Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Slide chủ đề khủng hoảng kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 60 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

CHỦ ĐỀ:

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VIỆT NAM

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCMTRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-LUẬT</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỤC LỤC</b>

1. Lý do chọn đề tài (Đặt vấn đề)...4

2.Cơ sở lý thuyết...5

2.1. Khái niệm về tổng sản phẩm quốc nội...5

2.2. Khái niệm về khủng hoảng kinh tế...7

 2.2.1 Khái niệm:...7

 2.2.2 Phân loại:...8

 2.2.3 Một số cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới:...8

2.3. Một số quan điểm của các nhà kinh tế về khủng hoảng kinh tế:...9

3.Nội dung nghiên cứu...12

3.1 Một số cuộc khủng hoảng kinh tế của VN...12

 3.1.1 Khủng hoảng tài chính châu Á (hay cịn được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á)...12

 3.1.2 Khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu (2008):...12

 3.1.3 Khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19:...13

3.2 Nguyên nhân xảy ra khủng hoảng kinh tế...13

3.3. Tác động của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế toàn cầu (2008)...20

3.4. Cách hạn chế khủng hoảng kinh tế...22

4.Phân tích kết quả nghiên cứu...23

4.1. Phân tích cuộc khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19...24

 4.1.1. Đặc điểm của đại dịch COVID - 19...24

 4.1.2. Đặc điểm tác động của đại dịch COVID – 19...24

4.2. So sánh cuộc khủng hoảng đó ở Việt Nam và các nước khác...30

 4.2.1.Hoa Kỳ...30

 4.2.2. Trung Quốc...35

 4.4.3. Các nước đang phát triển [5]...37

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

5.Thảo luận cá nhân...42

5.1 Phần thảo luận của Ngọ Thùy Dương...42

5.2.Phần thảo luận của Võ Thị Kiều Oanh...45

5.3.Phần thảo luận của Lâm Gia Huy...47

5.4. Phần thảo luận của Trần Thục Hương...49

5.5 . Phần thảo luận của Trần Phương Anh...51

5.6. Phần thảo luận của Phạm Thị Thu Hương...53

5.7. Phần thảo luận của Đặng Bảo Ngân...56

5.8. Phần thảo luận của Hoàng Thị Hồng Liên...56

6.Kết luận...56

7. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……… 56

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>1. Lý do chọn đề tài (Đặt vấn đề)</b>

Là một đất nước đang phát triển, nền kinh tế Việt Nam cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu ấn tượng. Tuy nhiên, bên cạnh đó nền kinh tế Việt Nam vẫn cịn nhiều khiếm khuyết, ở cấp độ vĩ mô lạm phát tăng cao, sản xuất trì trệ. Ở cấp độ vi mơ, hàng hóa ứ đọng, nợ xấu tăng cao.. Dù đã thực hiện những chính sách tái cơ cấu kinh tế nhưng vẫn tồn đọng lại những bất cập chưa khắc phục được.

Trong mọi thời kỳ phát triển tại mỗi quốc gia khác nhau đều có những chỉ số kinh tế tăng trưởng vượt bậc nhưng bên cạnh đó cũng có những chỉ số ngày càng giảm thậm chí cịn xuống đến mức âm. Đó là khi nền kinh tế đang bước vào giai đoạn suy thối.<small>1</small> Việt Nam cũng khơng tránh khỏi những khủng hoảng về kinh tế ví dụ như ảnh hưởng do cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã làm cho nước ta một phen khốn đốn.

Gần đây nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đã làm nền kinh tế của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Nhóm quyết định chọn đề tài “KHỦNG HOẢNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ COVID-19” để nghiên cứu cũng như tìm hiểu về những nguyên nhân xảy ra khủng hoảng, những biện pháp khắc phục, từ đó có cái nhìn khách quan về khủng hoảng kinh tế và rút ra bài học kinh nghiệm.

<small>1 class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>2. Cơ sở lý thuyết </b>

<i>2.1. Khái niệm về tổng sản phẩm quốc nội</i>

Theo N.G Mankiw (2016), tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là giá thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định.

