Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.98 MB, 206 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Ngân PGS. TS. Nguyễn Hiền Phương TS. Đỗ Thị Dung
<small>TS. Lê Thị Anh Đào</small>
NCS. Nguyễn Thị Thu Hường TS. Nguyễn Thị Tuyết Vân ThS. Nguyễn Tiến Dũng
<small>NCS. Đoàn Xuân TrườngCN. Huỳnh Phương Anh</small>
258-2021/CXBIPH/08-03/CAND
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">thường gặp phải những khó khăn trong việc thụ hưởng quyền trong các lĩnh vực của cuộc sống so với các đối tượng
đẩy thụ hưởng quyền của người khuyết tật không chỉ là
vấn để của riêng quốc gia tiến bộ nào mà đã trở thành vấn đề toàn cầu trong điều chỉnh pháp luật.
khuyết tật là việc thông qua Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (CRPR) (ngày 13/12/2006) của Đại
coi như khung pháp lý quốc tế, trên cơ sở đó các quốc gia
phê chuẩn Cơng ưóc và nội luật hố thực hiện nhằm đảm
bảo quyền cho người khuyết tật. Tính đến năm 2020, trên
thế giới có 182 quốc gia đã tham gia phê chuẩn Công ước
này. Việt Nam là một trong những quốc gia ngay từ đầu
ngày 28/12/2014. Bằng Luật Người khuyết tật năm 2010
và một số văn bản liên quan. Việt Nam đã thực hiện điều
chỉnh pháp luật quốc gia trong mối tương quan dam bao sự tương thích và nâng cao hơn nữa quyền của người khuyết tật trên mọi lĩnh vực. Bên cạnh những thành công
đạt được, pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn thực
<small>3</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">hiện còn nhiều hạn chế cần được nghiên cứu nhằm đề ra
những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện.
quế tế, cụ thể là Công ước quốc tế về quyển của người
khuyết tật và thực trạng nội luật hoá ở Việt Nam trên các lĩnh vực chủ yếu như giáo dục, y tế, trợ giúp xã hội, tiép cận các dịch vụ xã hội cơ bản hay trong lao động, việc làm, tu pháp... Nhà Xuất bản Công an nhân dân xuất bản cuối
sách chuyên khảo “Bình luận về quyền của người
khuyết tật theo Công ước quốc tế và thực trạng nội luật hoá ở Việt Nam’. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu
nghiệm giảng dạy, nghiên cứu trong lĩnh vực Luật Người khuyết tật ở Việt Nam do PGS.TS Nguyễn Hiền Phương -Phó Viện trưởng Viện Luật so sánh Trường Đại học Luật Ha Nội là chủ biên và chịu trách nhiệm về nội dung.
Cuốn sách không chỉ cung cấp những vấn đề lý luận về quyền của người khuyết tật mà cịn bình luận chuyên sâu từng nội dung quyền trong các lĩnh vực của cuộc sống
từ tiếp cận so sánh, soi chiếu giữa quy định của Cơng ưóc quốc tế về quyền của người khuyết tật và quy định pháp
luật quốc gia. Những kết quả nghiên cứu của cuốn sách có giá trị hữu ích trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy học tập và đặc biệt trong việc hoàn thiện pháp luật quốc gia hướng tới sự tương thích với pháp luật quốc tế, ngày càng
nâng cao hơn nữa vị thế của người khuyết tật.
Hy vọng cuốn sách sẽ luôn là tài liệu hữu ích với mỗi <small>bạn đọc!</small>
<small>Trân trọng giới thiệu!</small>
NCS. Nguyễn Thị Thu Hường”
1.1. Khái niệm người khuyết tật
Khuyét tật là một hiện tượng đã, đang và sẽ tồn tại
như một rhần trong cuộc sống loài người. Khuyết tật tạo nên sự đa dạng cho tự nhiên và cộng đồng xã hội. Nhà
nước, xã Oi và tất cả mọi người phải thừa nhận và tơn
<small>trọng sự k¬ác biệt này.</small>
Người khuyết tat (NKT) là người có sự khác biệt về
thể chất, tinh thần va họ gặp phải nhiều khó khăn trong cuộc sống so với người bình thường. Để loại bỏ những bất cơng NKT gặp phải và tăng cường cơ hội bình đẳng cho họ
thì việc hiểu đúng thuật ngữ NKT là rất quan trong.
Thuật ngữ NKT là một khái niệm dễ thay đổi, tuỳ thuộc vào hồn cảnh lịch sử, văn hố, kinh tế, xã hội khác
Trường Dei học Khoa học - Đại hoc Thái Nguyên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">thuật ngữ NKT không chi thay đổi về hình thức (nói cách khác là thuật ngữ được sử dụng để mơ tả tình trạng khuyết tật) mà còn thay đổi về nội hàm của thuật ngũ
này. Công ước về quyền của NKT năm 2006 ghi nhận
“thừa nhận rằng sự khuyết tật là một khái niệm luôn tiến
Liên hợp quốc, văn kiện của Tổ chức Lao động quốc tê
(ILO) cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế gidi.
Thuật ngữ NKT trong pháp luật quốc tế có sự thay đổi
person” (người tàn tật) được thay thế bởi “people with disabilities” (người khuyết tật). Thuật ngữ “handicap” có
lịch sử lâu hơn vì hồ sơ cho thấy rằng nó được sử dụng lần
đầu tiên vào những năm 1500 -1600. Mặt khác, khuyết tật (disability) có lịch sử ngắn hơn nó được thay thế thuật ngữ
tan tat (handicap) vào năm 1990).
Trong một số văn bản pháp lý quốc tế trước đây, thuật
ngữ “người tàn tật” được sử dung để chỉ NKT. Trong
Tuyên ngôn về quyền của NKT được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 09/12/1975 sử dụng thuật ngữ
“handicapped”. Công ước Quyền trẻ em được Đại hội đồng
Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 20/11/1989 sử dụng thuật
ngữ “trẻ em tàn tật” (disabled child). Trong văn ban cua
hồi chức năng nghề nghiệp cho NKT năm 1955; Công ước
* Gene Balinggan (2019), “The difference between handicapped and
<small>disabled”, Diference Between.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">số 159 về phục hồi chức năng nghề nghiệp và việc làm cho NKT năm 1983; Khuyến nghị số 168 về phục hồi chức năng nghề nghiệp và việc làm cho NKT năm 1983 đều sử
dụng thuật ngữ “disabled person”. Đến ngày 13/12/2006
tại kỳ họp lần thứ 61 của Đại hội đồng Liên hợp quốc các
người khuyết tật (CRPD). Công ước đã chính thức sử dụng
thuật ngữ “people with disabitity” (người khuyết tật).
