</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày

13/12/2006, và được mở để ký vào ngày 30/3/2007. Sau khi được nước thứ 20 phê chuẩn, Cơng ước có hiệu lực vào

ngày 03/5/2008. Tính đến tháng 11 năm 2019, có 163

người ký và 181 bên, bao gồm 190 quốc gia và Liên minh

châu Au.

Công ước sau nhiều thập kỷ làm việc của Liên hợp

quốc đã thay đối thai độ va cách tiếp cận đối với NKT. Dua

lên một tầm cao mới từ việc xem NKT là “đối tượng” của

từ thiện, điều trị y tế và bảo trợ xã hội tới việc việc xem

NKT là “chủ thể” có quyền, có khả năng thực hiện những

quyền đó và đưa ra quyết định cho cuộc sống của chính

mình dựa trên sự tự do và bình đẳng cũng như việc trỏ

thành một thành viên tích cực của xã hội.

Công ước Quyền của NKT năm 2006 đã thừa nhận các

quyền và tự do cơ bản của con người có tính phổ quát nằm

trong một chỉnh thể thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau và

liên quan lẫn nhau, và rằng cần bảo đảm cho NKT được hưởng đầy đủ các quyền này mà khơng có sự phân biệt

nào. Mục đích của Công ước là thúc đẩy, bảo vệ và bảo

đảm cho NKT được hưởng một cách bình đẳng và đầy đủ

tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người, và thúc

đẩy sự tơn trọng phẩm giá vốn có của họ.

<small>'® United Nations (2020), Convention on the Rights of Persons with</small>

<small> class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Công ước ghi nhận day đủ các quyền cơ bản mà NKT cũng như tất cả mọi người đều được hưởng trên mọi lĩnh

vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội. Bên cạnh

đó, Cơng ước CRPD cịn ghi nhận các quyển dành riêng cho NKT như quyền được cung cấp những dịch vụ y tế đặc biệt, quyền được tập luyện, phục hồi chức năng, quyền

được tiếp cận bình đẳng trên cơ sở loại bỏ những rào cản

<small>và chướng ngại...</small>

Công ước quyền NKT năm 2006 đặc biệt quan tâm

đến tính chất ton thương kép của phụ nữ và trẻ em khuyết

tật. Bởi phụ nữ và trẻ em khuyết tật đặc biệt là trẻ em gái

khuyết tật thường dễ bị bạo hành, thương tổn hoặc lạm dụng, bị đối xử vô trách nhiệm hoặc bất cẩn, ngược đãi hay

bóc lột. NKT phải đối mặt với nhiều trở ngại trong cuộc

đấu tranh cho quyền bình đẳng. Mặc dù cả nam và nữ

khuyết tật đều bị phân biệt đối xử, phụ nữ khuyết tật bị

phân biệt gấp đôi do phân biệt đối xử dựa trên giới tính và

tình trạng khuyết tật của họ. So với nam khuyết tật, phụ nữ khuyết tật thường nghèo hơn, khơng biết chữ hoặc

khơng có kỹ năng nghề nghiệp, và hầu hết trong số họ đều thất nghiệp. Họ ít được tiếp cận với các dịch vụ phục hồi

chức năng, họ khơng có nhiều khả năng được hỗ trợ từ gia đình hoặc cộng đồng và họ thường phải chịu sự cô lập xã hội lớn hơn do khuyết tật!”. Trẻ em khuyết tật cần được bảo vệ vì: 1) Trẻ em khuyết tật thường khơng tồn tại chính <small>‘7 Arthur O'Reilly (2003), The right to decent work of persons with</small>

<small>disabilities, International Labour Office - Geneva, tr.48.</small>

<small>33</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>thức vì khơng được đăng ký khi sinh; ii) Trẻ em khuyết tật</small>

cần được bảo vệ hơn khỏi bạo lực và các mối đe dọa đối với

cuộc sống, vì các em dé bị bạo hành hơn; iii) Trẻ em khuyết tật hiếm khi được thông báo về các quyền của

minh và do đó khơng thể tham gia day đủ và hiệu quả vào

các quyết định liên quan đến các em”.

Như vậy, Công ước quốc tế về Quyền NKT đã ghi nhận NKT có các quyền cơ bản như tất cả những người khác nhưng bên cạnh đó cũng có những quyền riêng mà chỉ NKT được hưởng. Công ước đặc biệt quan tâm đến

những NKT có tính tổn thương kép như NKT nữ, trẻ em

khuyết tật, trẻ em gái khuyết tật. Công ước đưa ra các

biện pháp nhằm thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm cho NKT

được hưởng thụ đầy đủ các quyền và bình đẳng thụ

hưởng quyền.