<i><b>Cụ thể, GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị thị trường của tất cả</b></i>

<i>hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất</i>

<i>định (thường là quốc gia) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).</i><small>2</small>

Một số lưu ý khi tính GDP:

➢ Do các doanh nghiệp trên một lãnh thổ tạo ra ➢ Khơng tính đến các sản phẩm trung gian ➢ Sản phẩm phải hoàn chỉnh và sản xuất năm đó ➢ Khơng tính ở những năm trước

Gần đây, trong các tài liệu thống kê mang tính nghiêm ngặt, thuật ngữ tiếng Anh

<i><b>national gross domestic product- NGDP hay được dùng để chỉ tổng sản phẩm quốc</b></i>

<small>2 class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i><b>nội, regional (hoặc provincial) gross domestic product- RGDP hay dùng để chỉ tổng</b></i>

sản phẩm nội địa của địa phương. GDP là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ nào đó.<small>1</small>

 <b>Ba phương pháp tính GDPa) Theo giá trị sản xuất:</b>

<b>GDP = VAa + VAi + VAs</b>

Với VA = GO - CPTG

● VA (Value added): Giá trị gia tăng của doanh nghiệp.

● VAa (agricultural): Giá trị gia tăng khu vực nông nghiệp (bao gồm nơng, lâm, ngư, thủy hải sản, khai khống, thủ cơng nghiệp).

● Vas ( service): giá trị gia tăng khu vực dịch vụ.

● VAi (industrial): Giá trị gia tăng khu vực cơng nghiệp.

● CPTG: Là chi phí cho hàng hóa và dịch vụ trung gian, là những hàng hóa và dịch vụ dùng làm đầu vào cho quá trình sản xuất ra hàng hóa dịch vụ khác và được sử dụng hết một lần trong q trình đó.

● GO (Gross Output): Tổng giá trị sản lượng đầu ra (hay tổng xuất lượng), là tồn bộ giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ mà một nền kinh tế có thể sản xuất ra được trên lãnh thổ của mình trong một khoảng thời gian

Pt: Mức giá của năm t. Qt: Sản lượng của năm t.

<b>b) Theo dòng chi tiêu:</b>

<b>GDP = C + I + G + X - M</b>

● C: Chi tiêu tiêu dùng thực tế của hộ gia đình ( đã mua rồi). ● I: Chi tiêu đầu tư tư nhân.

I = In + De

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

● In: Đầu tư ròng. ● De: Khấu hao.

● G: Chi tiêu thực tế của Chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ. ( bao gồm chi thường xuyên và đầu tư của Chính phủ).

● X: Xuất khẩu. ● M: Nhập khẩu.

<b>c) Theo dòng đầu tư:</b>

<b>GDP = w + i + r + Pr + De</b>

● w (wage): Tiền lương. ● i (interest rate): Tiền lãi.

● r (rent): Tiền cho thuê mặt bằng, máy móc, hay phát minh khoa học. ● Pr (Profit): Lợi nhuận ( trước thuế thu nhập) của doanh nghiệp dùng để

nộp thuế TNDN, giữ lại không chia hoặc đóng quỹ ASXH, chia cổ tức. ● Ti (Tax indirect): Thuế gián thu, như: Thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu,

thuế tiêu thụ đặc biệt,...

● De (Depreceation): Khấu hao, là khoản tiền được trích để hình thành quỹ tại doanh nghiệp, mục đích là để sửa chữa máy móc, nhà xưởng…(tức tài sản cố định).<small>3</small>

<i>2.2. Khái niệm về khủng hoảng kinh tế </i>

2.2.1 Khái niệm:

Học thuyết về kinh tế của Marx đã định

<i><b>nghĩa khủng hoảng kinh tế như sau: Khủng</b></i>

<i><b>hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt</b></i>

động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả

<i><b>suy thoái trong chu kỳ kinh tế.</b></i>

Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh tế chính trị của

<small>3Giáo trình Kinh tế vĩ mô - thầy Lê Nhân Mỹ (powerpoint)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Mác-Lênin. Từ ngữ này chỉ khoảng thời gian biến chuyển rất nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế. <small>4</small>

<b> Ở đây, ta lại gặp một thuật ngữ “ Suy thoái kinh tế”. </b>

<i><b> Suy thoái kinh tế (tiếng Anh: recession/economic downturn) được định nghĩa trong</b></i>

Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp trong năm (nói cách khác, tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý).

Theo Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa về

<i>suy thoái kinh tế: "Là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng". </i>

Qua hai định nghĩa trên, ta có thấy rằng “Suy thối kinh tế” có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, và lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thối có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kỳ đình lạm.<small>5</small>

2.2.2 Phân loại:

<b>● Khủng hoảng thừa: Khi nào thì khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản</b>

nói riêng và khủng hoảng kinh tế thế giới nóng chung được gọi là khủng hoảng thừa?