Pháp luật Việt Nam quy định về NKT cũng có sự thay
đối theo thời gian. Các vấn đề liên quan đến NKT được ghi
nhận trong các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước cho đến nay. Vấn đề này được ghi nhận tại Điều 14 Hiến pháp năm 1946; Điều 32 Hiến pháp năm 1959; Điều 59, Điều 67, Điều 74 Hiến pháp năm 1992 đều sử dụng thuật ngữ
“người tàn tật”. Một số văn bản khác như Pháp lệnh người
<small>tàn tật năm 1998: Bộ luật Lao động năm 1994; Nghị định</small>
số 81-CP ngày 23/11/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của BLLĐ về người tàn tật; Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 đều sử dụng thuật ngữ “người tàn tật”; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
<small>dụng thuật ngữ “trẻ em tàn tật”. Thực ra cách gọi này là</small>
phù hợp với các văn ban của Liên hợp quốc va ILO ở thời
Đến năm 2001, Quốc hội ban hành Nghị quyết số
<small>7</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">luật chuyên ngành khác như Luật Người khuyết tật năm
2010; Bộ luật Lao động năm 2012; Luật Giao thông đường
“người khuyết tật”.
tật” thay thế “người tàn tật” có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi
Từ “tàn” trong cụm từ “tàn tật” thường gợi đến hình ảnh
tiêu cực, tạo cảm giác khơng cịn kha năng gì, khơng có
tương lai và điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nỗ lực phấn đấu vượt lên hồn cảnh khó khăn. Còn từ “khuyết”
trong cụm từ “khuyết tật” mang ý nghĩa suy giảm chức
năng nhưng vẫn còn khả năng phục hồi và còn hy vọng.
Việc các quốc gia sử dụng thuật ngữ “người khuyết tat” là
<small>phù hợp với xu hướng chung hiện nay.</small>
Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia khi định
nghĩa NKT không chỉ thay đổi về mặt từ ngữ mà cịn có sự
rõ nét qua quy định trong các văn bản của Liên hợp quốc
từ xưa cho đến nay. Theo Tuyên ngôn về quyền của NKT năm 1975 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc thì thuật ngữ
người tan tat (handicapped) là bat cứ người nào mà khơng có khả năng tự đảm bảo cho bản thân, toàn bộ hay từng
phần, những sự cần thiết của một số cá nhân bình thường
NKT do Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
<small>20/12/1993, thuật ngữ “khuyết tật” có nghĩa là mất hay</small>
hạn chế cơ hội tham gia vào cuộc sống cộng đồng ở mức độ
bình dang với những người khác. Nó miêu tả sự đối mặt
<small>giữa NKT và mơi trường. Mục đích của thuật ngữ này là</small>
nhấn mạnh vào những thiếu sót của mơi trường và của
nhiều hoạt động có tổ chức của xã hội, ví dụ như, thông
tin, liên lạc và giáo dục, ngăn cản NKT tham gia một cách
(CRPD) năm 2006 của Liên hợp quốc quy định NKT bao
gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất,
tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với
gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình
Trong một số văn ban của ILO cũng có sự quy định khác nhau về thuật ngữ NKT. Theo Khuyến nghị số 99 của ILO về phục hồi chức năng nghề nghiệp cho NKT năm
1955 thì NKT có nghĩa là một cá nhân có triển vọng đảm bảo và duy trì việc làm phù hợp giảm đáng kể do suy yếu về thể chất hoặc tinh thần. Theo Công ước số 159 của ILO
về phục hồi chức năng lao động và việc làm cho NKT năm
1983, thuật ngữ NKT dùng để chỉ một cá nhân có triển
vọng bảo đảm, duy trì, thăng tiến trong cơng việc phù hợp
bị giảm đáng kể do sự suy yếu về thể chất hoặc tinh than
được công nhận hợp lệ. Khuyến nghị số 168 của ILO về
phục hồi chức nang lao động và việc làm cho NKT 1983,
<small>NKT chỉ một cá nhân mà khả năng có việc làm phù hợp,</small>
<small>B</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>trụ lâu dài với cơng việc đó và thăng tiến với nó bị giảm</small>
hoặc tâm thần được thừa nhận.
Một số quốc gia trên thế giới cũng có định nghĩa
khác nhau về NKT. Luật về Người khuyết tật Hoa Kỳ
nghĩa là đối với cá nhân có khiếm khuyết về thể chất
động sinh hoạt chính của cá nhân đó, có hồ sơ về sự suy yếu đó hoặc được coi là có suy yếu. Các hoạt động chính trong cuộc sống bao gồm, nhưng không bị giới hạn, chăm
sóc bản thân, thực hiện các cơng việc thủ cơng, nhìn, nghe, ăn, ngủ, đi, đứng, nâng, uốn, nói, thở, học, đọc, tập trung, suy nghĩ, giao tiếp và làm việc. Đồng thời khái niệm khuyết tật này không áp dụng với những suy giảm
tạm thời có thời gian thực tế hoặc dự kiến là 6 tháng
<small>hoặc ít hơn. So với Luật NKT năm 1990 của Hoa Kỳ thì</small>
định nghĩa này khơng có gì thay đổi, luật sửa đổi năm
2008 chỉ làm rõ một số thuật ngữ như “các hoạt động
Điều 2 Luật Bảo vệ Người khuyết tật Trung Quốc năm
1990 quy định: “NKT là một trong những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lí hay sinh lí, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và
những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham
<small>gia vào các hoạt động một cách bình thường”. Khai niệm</small>
NKT đã được tiếp cận đầy đủ hơn tại Điều 5 Luật Bảo vệ
Quyền người khuyết tật Trung Quốc năm 1990 (sửa đối
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">năm 2015): “NKT là những người có sự sai lệch hoặc mất
gia vào các hoạt động sống thông thường và tham gia vào xã hội; và họ, sau các quá trình đánh giá của uy ban bao gồm các chuyên gia từ y học, công tác xã hội, giáo dục đặc
<small>một trong các loại trục trặc sau đây và đưa ra một nhận</small>
dạng khuyết tật: chức năng tâm thần và cấu trúc của hệ
cảm giác liên quan; chức năng và cấu trúc liên quan đến giọng nói và lời nói; chức năng và cấu trúc liên quan đến hệ
thống tim mạch, huyết học, miễn dịch và hô hấp; chức năng
và nội tiết; chức năng và cấu trúc liên quan đến hệ thống sinh dục và sinh sản; chức năng và cấu trúc liên quan đến hệ thần kinh và vận động: chức năng và cấu trúc liên quan
đến da”.