Bên cạnh các cơng ước quốc tế, Liên hợp quốc cịn phê

chuẩn hai bản tuyên ngôn và hai văn kiện pháp lý khác về

quyền NKT. Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn về

Quyền của NKT tâm thần vào ngày 24/12/1971; Tuyên ngôn về Quyền của NKT thông qua ngày 09/12/1975; Các

nguyên tắc bảo vệ người mắc bệnh tâm thần và cải thiện

việc chăm sóc sức khoẻ tâm thần được thơng qua ngày

17/12/1991; Các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng cơ hội

<small>cho NKT được thơng qua ngày 20/12/1998.</small>

<small>'® Marianne Schulze (2010), Understanding the UN Convention on</small>

<small>the rights of persons with disabilities, Handicap International,</small>

<small>tr.66.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Tuyên ngôn về Quyền của NKT năm 1975 đã ghi

nhận NKT về tâm thần có các quyền ở mức tối đa có thể

như những người bình thường khác. NKT về tâm thần có

quyền được chăm sóc sức khoẻ, vật lý trị liệu phù hợp,

được đảm bảo về kinh tế và mức sống đầy đủ, có quyền được bảo vệ khơng bị bóc lột, lạm dụng và đối xử hạ nhục.

Họ có quyền được giáo dục, đào tạo, phục hồi chức năng,

làm việc phù hợp với khả năng và tiém năng của mình. Đối với NKT về tâm thần nặng mà buộc phải hạn chế hoặc phủ nhận một số quyền của họ thì pháp luật phải quy

định cụ thể.

Ngồi 4 văn bản trên, cịn có các văn bản của ILO về quyền lao động, việc làm của NKT. Công ước số 159 về phục hồi hướng nghiệp và việc làm cho NKT năm 1983;

Khuyến nghị số 168 về phục hồi hướng nghiệp và việc làm đối với NKT năm 1975; Khuyến nghị số 99 về phục hồi

<small>hướng nghiệp và việc làm cho NKT năm 1975.</small>

Các nước trên thế giới cũng ghi nhận quyền NKT

trong pháp luật quốc gia. Nhiều quốc gia đã ban hành luật

điều chỉnh riêng về NKT và quyền NKT. Ở Hoa Kỳ, quyền

NKT được ghi nhận trong Luật NKT năm 1990 (sửa đổi

năm 2008); ở Trung Quốc, quyền NKT được ghi nhận

trong Luật NKT năm 1990 (sửa đổi năm 2015); ở Nhật

Bản, quyền NKT được ghi nhận trong Luật Cơ bản về

NKT năm 2004; ở Ấn Độ, quyền NKT được ghi nhận trong

Luật Quyền NKT năm 2018: ở Việt Nam, quyền NKT' được <small>ghi nhận trong Luật NKT năm 2010...</small>

<small>ao</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Qua đó, có thể hiểu quyền của NKT là tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người và quyền ưu

<small>tiên so với những người khác được ghi nhận trong</small>

pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.

2.2. Đặc điểm quyền của người khuyết tật

Quyền NKT trước hết là quyền con người nên quyền

NKT có day đủ đặc điểm của quyền con người. Kể từ khi

Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 được thơng qua thì

cộng đồng quốc tế đã cơng nhận quyền con người có một số

đặc trưng như: Quyền con người là bất khả xâm phạm;

quyền con người là không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau

và liên quan đến nhau; quyền con người là phổ quát.

Thứ nhất, quyền con người là bất khả xâm phạm

Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có với

tất cả mọi người, gắn liền với sự tồn tại của con người nói

chung và NKT nói riêng. Đó là những quyền mà ngay từ khi sinh ra con người đã được hưởng và chỉ chấm dứt khi

con người khơng cịn tôn tại. Những quyền này tôn tại

khách quan và tất cả quốc gia phải cơng nhận. Quyền

sống, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được tự do

an toàn cá nhân, quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc

trừng phạt tàn ác vơ nhân đạo, quyền khơng bị bóc lột, bạo

hành, lạm dụng, quyền sống độc lập, quyền tự do biểu đạt

chính kiến, quyền được tơn trọng cuộc sống riêng tư, quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được lao động và có việc làm, quyền được tham gia

vào hoạt động văn hố, vui chơi, giải trí, thể dục thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

thao... Đây đều là những quyền cơ bản, quan trọng với tất

cả mọi người, bởi nếu khơng có quyền này con người khơng

thể sống như một con người. Do đó, khơng một quốc gia

nào, nhóm người hay cá nhân nào có quyền tước bỏ hoặc hạn chế quyền con người. Tất cả các quốc gia phải có nghĩa vụ ghi nhận và bảo đảm thực hiện.