Đó chính là khu cung lớn hơn cầu, hàng hoá sản xuất nhiều hơn mức nhu cầu của con người và các hoạt động đầu cơ của các “ông chủ lớn” đã làm cho giá cả bị đẩy lên mức quá cao, mức giá “bong bóng” bất hợp lý. Đến một thời điểm, “bong bóng” bị vỡ và dẫn tới giá của các loại hàng hoá quay trở lại sụt giảm nghiêm trọng, nhà đầu tư mất tiền, người lao động thất nghiệp còn các doanh nghiệp bị phá sản.

<b>● Khủng hoảng thiếu: Khủng hoảng thiếu xảy ra khi nguồn cung các sản phẩm</b>

hàng hoá bị sụt giảm nghiêm trọng, trong khi nhu cầu tăng cao.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng thiếu có thể được kể đến như do tăng dân số, do thiên tai, thiếu kiệt nguồn tài nguyên và sự hạn chế về năng lực sản xuất, công nghệ của các doanh nghiệp. Người dân chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các cuộc khủng hoảng thiếu bởi lúc này giá cả mọi mặt hàng hoá sẽ bị đẩy lên cao một mức khó chấp nhận được.

<b>● Khủng hoảng nợ: Chính phủ ở một số nước hoặc trong phạm vi nhỏ hơn là các</b>

doanh nghiệp khơng có khả năng trả được những món nợ đã mượn, lúc này ta gọi đó là cuộc khủng hoảng nợ. Khủng hoảng nợ không quá nguy hiểm như khủng hoảng thừa và khủng hoảng thiếu, bởi suy cho cùng nó chính là mối quan hệ cần giải quyết giữa chủ nợ và con nợ.<small>6</small>

2.2.3 Một số cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới:

● Khủng hoảng hoa Tuylip – Hà Lan năm 1637 hay còn được nhắc đến với tên gọi “Hội chứng hoa Tuylip”

● Khủng hoảng tín dụng ở Anh năm 1772

● Khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 hay còn gọi là Cuộc đại suy thoái từ 1929 đến 1939 bắt đầu từ phố Wall – Mỹ

● Khủng hoảng giá dầu OPEC năm 1973 nổ ra khi các quốc gia thành viên của OPEC chống lại Mỹ vì sự hỗ trợ vũ trang của Mỹ cho Israel trong thời kỳ chiến tranh lần thứ tư giữa Ả Rập và Israel

● Khủng hoảng kinh tế châu Á diễn ra vào năm 1997 bắt đầu tại Thái Lan, sau đó lan rộng đến các nước Đơng Á

● Khủng hoảng tài chính 2007 – 2008 bắt đầu từ khu bong bóng nhà đất ở Mỹ sụp đổ. Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 ảnh hưởng đến Việt Nam một cách sâu sắc.<small>5</small>

<i>2.3. Một số quan điểm của các nhà kinh tế về khủng hoảng kinh tế:</i>

● Theo R.Malthus lợi nhuận không thể xuất hiện trong trao đổi, Malthus nhận định trong phạm vi khả năng những người đảm nhiệm sản xuất khơng thể tìm ra

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

lượng cầu có khả năng thanh tốn cho phần lượng cung do lợi nhuận đại biểu. Do đó tình trạng sản xuất thừa sẽ xuất hiện. Xã hội chỉ có tư bản và cơng nhân thì khơng thể tránh khỏi tai họa đó. Vì vậy cần có tiêu dùng của giai cấp không sản xuất như quý tộc, tăng lữ…một cách hoang phí để tạo lượng cầu cho nhà tư bản nhằm giải quyết tình trạng sản xuất thừa.

Ơng cho rằng khủng hoảng không phải hiện tượng ngẫu nhiên cục bộ trong CNTB, nguyên nhân của khủng hoảng là do sự phân phối.

Theo ông, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản là sản xuất tăng lên còn tiêu dùng tăng không kịp vs sản xuất, bởi quan hệ phân phối k đúng, gây bất bình đẳng về tài sản quá lớn. Ngoài ra, tốc độ tăng tiêu dùng khơng kịp so vs sản xuất cịn có nhiều nguyên nhân:

- Sự phát triển của CNTB làm phá sản những ng sản xuất nhỏ, làm giảm tiêu dùng.