Theo Điều 2 Luật Co bản về Người khuyết tật Nhật
Bản năm 2004 thì “Người khuyết tật có nghĩa là những cá nhân có cuộc sống hàng ngày hoặc đời sống xã hội bị hạn
hoặc tinh than’.
(Đạo luật về người khuyết tật - BGG) năm 2002 thuộc
cuốn thứ 9 cua Bộ luật xã hội Đức định nghĩa người
độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự khơng bình
<small>1]</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">thường này là ngun nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội. Đến năm 2018, luật này
Người khuyết tật là những người bị suy yếu về thể chất. tâm lý, tinh thần hoặc giác quan lâu dài, tương tác với các
rào can về thái độ và mơi trường, có thể can trỏ họ tham
thời gian có khả năng kéo dài hơn sáu tháng.
Tại Điều 2 Bộ luật An sinh xã hội, quyển số 9 Bộ Luật
xã hội Đức về phục hồi chức năng và sự tham gia của NKT
(SGB) năm 2001 (sửa đổi năm 2017) định nghĩa người
hoặc sức khoẻ tâm thần của họ với giảm sút hơn sáu tháng
so với tình trạng bình thường của cuộc sống, do đó, việc tham gia vào xã hội bị suy giảm.
cho Luật Người khuyết tật năm 1995. Cả hai văn bản luật
đều sử dụng thuật ngữ “người khuyết tật” (people with disability). Mục 2 Phần 1 Luật Quyền của Người khuyết
(person with disability), người khuyết tật bao gồm những
quan lâu dài, tương tác với các rào can khác nhau có thé
can trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ vào xã hội
bảo vệ cả NKT trong q khứ nếu một người có tình trạng
sức khoẻ thâm thần trong quá khứ kéo dài hơn 12 tháng nhưng bây giờ đã hồi phục thì vân được bảo vệ khỏi sự
phân biệt đối xử.
<small>Trong pháp luật Việt Nam khái niệm NKT được ghi</small>
nhận trong Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998 và hiện
nay là Luật NKT 2010. Điều 1 Pháp lệnh người tàn tật quy định: Người tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay
dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động,
khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn. Khoản 1 Điều 2 Luật NKT 2010 quy định NKT là
vậy, khái niệm NKT trong Luật NKT năm 2010 chi thay
<small>dung khái niệm thì khơng có gì khác biệt.</small>
Xét về nội hàm thuật ngữ NKT trong pháp luật quốc
tế và các quốc gia hiện nay đang được tiếp cận theo hai góc
độ là góc độ y tế và góc độ xã hội.
Thứ nhất. tiếp cận khuyết tật dưới góc độ y tế.
suy giảm thể chất, tinh thần của cá nhân, từ đó đã làm
khiếm khuyết đã khiến họ bị khuyết tật, như vậy khuyết
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">nhân đó phải thay đổi. Tuyên bố về quyền NKT năm 1975
của Liên hợp quốc, Khuyến nghị số 99 về phục hồi chức năng nghề nghiệp cho NKT năm 1955; Công ước số 159 về
phục hồi chức năng nghề nghiệp và việc làm cho NKT năm
1983; Khuyến nghị số 168 về phục hồi chức năng nghề
<small>nghiệp và việc làm cho NKT năm 1983 của ILO và pháp</small>
luật của một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Việt Nam... hiện nay vẫn tiếp cận dưới góc độ y
tế. Điều này cũng dễ hiểu bởi biểu hiện đầu tiên để xác định khuyết tật là do sự khiếm khuyết của cơ thể, nên nhiều quốc gia van nhấn mạnh đến yếu tố y học để xác
định tình trạng khuyết tật. Thậm chí, một số quốc gia khi
định nghĩa về NKT còn coi khiếm khuyết cơ thể là căn cứ
duy nhất xác định tình trạng khuyết tật (như quy định về NKT trong luật bảo vệ NKT năm 1990 của Trung Quốc).
gắng tìm ra cách chữa trị cho NKT để họ khắc phục tốt hơn về tình trạng sức khoẻ và giúp họ điều chỉnh bản thân
đặc biệt và cần phải được đối xử đặc biệt như giáo dục đặc
biệt, giao thông đặc biệt, vui chơi giải trí đặc biệt... Vơ hình chung đã tách biệt, loại trừ NKT với cuộc sống, khi đó NKT càng cảm thấy mình khơng bình thường, từ đó
<small>hình thành tâm lý tự t1, tự cơ lập chính mình. Mọi người</small>
<small>? Nguyễn Hữu Chí (2011), Giáo trình Luật Người khuyết tật, NXB.</small>
<small>Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.14.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>trong xã hội cũng xem NKT là những người đặc biệt, từ đóhình thành thai độ coi thường, xa lánh NKT. Bên cạnh đó,</small>
khả năng cung cấp đầy đủ những dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, việc làm cho toàn dân đã trở thành lý do biện hộ cho việc không cung cấp những dịch vụ cho NKT
chế chỉ bảo gồm cơ sở y tế, cơ sở giáo dục chuyên biệt.
Thứ hai, tiếp cận dưới góc độ xã hội
chất nhưng do những rào can xã hội đã biến họ thành
quốc, Công ước quốc tế về quyền NKT năm 2006, Luật về
khuyết trở nên lành lặn, bình thường là điều rất khó thực hiện. Trong khi đó, nếu loại bo các rào can xã hội (như
<small>* Nguyễn Thị Báo (2011), Pháp luật về quyền của NET ở Việt Nam</small>
<small>hiện nay, NEB. Tu phắp, Hà Nội, trờn,</small>
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">khiếm khuyết không trở thành khuyết tật lại khả thi hơn
rất nhiều. Cách tiếp cận này sẽ giải quyết gốc rễ của việc NKT bi tách khỏi cuộc sống. Khi những rào can xã hội được loại bo, NKT sẽ có cơ hội được sống, học tập, làm việc, vul chơi, giải trí cùng những người bình thường từ đó NKT
vươn lên trong cuộc sống. Cộng đồng xã hội cũng sẽ cảm thơng, chia sẻ và sống có trách nhiệm với NKT. Nhà nước
sẽ ghi nhận va bảo đảm các điều kiện để NKT được thực
hiện các quyền của mình. Tiếp cận khuyết tật theo quan
<small>Qua phân tích cho thấy, khái niệm NKT là một khái</small>
dưới góc độ nào. Tuy nhiên, để phù hợp với văn bản của các
đảm bảo quyền cho NKT thì nên tiếp cận khái niệm theo cả
hai góc độ y tế và xã hội/quyền. Có thể hiểu “NKT là người
can xã hội khiến cho họ bị mat hoặc hạn chế cơ hội
<small>trưng sau:</small>
Thứ nhất, NET là người bị khiếm khuyết lâu dài về thể
chất hoặc tinh than.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">hoặc tinh thần. NKT có thể bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể, suy giảm chức năng hoặc có rối loạn
về tâm sinh lý. Khiếm khuyết đó đã khiến cho sức khoẻ,
khả năng vận động, nghe, nói, nhận thức của NKT khơng
được như người bình thường. Những khiếm khuyết đó
khác nhau. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam chỉ ra một
số dạng khuyết tật như sau: khiếm thính (khuyết tật nghe), khiếm thị (khuyết tật nhìn), khuyết tật trí tuệ, khuyết tật ngơn ngữ, khuyết tật vận động..