Quyền cá nhân van nằm trong quyền xã hội, do đó, trong một số trường hợp vì lợi ích chung của xã hội, các quốc gia có quyền đặt ra những hạn chế quyền con người. Việc hạn chế quyền con người không phải tuỳ tiện mà chỉ

áp dụng trong trường hợp như khi các quốc gia thúc đẩy

phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ (Điều 4 Cơng ước

ICESCR) hay trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xây

ra đe doa sự sống còn của quốc gia và đã được chính thức cơng bố (khoản 1 Điều 4 Công ước ICESCR). Việc hạn chế quyền con người phải được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và phải bảo đảm sự hạn chế đó khơng trái với bản chất quyền con người và không chứa đựng sự phân biệt đối xử

nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo

hay nguồn gốc xã hội.

Thứ hai, quyền con người không thể chia cắt và phụ

thuộc lẫn nhau

Các quyền con người có mối quan hệ nội tại và

không thể tách biệt với nhau. Việc hưởng thụ một quyền

có mối quan hệ mật thiết với quyền khác và khơng có quyền nào quan trọng hơn quyền nào. Điều này có nghĩa là quyền dân sự, chính trị cũng như quyền kinh tế, xã

hội, văn hoá đều được đối xử bình dang, khơng có quyền

<small>37</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

nào được ưu tiên hơn quyền nào. Mỗi quyền đều có ý nghĩa và giá trị riêng đối với mỗi người nên tất cả các quyền đều phải được bảo đảm thực hiện như nhau. Tuy

nhiên, điều đó khơng đồng nghĩ với việc quyền con người

phải được quan tâm với mức độ giống nhau trong mọi

trường hợp. Bởi trong một số hoàn cảnh cụ thể, với một

số chủ thể đặc thù thì có những quyền lại có giá trị hơn hắn so với quyền khác. Ví dụ như khi con người được tự

do thì quyền được đảm bao thu nhập, quyền được lao

<small>động, giáo dục... được ưu tiên hơn nhưng khi con người</small>

bị bắt giữ vơ cớ thì quyền tự do lại là điều con người

quan tâm duy nhất.

Thứ ba, quyền con người mang tính phổ biến

Quyền con người được áp dụng bình đẳng cho tất cả

mọi người trên thế giới. Con người khơng bị phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do nào như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngơn ngữ, tơn giáo, chính kiến, quan niệm, nguồn gốc, dân tộc, xã hội, tài sản, dòng dõi hay “bất cứ thân

trạng nào khác” (Điều 2 Tuyên ngôn quyền con người

<small>năm 1948).</small>

Việc thực hiện và hưởng thụ quyền trên thực tế còn

phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử, nền văn hoá, sự phát

triển kinh tế - xã hội của từng khu vực, từng quốc gia. Khi

xã hội càng phát triển thì quyền con người càng được quan

tâm và bảo đảm cao hơn.

Bên cạnh những đặc điểm chung, quyền của NKT cịn

có những đặc điểm riêng như tính ưu tiên, tính hạn chế và

<small>tính dae thủ,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Một là tính ưu tiên của quyền của NKT.

Về nguyên tắc mọi người đều được hưởng quyền bình

dang như nhau nhưng sự bình dang thực chat chi đạt được

trong điều kiện các chủ thể có năng lực và thực hiện ở

những hồn cảnh như nhau. NKT thường có sức khoẻ hoặc nhận thức hạn chế hơn, mức thu nhập thường thấp hơn so

với người bình thường nên để giúp NKT đến gần vạch xuất

phát khi thực hiện quyền thì cần dành cho họ một số quyền uu tiên so với người khơng khuyết tật. Ví dụ trong

giáo dục, NKT được nhập học ở độ tuổi cao hơn, được

miễn/giảm một số mơn học/nội dung mơn học, được miễn

giảm học phí, được miễn giảm giá vé khi tham gia phương <small>tiện giao thơng cơng cộng...</small>

NKT có nhiều dạng tật như khuyết tật vận động;

khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần

kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác và NKT có các mức độ khuyết tật như khuyết tật đặc biệt nặng, khuyết tật nặng, khuyết tật nhẹ. Mức độ khuyết tật,

dạng khuyết tật, giới tính, độ tuổi... là căn cứ để xác định

quyền ưu tiên cho NKT.

NKT có mức độ khuyết tật nặng hơn được hưởng nhiều quyền ưu tiên hon so với NKT nhẹ. Ví dụ: mức trợ

cấp xã hội hàng tháng dành cho NKT đặc biệt nặng sẽ cao hơn mức trợ cấp dành cho NKT nhẹ. Dựa vào dạng

tật thì NKT tâm thần được hưởng một số quyền ưu tiên

mà NKT khác lại không được hưởng. Ví dụ NKT tâm

thần dẫn đến khơng có/mất khả năng nhận thức và điều

khiển hành vi thì dù thực hiện hành vi vi phạm pháp

<small>39</small>

</div>

×