- Sự thất nghiệp của ng vô sản làm giảm tiền công và tiêu dùng. - Bản thân giai cấp tư sản giảm tiêu dùng để tăng tích lũy.

 Như vây, CNTB càng phát triển, sản xuất càng mở rộng dẫn đến tiêu dùng giảm gây ra khủng hoảng kinh tế.

C.Mác cho rằng, khi nền sản xuất đã xã hội hóa cao độ thì khủng hoảng kinh tế là khơng thể tránh khỏi. Hình thức đầu tiên và phổ biến của khủng hoảng là khủng hoảng thừa. Khi khủng hoảng nổ ra, hàng hóa khơng bán được, sản xuất phải thu hẹp, doanh nghiệp bị phá sản, công nhân thất nghiệp, thị trường sẽ rối loạn. Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng là

do mâu thuẫn cơ bản của CNTB - mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (TBCN) về tư liệu sản xuất. Nó được biểu hiện thành:

-Mâu thuẫn giữa sản xuất có tổ chức, kế hoạch của từng xí nghiệp với khuynh hướng tự phát vơ chính phủ của tồn xã hội.

-Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng sản xuất của nhà tư bản với sức mua ngày càng co hẹp của người lao động do bị bần cùng hóa.

-Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê.

Theo ông, nguyên nhân của khủng hoảng được bắt đầu từ yếu tố tâm lý. Ông đưa ra phạm trù “khuynh hướng tiêu dùng giới hạn” và “hiệu quả giới hạn của tư bản”. Theo ông, tiêu dùng giới hạn là khuynh hướng phân chia phần tiêu dùng tăng thêm cho phần thu nhập tăng thêm. Tiêu dùng giới hạn có xu hướng giảm do khuynh hướng gia tăng tiết kiệm nhanh hơn gia tăng thu nhập. Điều này làm cầu tiêu dùng suy giảm, hàng hóa bị ế thừa, giá hàng hóa giảm, lợi nhuận giảm, làm giảm hiệu quả giới hạn của tư bản, nên doanh nghiệp không muốn đầu tư sản xuất thêm, thậm chí đóng cửa, cơng nhân bị thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế nổ ra.

<small></small> <b>Lý luận về khủng hoảng kinh tế của D.Ricardo: </b>

Theo Ricardo, trong nền sản xuất TBCN, sản xuất ngày càng mở rộng phát triển thì lợi nhuận ngày càng cao nên tích lũy tư bản càng lớn.Tích lũy tư bản lớn, tái sản xuất ngày càng mở rộng, cầu về lao động tăng, giá cả lao động tăng, tiền công của công nhân tăng, thu nhập của công nhân tăng, sức mua hàng hóa trên thị trường tăng, cầu về hàng hóa tăng, giá cả hàng hóa tăng, lợi nhuận tăng… làm cho nền sản xuất TBCN ko ngừng phát triển, cung ln phù hợp với cầu, ko có sản xuất vượt q tiêu dùng sẽ khơng có khủng hoảng kinh tế .Tóm lại, CNTB khơng có sản xuất thừa, khơng có khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, Ricardo cũng nhìn thấy xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận là: Có thể có hàng hóa nào đó sản xuất ra quá thừa và tràn ngập thị trường, tư bản bỏ vào sản xuất

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

hàng hóa đó sẽ không được bù lại. Những điều này không thể xảy ra đối với tất cả các hàng hóa.

<small></small> <b>Thuyết tiêu thụ J.B.Say: Công cụ để chứng minh: Quy luật thị trường: dưới</b>

tác động của CNTB, khối lượng hàng hóa bán ra bằng khối lượng hàng hóa mua vào (AD=AS) nên khơng thể có sản xuất thừa. Do:

- Hàng hóa được trao đổi bằng hàng hóa. - Người bán đồng thời là người mua. - Sản xuất tự tạo ra thị trường.

- Tiền chỉ là vật trung gian làm cho trao đổi được thực hiện dễ dàng. - Nên cung tự tạo ra cầu.

Ơng cũng thừa nhận tình trạng sản xuất thừa có thể xảy ra, ơng dự kiến có 2 khả năng: - Sản xuất thừa do sức mua khơng đủ: Chỉ xảy ra mang tính cục bộ, quy luật thị

trường có khả năng tự điều chỉnh.