Khiếm thính (khuyết tật nghe): Người khiếm thính là
những người bị mất hoặc suy giảm sức nghe kéo theo
năng giao tiếp. Do khơng có khả năng tri giác thế giới âm
<small>thanh đặc biệt là ngơn ngữ âm thanh nên NKT nghe</small>
khơng bắt chước nói được. Do đó, NKT nghe thường khuyết tật nói. Khiếm thính được chia làm 4 mức độ: điếc nhẹ (nghe được hầu hết những âm thanh đơn nhưng
được những âm thanh to, nghe được tiếng nói chuyện bình thường), điếc nặng (chỉ nghe được tiếng nói to sat tai), điếc
sâu (hầu như không nghe được trừ một số âm thanh thật to như tiếng sấm, tiếng trống)”.
<small>1 Trần Ngọc Giao, Lê Van Mạc (2010), Quan lý giáo dục hoà nhập,</small>
<small>NXB Phụ nữ, Hà Nội, tr.31.</small>
<small>° Trần Ngọc Giao, Lê Văn Mạc, tldd chú thích 55, tr.31.</small>
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Khiém thị (khuyết tật nhìn): Người khiếm thi là người
có tật về mắt như hỏng mắt, không đủ sức nhận biết thế giới hữu hình bằng mắt hoặc nhìn thấy khơng rõ rang’.
Khuyết tật trí tuệ khi chức năng trí tuệ dưới mức
trung bình (chỉ số thơng minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trách nhiệm cá nhân). Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ
năng xã hộ1/ cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng
đồng, tự định hướng, kĩ năng học đường, làm việc, giải trí,
sức khoẻ, an tồn. Tật xuất hiện trước 18 tuổi.
Khuyết tật ngơn ngữ là những người có khó khăn
đáng kể về nói và/hoặc về đọc viết, làm ảnh hưởng tiêu cực
đến q trình giao tiếp và học tập. Có hai nhóm trẻ
khuyết tật ngơn ngữ chính: khó khăn về nói và khó khăn đọc viết. Các dạng khó khăn về nói thường gặp gồm nói
ngọng, nói lắp, nói khó, khơng nói được, mất ngơn ngữ...,
khó khăn đọc viết: q trình học đọc gặp khó khăn đáng
khác. Khó khăn về đọc thường kéo theo khó khăn viết và tính toán ở các mức độ khác nhauŸ.
Khuyết tật vận động là những người có cơ quan vận
<small>° Trần Ngọc Giao, Lê Van Mạc, tldd chú thích 55, tr.32.7 Trần Ngọc Giao, Lê Văn Mac, tldd chú thích 55, tr.33.8 Trần Ngọc Giao, Lê Văn Mạc, tldd chú thích 55, tr.37.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui chơi,
<small>học tập và lao động".</small>
hiện dưới dạng tật phải lâu dài, tức là liên tục và kéo dài
bảo rằng sự khiếm khuyết đó đã xuất hiện trong quá khứ van có ở hiện tai và sẽ ton tại ở tương lai chứ không phải
là những khiếm khuyết chỉ mới xuất hiện, chỉ có ở hiện
tại. Đối với những khiếm khuyết tạm thời trong thời gian ngắn thường không khiến cho các rào cản xã hội ảnh
<small>gian bao lâu được coi là “lâu dài” thì còn phụ thuộc vào</small>
như Hoa Ky, Nhật Bản đều quy định khoảng thời gian này <small>là 6 tháng.</small>
Thứ hai, rào cần xã hội là ngun nhân chính gây ra tình trạng khuyết tật.
phải ngun nhân chính gây ra tình trạng khuyết tật. Nếu
môi trường sống, học tập, làm việc của NKT được trang bị
học tập, lao động như những người khơng khuyết tật.
nếu như trường lớp có dốc lên xuống cho người sử dụng xe
<small>* Tran Ngọc Giao, Lê Văn Mạc, tldd chú thích 55, tr.38.</small>
<small>I9</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">lăn; hay NKT trí tuệ cũng có thể học nếu như có một <small>chương trình giáo dục phù hợp với họ... Như vậy, ngun</small>
nhân chính dẫn đến khuyết tật khơng phải thuộc về cá nhân NKT mà thuộc về xã hội. Do xã hội đã tạo ra những rào cản nên đã khiến cho khiếm khuyết trở thành khuyết
<small>tật. Có ba loại rào can chính là rào can về nhận thức, rào</small>
can về cơ sở vật chất và rào can về chính sách.