- Thừa tuyệt đối: Điều này thực tế không bao giờ xảy ra vì nhu cầu của con người là vơ cùng.

Ơng cho rằng sản xuất thừa chỉ là sự mất cân đối về cơ cấu, cịn trên phạm vi tồn xã hội khơng thể có khủng hoảng sản thừa nên lý luận này mang tính bao biện, tầm thường.<small>7</small>

<b>3. Nội dung nghiên cứu.</b>

<i>3.1 Một số cuộc khủng hoảng kinh tế của VN </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

3.1.1 Khủng hoảng tài chính châu Á (hay còn được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á)

Là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan. Việt Nam cũng là một trong số những nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Nó gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản, nhiều doanh nghiệp bị phá sản.

3.1.2 Khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế toàn cầu (2008):

Vào khoảng tháng 7/2008 thị trường tín dụng bất động sản của Mỹ gặp biến cố. Theo một dây chuyền trong sự liên thông giữa thị trường bất động sản - tiền tệ - chứng khoán, biến cố này đẩy nhiều ngân hàng và định chế tài chính Mỹ nói riêng và thế giới nói chung. Việt Nam gặp phải những khó khăn về vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, lãi suất ngân hàng cao, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, thị trường chứng khoán tiếp tục bị sụt giảm…<small>8</small>

3.1.3 Khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19:

Ngành du lịch và dịch vụ bị hạn chế. Các nhà sản xuất dầu mỏ, khí đốt và than đá đã phải chịu đựng thời gian giảm giá kéo dài trong năm 2020. Đầu tư tư nhân bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là trong các ngành dịch vụ và xây dựng. Một vấn đề lớn trong toàn khu vực là tiêu dùng tư nhân bị thu hẹp mạnh do chính sách tài khóa ứng phó tương đối trầm lắng.Giá hàng hóa tăng và một số nguồn cung bị đình trệ, đặc biệt là ở các ngành bán dẫn, đã gây ra lạm phát giá ở một số quốc gia khi đang tập trung để tăng tốc phục hồi ví dụ như Hoa Kỳ. Lạm phát gia tăng nhanh tại Hoa Kỳ là một tin xấu đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước dựa vào dòng vốn đầu tư để tài trợ cho thâm hụt thương mại mà trong đó có Việt Nam.

<i>3.2 Nguyên nhân xảy ra khủng hoảng kinh tế </i>

<b> Nguyên nhân đến từ quan điểm của các nhà Triết học, Sử học, Kinh tế họcQuan điểm của Karl Marx </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

- Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng là do những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản mà cốt lõi là mâu thuẫn giữa sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của lực lượng sản xuất với tính chất chật hẹp của chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Dựa trên cơ sở lý luận giá trị và giá trị thặng dư, Marx cho rằng công nhân làm thuê luôn sản xuất ra một lượng giá trị mà họ không thể nào mua hết được, đó chính là giá trị thặng dư. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ tồn tại trong chừng mực mà công nhân luôn phải sản xuất ra giá thặng dư cho nhà tư bản hay cơ sở của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự bóc lột ngày càng nhiều giá trị thặng dư. Do Đó, sản xuất “thừa” là tình trạng hiển nhiên. Marx đã đúc kết thành hai vấn đề:

(1) Những người trực tiếp làm ra sản phẩm – công nhân – chỉ mua được một phần rất nhỏ những sản phẩm mà họ sản xuất ra, họ không thể mua tư liệu sản xuất và chỉ mua một phần những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu;

(2) Họ chỉ tiêu dùng được những sản phẩm này chỉ khi nào họ còn sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó, họ bao giờ cũng là người sản xuất thừa so với nhu cầu có khả năng thanh tốn của mình. Như vậy, sản xuất thừa ở đây là thừa hàng hóa so với sức cầu của người lao động. Trong chủ nghĩa tư bản, tất cả tư bản đều vận động liên tục không ngừng với quy mô ngày càng mở rộng. Cùng với quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản thì những mâu thuẫn nội tại của nó cũng khơng ngừng phát triển và trở nên gay gắt hơn. Cuối cùng, một cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ nổ ra và đó cũng là cách giải quyết tạm thời những mâu thuẫn và lập lại thế cân bằng mới cho nền sản xuất. Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa (lao động cụ thể và lao động trừu tượng) biểu hiện thành lao động tư nhân và lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa; hai mặt này lại mâu thuẫn với nhau biểu hiện ở chỗ:

+ Người sản xuất hàng hóa sản xuất ra những sản phẩm mà xã hội không cần.

+ Chi phí của người sản xuất cao hơn so với chi phí bình qn của xã hội. Những mâu thuẫn này có thể dẫn tới tình trạng sản xuất “thừa”. Khi tiền tệ xuất hiện và làm chức năng phương tiện lưu thơng hàng hóa, q trình mua và bán tách rời nhau đã làm gia tăng nguy cơ khủng hoảng kinh tế. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mỗi nhà tư bản đều là người mua đồng thời là người bán. Khi là người bán, nhà tư bản cần có người mua để nhanh chóng thu hồi tư bản và tìm kiếm lợi nhuận nhưng khi đã nắm được tiền tệ trong tay thì anh ta lại khơng nhất định phải mua ngay mà có thể chờ đến

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

khi giá cả có lợi cho mình để mua. Bên cạnh đó, do tính chất sản xuất chạy theo lợi nhuận nên tình trạng sản xuất thừa hàng hóa thường xuyên xảy ra. Khi đó, dù là người sản xuất có chi phí bằng với chi phí xã hội thì người sản xuất đó cũng khơng thể nhận được tồn bộ những gì mà anh ta đã chi phí.

<i>Từ đó Marx kết luận: “Dưới hình thái thứ nhất của nó, khủng hoảng chính là bản</i>

<i>thân sự biến hóa hình thái của hàng hóa: là việc mua và bán tách rời khỏi nhau”.</i>

Nguy cơ khủng hoảng gia tăng nhanh chóng khi tiền tệ làm chức năng phương tiện thanh toán cùng với sự phát triển đầy đủ của hệ thống ngân hàng. Khi đó, trong nền sản xuất sẽ xuất hiện hệ thống con nợ - chủ nợ chằng chịt với nhau. Vì vậy, khả năng sụp đổ nền kinh tế trở thành hiện thực một khi có những nhà tư bản khơng thể thanh tốn được nợ. Marx cho rằng đây là hình thái thứ hai của khủng hoảng kinh tế. - Sự ra đời của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán đã làm cho khủng hoảng kinh tế diễn ra dễ dàng và thường xuyên hơn. Bây giờ, ứng với những tư bản thực tế nằm trong sản xuất và lưu thông lại xuất hiện những bản sao của nó mà Marx gọi là tư bản giả (fictitious capital). Trong khi tư bản trong sản xuất bị tiêu dùng đi thì những bản sao của nó vẫn được giao dịch trên thị trường chứng khoán. Giá cả của loại hàng hóa - tư bản này chỉ là những giá trị giả tưởng và đôi khi vượt rất xa so với tư bản thực tế mà lúc đầu nó đại diện. Với bản chất chạy theo lợi nhuận, các nhà tư bản không ngừng ném tư bản của mình vào thị trường chứng khốn, tình trạng đầu cơ diễn ra tràn lan. Sự đầu cơ này một mặt thúc đẩy q trình tích lũy của tư bản ngân hàng nhưng mặt khác lại đẩy các nhà tư bản công, thương nghiệp và tư bản ngân hàng vào trạng thái căng thẳng về khả năng thanh toán. Một khi, hệ thống thanh tốn khơng cịn tạo được lịng tin và chỉ có tiền mặt mới làm được chức năng phương tiện thanh tốn thì khủng hoảng sẽ nổ ra do việc chạy theo các phương tiện thanh toán mà các nhà kinh tế hiện nay gọi là việc thiếu tín dụng bất ngờ (credit crunch). Như vậy, sự phát triển của thị trường chứng khoán và hệ thống thanh toán đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tư bản và đi cùng với nó là khả năng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng hơn.

Nguyên nhân cơ bản của khủng hoảng kinh tế là trong lĩnh vực phân phối; hạnh phúc của con người và xã hội không phải ở sản xuất mà ở phân phối đúng đắn những của cải

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

được tạo ra. Khi chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì sản xuất càng mở rộng, mặt khác tiêu dùng ngày càng giảm bớt, đó là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế.