Rào cần về nhận thức là một rào cản vô hình nhưng lại có ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc NKT được tham gia
NKT có thái độ coi thường, ruồng bỏ, hắt hủi NKT, coi
<small>NKT là tai hoạ, gánh nặng cả cuộc đời. Thậm chí lăng mạ,khơng chăm sóc, khơng cho ăn, khố xích trong nhà, nhốt</small>
trong cũI. Cũng có nhiều gia đình vẫn chăm sóc NKT,
<small>nhưng vì danh dự đã giấu kín việc thành viên gia đình họ</small>
bị khuyết tật. Cộng đồng xã hội nơi NKT sinh sống vẫn có
<small>tâm lý coi NKT là vơ dụng, khơng có khả năng gi. Nhiều</small>
trường học vẫn nghĩa rằng NKT không có khả năng học
tập hoặc nếu học tập cũng sẽ ảnh hưởng đến những học sinh không khuyết tật. Từ đó, dẫn đến tỷ lệ NKT di hoc thấp hoặc có đi học nhưng khơng học cao. Các đơn vị sử dụng lao động vẫn còn nghi ngại về khả năng làm việc của NKT nên từ chối nhận NKT vào làm việc hoặc có nhận vào làm thì cũng làm công việc lương thấp, thời hạn hợp đồng
ngắn. Về phía nhà nước, nhiều quốc gia chưa quan tâm
đến NKT. Hoặc hiểu chưa đúng về NKT nên các chính
<small>sách ban hành chưa phù hợp, chưa bảo đảm được quyền</small>
lợi cho NKT. Bản thân NKT còn tập trung quá nhiều vào
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>khơng bình thường, họ tin vào sự kì thị mà xã hội dành</small>
cho họ, do đó, họ thường tự ti, mặc cam với ban thân và
Rao can về cơ sở vật chất là rào can lớn nhất khiến cho người có khiếm khuyết trở thành NKT. Do cơ sở vật
chất không phù hợp với từng dang tật nên NKT rất khó
viện, cơng trình cơng cộng, khu vui chơi giải trí, khu du
làm việc, khám chữa bệnh, vui chơi giải trí, du lịch... như
những người bình thường. Nhiều trường học chưa có tài liệu học tập phù hợp với người khiếm thính, khiếm thị, giáo viên khơng có kỹ năng dạy cho NKT nên NKT khó tiếp thu kịp
<small>bài; trường học xây dựng chưa phù hợp với NKT vận động</small>
nên khiến cho họ khó khăn vào trường, vào lớp; nhiều cơ sở khám chữa bệnh chưa đáp ứng về cơ sở vật chất như cơng
còn nghèo nàn chưa đáp ứng nhu cầu sử dụng của NKT;
công trình giao thơng chưa được xây dựng đồng bộ nên
NKT khó khăn khi tham gia giao thơng... Do đó, nếu cơ sở
vật chất được đảm bảo phù hợp với nhu cầu sử dụng của
và hưởng mọi quyền lợi từ cộng đồng.
Rào cần về chính sách cũng là một nguyên nhân dẫn
đến tình trạng khuyết tật. NKT bị “lãng quên” trong chính
sách của nhà nước. NKT cũng có mong muốn được tham gia mọi mặt vào đời sống xã hội nhưng pháp luật quốc gia
<small>2]</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">chưa bao quát hết, còn nhiều lĩnh vực còn bỏ ngỏ, không
quy định riêng cho NKT nên NKT không thể tham gia
được. Nhiều quy định khơng khả thi, chính sách phúc lợi
xã hội chưa đáp ứng được những nhu cầu của NKT, hoặc có quy định ghi nhận quyền của NKT nhưng không quy
Thứ ba, NKT bị mất hoặc hạn chế cơ hội tham gia bình
Do các rào cản xã hội về nhận thức, cơ sở vật chất, chính sách nên đã khiến cho NKT không được thực hiện
quyền con người và các quyền cơ bản khác một cách bình
dù pháp luật quốc tế và các quốc gia vẫn ghi nhận tất cả
xã hội nhưng điều đó dường như rất khó khăn đối với NKT. Một người khiếm thính sẽ khơng nghe được nếu khơng có ngơn ngữ ký hiệu, người sử dụng xe lăn sẽ khơng
lên được tầng cao của tồ nhà nếu tồ nhà đó khơng có
thang máy hoặc thang máy không tiếp cận được, người
khiếm thị sẽ không sử dụng được máy tính nếu khơng có
phần mềm đọc màn hình... điều đó có nghĩa là để NKT có
dựng, học tập, làm việc, di chuyển... thì cần phải tạo cho
chế của cơ thể và từ đó thực hiện các quyền của mình.
các rào can như sự kỳ thị, đảm bao cơ sở vật chất phù hợp với từng dạng tật, pháp luật của nhà nước không
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">quy định ưu tiên dành cho NKT. NKT có những khiếm
khiếm, cơ thể bị hạn chế một số khả năng như nghe, nói,
<small>nhìn, vận động, nhận thức. Nên cùng tham gia một hoạt</small>
động, NKT có quyền, nghĩa vụ như người khơng khuyết
vạch xuất phát điểm thấp hơn so với người không
cần dành thêm cho họ sự ưu tiên, ưu đãi. Tuy nhiên, nên
cân nhắc các ưu tiên, ưu đãi ở mức độ vừa phải, bởi nếu
dành quá nhiều ưu tiên, ưu đãi cho NKT lại thành bất
bỏ đi sự kỳ thị và đảm bảo cơ sở vật chất phù hợp với
tại. Do đó, từ xưa cho đến nay NKT vẫn bị mất hoặc hạn
thì những rào can này được xố bỏ hồn tồn thì khi đó
một khái niệm phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội và rất dễ
<small>a</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">2.1. Khái niệm quyền của người khuyết tat
Quyền của NKT là quyền con người của NKT tồn tại
bên cạnh quyền con người của những nhóm người khác
như quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền người cao tuổi,
cái nhìn chính xác về quyền của NKT thì trước hết cần tìm
Quyền con người hay nhân quyền (human rights) là vấn đề mang tính chính trị pháp lý, xuất hiện từ rất sớm. Tư tưởng về quyền con người được xuất hiện từ thời kỳ cổ
đại'? và từ đó cho đến nay tư tưởng về quyền con người da, đang va sẽ tiếp tục được ghi nhận trong các văn bản pháp
lý quốc gia và quốc tế. Các bộ luật cổ xưa đã phản ánh các quan niệm về sự cơng bằng, nhân phẩm, quyền lợi chính
đáng của con người như Bộ luật Hamurabi (khoảng năm 1780 TCN); Bộ luật Manu (khoảng năm 1200 TCN); Luật Asoka (khoảng năm 271-231 TCN); Hiến pháp Medina do nhà tiên tri Mohammad sáng lập vào năm 622; Hiến
<small>chương Magna Carta do vua John nước Anh ban hành năm</small>
1215... Sau này có Tun ngơn Độc lập của Mỹ năm 1776,
Tun ngơn về Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm
<small>'° Nguyễn Dang Dung, Vũ Cơng Giao, La Khanh Tùng (2011), Giáotrình Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB. Đại học Quốc</small>
<small>gia Hà Nội, Hà Nội, tr.49.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>1791, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam nam 1945... Cùng</small>
nhiều bản hiến pháp của các quốc gia trên thế giới hiện nay
đều ghi nhận tư tưởng quyền con người như quyền tự do cá
Cho đến khi Liên hợp quốc ra đời thông qua Hiến
chương Liên hợp quốc vào ngày 24/10/1945, thông qua Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 và hai Công
ước quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Cơng ước Quyền kinh tế, văn hố, xã hội vào năm 1966 đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về quyền con
người, đã đặt nền móng cho việc xây dựng một nền văn
hoá mới về quyền con người.
Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 đã khuyến
khích sự tơn trọng nhân quyền và những quyền tự do cơ bản cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo và khuyến khích mọi người cơng nhận mối tương quan giữa các dân tộc trên thế gidi.
Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 đã ghi
cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái. Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên ngôn này khơng phân
biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da,
nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất
<small>cứ thân trạng nào khác.</small>
Cả hai Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Cơng ước ICCPR) và Công ước quốc tế về quyền
<small>Bác</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">kinh tế, xã hội, văn hố năm 1966 (Cơng ước ICESCR) đều
thừa nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng,
đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hồ bình trên thế giới, những quyền này bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người, các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tơn
trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do của con người. Sau khi Tuyên ngôn Quốc tế về quyền con người
<small>(UDHR) được thông qua năm 1948, một số khu vực trên</small>
thế giới đã thiết lập các hệ thống riêng để bảo vệ quyền
con người. Đến nay, có ba châu lục là châu Âu, châu Mỹ,
châu Phi đã thiết lập được cơ chế khu vực để bảo vệ và
ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản). Công
<small>ước được thông qua ngày 04/11/1950 và có hiệu lực vào</small> năm 1953 với những nội dung nhằm bảo vệ nhân quyền và
các quyền tự do căn bản cho công dân ở châu Âu. Quyền
<small>con người cũng được ghi nhận và bảo vệ ở khu vực châuMỹ khá sớm. Ngay từ năm 1948, Tuyên ngôn châu Mỹ về</small>
các quyền và nghĩa vụ của con người đã được thông qua. Đến ngày 22/11/1969, Công ước châu Mỹ về Nhân quyền <small>(Hiệp ước San José) được các nước châu Mỹ chấp thuận.</small>
trong Tuyên ngôn châu Mỹ về các quyền và nghĩa vụ của
<small>con người, trong đó ghi nhận con người có các quyền dân</small>
sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá... Nền
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">tảng của hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở
châu Phi là Hiến chương châu Phi về quyền con người và
quyền các dân tộc được thơng qua ngày 27/06/1981 và có
thế giới với dân số chiếm một nửa nhân loại nhưng là châu lục duy nhất hiện chưa thiết lập được cơ chế chung về bảo
lục có q nhiều khác biệt về tơn giáo, văn hố, lịch sử,
chính trị và cả kinh tế,
thiết chế chung. Trong khu vực thế giới A Rap có Tuyên bố
Cairo về quyền con người trong các quốc gia Hồi giáo năm
về quyền con người thông qua vào ngày 15/09/1994 và
năm 2004, Hiến chương có hiệu lực vào ngày 16/03/2008.
ASEAN (AHRD). Đây là văn bản tuyên bố chung về nhân
quyền của các nước ASEAN được thông qua 18/11/2012.
định mọi cơng dan ASEAN có 4 nhóm quyền căn bản về
dân sự và chính trị, về kinh tế, xã hội và văn hố, quyền
<small>1! Khoa Luat - Dai học Quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình Ly luậnvà Pháp luật về Quyền con người, NXB. Chính trị quốc gia.</small>
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">sống, quyền được đối xử nhân đạo, cơng bằng, quyền có
cuộc sống riêng tư, quyền lập hội, kết hôn...
định trong các bản tuyên ngôn và hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia. Trong lời nói đầu của Tuyên ngôn Độc lập của
ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 có 17 điều, trong đó có nhiều điều chú
trọng đến quyền tự do, bình dang về quyền lợi và biện pháp
bảo đảm quyền. Hay trong bản Tuyên ngôn Độc lập của
<small>Việt Nam năm 1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân</small>
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Như vậy, trong các bản tuyên ngôn của một số
được hưởng các quyền tự nhiên, vốn có như quyền được
vực hay quốc gia đều ghi nhận về quyền con người nhưng
khơng có văn bản nào đưa ra định nghĩa về quyền con người. Khái niệm quyền con người đã được đề cập trong một
định nghĩa của Văn phịng Cao uỷ Liên hợp quốc về quyền
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu và các nhóm
hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản
của con người'. Một số tài liệu trong nước định nghĩa về quyền con người như sau: Quyền con người thường được
hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế”. Quyền con người là
phẩm giá, nhu cau, lợi ích, nang lực vốn có và chỉ có 6 con
người - với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại,
quốc gia".
sinh, vốn có, là quyền tự nhiên, con người sinh ra đã được hưởng. Tuy nhiên, quyền tự nhiên, vốn có đó sẽ khơng có cơ sở thực hiện trên thực tế nếu như không được nhà nước
ghi nhận bằng pháp luật bởi chỉ khi mang tính pháp lý các
quyền tự nhiên mới trở thành quyền con người. Bên cạnh đó, pháp luật là cơ sở đảm bảo quyền con người được tôn <small>trọng và thực hiện.</small>
<small>2 United Nation (1994), Human rights: Question and answer, tr.4.</small>
<small>!# Nguyễn Dang Dung, Vũ Công Giao, La Khanh Tùng (2011), Giáotrình Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB. Đại học Quốc</small>
<small>gia Hà Nội, Hà Nội, tr.38.</small>
<small>' Trung tâm nghiên cứu quyền con người Học viện Chính trị quốc</small>
<small>gia Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình lý luận về quyền con người, Hà</small>
<small>Nội, tr.31.</small>
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Từ đó, có thể hiểu quyền con người là những lợi
ích tự nhiên, vốn có của con người được pháp luật
quốc tế và quốc gia ghi nhận và bảo vệ.
Quyền của NKT không được quy định riêng trong Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 và hai Công ước về Quyền dân sự, chính trị và Quyền kinh tế, xã hội, văn hố năm 1966. Các Cơng ước ghi nhận tất cả mọi người sinh ra
phân biệt vì bất cứ lý do nào. Điều đó có nghĩa rằng, quyền
con người là quyền vốn có dành cho tất cả mọi người trong đó có NKT, là giá trị thuộc về tồn nhân loại, khơng phụ thuộc
vào sự thừa nhận của một quốc gia hay tổ chức nào và nhà
nước có nghĩa vụ tơn trọng những quyền đó.
Trong hai Cơng ước về Quyền dân sự, chính trị và
Quyền kinh tế, xã hội, văn hố năm 1966 có các điều
khoản về quyền trẻ em, phụ nữ và người thiểu số nhưng
kinh tế, xã hội, văn hố, việc khơng có một điều ước
riêng hay những điều khoản cụ thể liên quan đến vấn đề
quyền của NKT trong hai công ước quốc tế cơ bản về
quyền con người năm 1966 là do nhận thức không đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề này chứ không phải là sự lãng quên các quyền con người của NKT', Tuy nhiên, những quy định trên đã đưa ra những chuẩn mực chung
về quyền con người và quyền của NKT.
<small>!* Đoạn 6 Khuyến nghị chung số 5 năm 1994 của Uy ban về cácquyền kinh tế, xã hội, văn hoá.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Tính đến thời điểm trước năm 2007 chỉ có duy nhất 2
cơng ước quốc tế của Liên hợp quốc có giá trị pháp lý ràng
buộc đề cập trực tiếp đến quyền của NKT là Cơng ước về
xố bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Công
<small>ước CEDAW) được thông qua ngày 18/12/1979 va Công</small>
ước về Quyền trẻ em (Công ước CRC) được thông qua
CEDAW ghi nhận “Quyền được hưởng an sinh xã hội, đặc biệt trong các trường hợp về hưu, thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, tuổi già và các tình trạng mất khả năng lao động khác, cũng như quyền được nghỉ phép có hưởng lương”.
Cịn trong Công ước CRC ghi nhận trẻ em khuyết tật
tật: “Quốc gia thành viên thừa nhận rằng trẻ em khuyết
sống đầy đủ và tươm tất, thừa nhận quyền của trẻ em
khuyết tật được chăm sóc đặc biệt và tùy theo các nguồn
cận một cách hiệu qua và được nhận sự giáo dục, đào tạo,
dich vụ y tế, phục hồi chức nang, việc làm, vui chơi, giải
triển năng lực cá nhân”.
Qua các văn kiện trên cho thấy NKT cũng có những
<small>khác trong xã hội, mặc dù, sự thừa nhận đó chưa được ghi</small>
nhận trong một văn bản thống nhất về NKT. Cho đến khi
Công ước Quyền người khuyết tật (Công ước CRPD) được
<small>3]</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào ngày
13/12/2006, và được mở để ký vào ngày 30/3/2007. Sau khi được nước thứ 20 phê chuẩn, Cơng ước có hiệu lực vào
ngày 03/5/2008. Tính đến tháng 11 năm 2019, có 163
người ký và 181 bên, bao gồm 190 quốc gia và Liên minh
Công ước sau nhiều thập kỷ làm việc của Liên hợp
quốc đã thay đối thai độ va cách tiếp cận đối với NKT. Dua
lên một tầm cao mới từ việc xem NKT là “đối tượng” của
từ thiện, điều trị y tế và bảo trợ xã hội tới việc việc xem
NKT là “chủ thể” có quyền, có khả năng thực hiện những
quyền đó và đưa ra quyết định cho cuộc sống của chính
thành một thành viên tích cực của xã hội.
Công ước Quyền của NKT năm 2006 đã thừa nhận các
quyền và tự do cơ bản của con người có tính phổ quát nằm
liên quan lẫn nhau, và rằng cần bảo đảm cho NKT được hưởng đầy đủ các quyền này mà khơng có sự phân biệt
nào. Mục đích của Công ước là thúc đẩy, bảo vệ và bảo
tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người, và thúc
đẩy sự tơn trọng phẩm giá vốn có của họ.
<small>'® United Nations (2020), Convention on the Rights of Persons with</small>
<small> class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">
Công ước ghi nhận day đủ các quyền cơ bản mà NKT cũng như tất cả mọi người đều được hưởng trên mọi lĩnh
vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội. Bên cạnh
đó, Cơng ước CRPD cịn ghi nhận các quyển dành riêng cho NKT như quyền được cung cấp những dịch vụ y tế đặc biệt, quyền được tập luyện, phục hồi chức năng, quyền
<small>và chướng ngại...</small>
Công ước quyền NKT năm 2006 đặc biệt quan tâm
tật. Bởi phụ nữ và trẻ em khuyết tật đặc biệt là trẻ em gái
bóc lột. NKT phải đối mặt với nhiều trở ngại trong cuộc
khuyết tật đều bị phân biệt đối xử, phụ nữ khuyết tật bị
phân biệt gấp đôi do phân biệt đối xử dựa trên giới tính và
tình trạng khuyết tật của họ. So với nam khuyết tật, phụ nữ khuyết tật thường nghèo hơn, khơng biết chữ hoặc
khơng có kỹ năng nghề nghiệp, và hầu hết trong số họ đều thất nghiệp. Họ ít được tiếp cận với các dịch vụ phục hồi
chức năng, họ khơng có nhiều khả năng được hỗ trợ từ gia đình hoặc cộng đồng và họ thường phải chịu sự cô lập xã hội lớn hơn do khuyết tật!”. Trẻ em khuyết tật cần được bảo vệ vì: 1) Trẻ em khuyết tật thường khơng tồn tại chính <small>‘7 Arthur O'Reilly (2003), The right to decent work of persons with</small>
<small>disabilities, International Labour Office - Geneva, tr.48.</small>
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>thức vì khơng được đăng ký khi sinh; ii) Trẻ em khuyết tật</small>
cần được bảo vệ hơn khỏi bạo lực và các mối đe dọa đối với
cuộc sống, vì các em dé bị bạo hành hơn; iii) Trẻ em khuyết tật hiếm khi được thông báo về các quyền của
minh và do đó khơng thể tham gia day đủ và hiệu quả vào
các quyết định liên quan đến các em”.
Như vậy, Công ước quốc tế về Quyền NKT đã ghi nhận NKT có các quyền cơ bản như tất cả những người khác nhưng bên cạnh đó cũng có những quyền riêng mà chỉ NKT được hưởng. Công ước đặc biệt quan tâm đến
những NKT có tính tổn thương kép như NKT nữ, trẻ em
khuyết tật, trẻ em gái khuyết tật. Công ước đưa ra các
biện pháp nhằm thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm cho NKT
hưởng quyền.
Bên cạnh các cơng ước quốc tế, Liên hợp quốc cịn phê
quyền NKT. Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn về
Quyền của NKT tâm thần vào ngày 24/12/1971; Tuyên ngôn về Quyền của NKT thông qua ngày 09/12/1975; Các
nguyên tắc bảo vệ người mắc bệnh tâm thần và cải thiện
việc chăm sóc sức khoẻ tâm thần được thơng qua ngày
<small>cho NKT được thơng qua ngày 20/12/1998.</small>
<small>'® Marianne Schulze (2010), Understanding the UN Convention on</small>
<small>the rights of persons with disabilities, Handicap International,</small>
<small>tr.66.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Tuyên ngôn về Quyền của NKT năm 1975 đã ghi
như những người bình thường khác. NKT về tâm thần có
quyền được chăm sóc sức khoẻ, vật lý trị liệu phù hợp,
được đảm bảo về kinh tế và mức sống đầy đủ, có quyền được bảo vệ khơng bị bóc lột, lạm dụng và đối xử hạ nhục.