Khủng hoảng kinh tế không chỉ do sự mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản mà cịn do khơng có chính sách kinh tế phù hợp của Nhà nước. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế là sự mất cân đối giữa tiết kiệm và tiêu dùng, tiết kiệm tỉ lệ thuận với tiêu dùng sự thiếu hụt của tổng cầu. Thu nhập cao → Tiết kiệm lớn → Tiêu dùng giảm tương đối với mức tăng của thu nhập → Cầu giảm → Quy mô sản xuất giảm → Khủng Hoảng kinh tế. Trước đó, các nhà kinh tế cho rằng, mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ phục hồi. Nhưng Keynes lại quan sát cuộc đại Khủng hoảng và thấy: tiền công không hề giảm, việc làm cũng không tăng, và sản xuất mãi không hồi phục nổi. Từ đó, Keynes cho rằng thị trường khơng hồn hảo như các nhà kinh tế học cổ điển nghĩ.

 <b>Nguyên nhân:</b>

Từ các cuộc khủng hoảng kinh tế đã diễn ra, có thể thấy khủng hoảng kinh tế là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này, hàng hoá ứ đọng, không thể tiêu thụ được, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ. Chính điều này đã dẫn đến nguy cơ đóng cửa của các nhà máy, xí nghiệp. Nhiều người lao động thất nghiệp hàng loạt, lương thấp, bỏ việc đồng loạt. Các công ty tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây chính là nguyên nhân nào dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.

Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế chỉ có thể là mâu thuẫn đối kháng mà nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay từ khi ra đời vốn đã mang trong lịng nó.

Trước hết phải kể đến mâu thuẫn giữa tính tổ chức của sản xuất ở trong từng xí nghiệp riêng rẽ và tình trạng vơ chính phủ của sản xuất trong phạm vi toàn xã hội. Mâu thuẫn này tạo ra tình trạng vơ chính phủ cực kỳ nghiêm trọng, mọi người đều biết không chỉ riêng chủ nghĩa tư bản mới có tình trạng sản xuất vơ chính phủ.

Bất cứ hàng hố nào dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đều có chung đặc điểm này. Ở đây người sản xuất đều sản xuất theo ý mình khơng ai biết thị trường cần đến loại hàng hoá nào và cần bao nhiêu. Chỉ đến khi mang ra thị trường thì số phận

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

của hàng hoá mới được định đoạt, hàng hố có thể bán được hoặc khơng bán được, nếu nó khơng đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Như vậy tình trạng vơ chính phủ của sản xuất hàng hoá đã ấp ủ sẵn khả năng khủng hoảng. Vì vậy, những gián đoạn về tiêu thụ do tình trạng vơ chính phủ của sản xuất hàng hoá gây ra chưa thể dẫn tới một sự đổ vỡ bao trùm tồn bộ nền sản xuất. Tình thế luôn luôn bị đảo lộn.

 <b>Sự phát triển của nền kinh tế ln có tính chất chu kỳ </b>

Tức nền kinh tế phát triển qua các giai đoạn tăng trưởng: đạt đỉnh, suy thoái, đạt đáy, phục hồi. Tùy theo mỗi quốc gia và giai đoạn khác nhau, một vòng chu kỳ thường kéo dài 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều sử dụng các chính sách kinh tế như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa để giảm đi những chu kỳ biến động lớn của nền kinh tế.

Nguyên nhân sâu xa của giai đoạn khủng hoảng nền kinh tế thường xuất phát từ sự mất cân đối quá lớn. Tức là nền kinh tế sau một khoảng thời gian phát triển nóng sẽ dẫn đến sự mất cân đối. Thơng thường, dễ thấy nhất là mất cân đối trên thị trường tài chính như việc tiền được bơm quá nhiều vào nền kinh tế dẫn đến bong bóng bất động sản, chứng khoán…

 <b>Người dân tiêu dùng nhiều dẫn đến giá cả nhiều mặt hàng gia tăng và lạmphát</b>

Chung quy lại, các cuộc khủng hoảng lớn chủ yếu đều xuất phát từ các vấn đề nội tại trong nền kinh tế. Đây là những yếu tố được sinh ra do sự mất cân đối sâu xa trong cấu trúc của nền kinh tế sau một khoảng thời gian phát triển. Điều độc đáo về cuộc khủng hoảng sau đó là sự xuất hiện "đúng thời điểm"của lạm phát cực cao (nguyên nhân là do sự tăng vọt của giá năng lượng) và sự đình trệ kinh tế (do khủng hoảng kinh tế). Do đó, các nhà kinh tế đã đặt tên cho kỷ nguyên là thời kỳ "stagflation", (thuật ngữ chỉ sự trì trệ kết hợp với lạm phát), và phải mất vài năm để sản lượng phục hồi và tỉ lệ lạm phát giảm xuống mức trước đó.