Họ có quyền được giáo dục, đào tạo, phục hồi chức năng,
làm việc phù hợp với khả năng và tiém năng của mình. Đối với NKT về tâm thần nặng mà buộc phải hạn chế hoặc phủ nhận một số quyền của họ thì pháp luật phải quy
Ngồi 4 văn bản trên, cịn có các văn bản của ILO về quyền lao động, việc làm của NKT. Công ước số 159 về phục hồi hướng nghiệp và việc làm cho NKT năm 1983;
Khuyến nghị số 168 về phục hồi hướng nghiệp và việc làm đối với NKT năm 1975; Khuyến nghị số 99 về phục hồi
<small>hướng nghiệp và việc làm cho NKT năm 1975.</small>
Các nước trên thế giới cũng ghi nhận quyền NKT
trong pháp luật quốc gia. Nhiều quốc gia đã ban hành luật
năm 2008); ở Trung Quốc, quyền NKT được ghi nhận
Bản, quyền NKT được ghi nhận trong Luật Cơ bản về
Luật Quyền NKT năm 2018: ở Việt Nam, quyền NKT' được <small>ghi nhận trong Luật NKT năm 2010...</small>
<small>ao</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Qua đó, có thể hiểu quyền của NKT là tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người và quyền ưu
<small>tiên so với những người khác được ghi nhận trong</small>
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
2.2. Đặc điểm quyền của người khuyết tật
Quyền NKT trước hết là quyền con người nên quyền
NKT có day đủ đặc điểm của quyền con người. Kể từ khi
Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 được thơng qua thì
cộng đồng quốc tế đã cơng nhận quyền con người có một số
đặc trưng như: Quyền con người là bất khả xâm phạm;
và liên quan đến nhau; quyền con người là phổ quát.
Thứ nhất, quyền con người là bất khả xâm phạm
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có với
tất cả mọi người, gắn liền với sự tồn tại của con người nói
chung và NKT nói riêng. Đó là những quyền mà ngay từ khi sinh ra con người đã được hưởng và chỉ chấm dứt khi
con người khơng cịn tôn tại. Những quyền này tôn tại
khách quan và tất cả quốc gia phải cơng nhận. Quyền
an toàn cá nhân, quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn ác vơ nhân đạo, quyền khơng bị bóc lột, bạo
hành, lạm dụng, quyền sống độc lập, quyền tự do biểu đạt
chính kiến, quyền được tơn trọng cuộc sống riêng tư, quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc sức khoẻ, quyền được lao động và có việc làm, quyền được tham gia
thao... Đây đều là những quyền cơ bản, quan trọng với tất
cả mọi người, bởi nếu khơng có quyền này con người khơng
thể sống như một con người. Do đó, khơng một quốc gia
nào, nhóm người hay cá nhân nào có quyền tước bỏ hoặc hạn chế quyền con người. Tất cả các quốc gia phải có nghĩa vụ ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Quyền cá nhân van nằm trong quyền xã hội, do đó, trong một số trường hợp vì lợi ích chung của xã hội, các quốc gia có quyền đặt ra những hạn chế quyền con người. Việc hạn chế quyền con người không phải tuỳ tiện mà chỉ
phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ (Điều 4 Cơng ước
ra đe doa sự sống còn của quốc gia và đã được chính thức cơng bố (khoản 1 Điều 4 Công ước ICESCR). Việc hạn chế quyền con người phải được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và phải bảo đảm sự hạn chế đó khơng trái với bản chất quyền con người và không chứa đựng sự phân biệt đối xử
nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo
hay nguồn gốc xã hội.
thuộc lẫn nhau
Các quyền con người có mối quan hệ nội tại và
có mối quan hệ mật thiết với quyền khác và khơng có quyền nào quan trọng hơn quyền nào. Điều này có nghĩa là quyền dân sự, chính trị cũng như quyền kinh tế, xã
<small>37</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">nào được ưu tiên hơn quyền nào. Mỗi quyền đều có ý nghĩa và giá trị riêng đối với mỗi người nên tất cả các quyền đều phải được bảo đảm thực hiện như nhau. Tuy
nhiên, điều đó khơng đồng nghĩ với việc quyền con người
phải được quan tâm với mức độ giống nhau trong mọi
trường hợp. Bởi trong một số hoàn cảnh cụ thể, với một
do thì quyền được đảm bao thu nhập, quyền được lao
<small>động, giáo dục... được ưu tiên hơn nhưng khi con người</small>
bị bắt giữ vơ cớ thì quyền tự do lại là điều con người
quan tâm duy nhất.
Thứ ba, quyền con người mang tính phổ biến
mọi người trên thế giới. Con người khơng bị phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do nào như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngơn ngữ, tơn giáo, chính kiến, quan niệm, nguồn gốc, dân tộc, xã hội, tài sản, dòng dõi hay “bất cứ thân
trạng nào khác” (Điều 2 Tuyên ngôn quyền con người
<small>năm 1948).</small>
Việc thực hiện và hưởng thụ quyền trên thực tế còn
phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử, nền văn hoá, sự phát
triển kinh tế - xã hội của từng khu vực, từng quốc gia. Khi
tâm và bảo đảm cao hơn.
Bên cạnh những đặc điểm chung, quyền của NKT cịn
<small>tính dae thủ,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Một là tính ưu tiên của quyền của NKT.
Về nguyên tắc mọi người đều được hưởng quyền bình
trong điều kiện các chủ thể có năng lực và thực hiện ở
những hồn cảnh như nhau. NKT thường có sức khoẻ hoặc nhận thức hạn chế hơn, mức thu nhập thường thấp hơn so
phát khi thực hiện quyền thì cần dành cho họ một số quyền uu tiên so với người khơng khuyết tật. Ví dụ trong
miễn/giảm một số mơn học/nội dung mơn học, được miễn
giảm học phí, được miễn giảm giá vé khi tham gia phương <small>tiện giao thơng cơng cộng...</small>
NKT có nhiều dạng tật như khuyết tật vận động;
khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần
kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác và NKT có các mức độ khuyết tật như khuyết tật đặc biệt nặng, khuyết tật nặng, khuyết tật nhẹ. Mức độ khuyết tật,
quyền ưu tiên cho NKT.
NKT có mức độ khuyết tật nặng hơn được hưởng nhiều quyền ưu tiên hon so với NKT nhẹ. Ví dụ: mức trợ
cấp xã hội hàng tháng dành cho NKT đặc biệt nặng sẽ cao hơn mức trợ cấp dành cho NKT nhẹ. Dựa vào dạng
tật thì NKT tâm thần được hưởng một số quyền ưu tiên
mà NKT khác lại không được hưởng. Ví dụ NKT tâm
thần dẫn đến khơng có/mất khả năng nhận thức và điều
<small>39</small>
</div>