 <b>Một số cuộc suy thoái khủng hoảng khác bắt nguồn từ yếu tố “ngoại sinh” </b>

Chẳng hạn như thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh. Chiến tranh thế giới thứ 2 đã tàn phá nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến sản lượng sa sút. Ngày nay, một số quốc gia thường xảy ra chiến tranh, nội chiến cũng làm cho kinh tế suy giảm trầm trọng.

 <b>Nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<b>1. Nguyên nhân bên ngoài:</b>

Do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu: các nền kinh tế lớn nhất thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu bị khủng hoảng nặng nề chưa từng có sau đại chiến thế giới lần thứ 2.

Sản xuất đình đốn, hàng loạt doanh nghiệp phá sản, thất nghiệp tăng, thu nhập giảm, sức mua trên thị trường thế giới bị thu hẹp nghiêm trọng trong đó có các thị trường xuất khẩu chủ yếu và truyền thống của Việt Nam.

Các nước phải điều chỉnh lại chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tỉ giá để bảo hộ hàng trong nước nên gặp nhiều rào cản cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Các dịng vốn nước ngồi vào Việt Nam, đặc biệt là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bị giảm mạnh. Nhiều dự án đầu tư FDI đã đăng ký và được chính phủ nước ta duyệt xong, nhưng bắt buộc phải đình hoặc hỗn lại hoặc chậm trễ khi thực hiện. Một ví dụ điển hình như năm 2008: FDI đăng ký 60 tỉ USD nhưng đến tháng 1/2009 mới chỉ thực hiện được 200 triệu USD, chỉ đạt 0.33% so với kế hoạch.

<b>2. Nguyên nhân bên trong:</b>

<i><b>● Cơ cấu nội tại nền kinh tế nước ta có nhiều bất cập</b></i>

Ta sẽ bắt đầu từ cơng thức Tổng cầu của Keynes tính theo phương pháp chi tiêu để có được cái nhìn khái qt và rõ ràng hơn:

<b> GDP = C + G + I + X - M (NX = X - M )</b>

Theo số liệu năm thu thập được khi nền kinh tế bắt đầu suy thoái tức là cuối năm 2007 - đầu 2008 thì ta có:

<b> C: là chi tiêu tiêu dùng thực tế của hộ gia đình chiếm 69,4% GDP là cao so với mặt</b>

bằng chung của Châu Á ( Trung Quốc: 37,1% ; còn Thái Lan: 53,5%). Điều này chứng tỏ năng suất lao động chúng ta thấy, trong khi dân số lại cao hơn 86 triệu người và nông dân chiếm hơn 70% dân số.

<b> G: chi tiêu thực tế của chính phủ, chiếm 6,1% GDP quá thấp ( TQ: 14,4% ; Thái Lan:</b>

12,6% ). Chính phủ chưa có những chính sách đầu tư hợp lý và lâu dài cho những lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, giáo dục và y tế nhằm phát triển con người, để cải thiện nền kinh tế.

<b> I: Chi tiêu đầu tư tư nhân chiếm 44,7% GDP là cao, nhưng trong đó các DNNN đầu</b>

tư là chủ yếu chiếm 22%, còn DNTN chiếm khoảng 10,4% GDP ( Trung Quốc: 35% ;

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Thái Lan: 17%) dẫn đến ICOR (chỉ số sử dụng vốn hiệu quả) của Việt Nam rất cao. Điều này chứng tỏ nền kinh tế nước ta vẫn chịu quá nhiều ảnh hưởng của doanh nghiệp nước ngoài (DNNN), vốn cũng chủ yếu được rót vào các doanh nghiệp nước ngồi mà các doanh nghiệp này lại hoạt động kém hiệu quả (ICOR( DNNN: 8 - 10 → quá cao so với DNTN: 3 - 4).

<b> NX = X - M = S - I mà S là khoảng 28%, I: 44, 1% như vậy chứng tỏ nền kinh tế</b>

nước ta phải nhập khẩu vốn từ nước ngoài rất nhiều (thông qua thu hút vốn FDI), nên khi nguồn cung vốn từ nước ngoài bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế thế giới thì nước ta cũng bị ảnh hưởng ngay lập tức.

Bên cạnh đó tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu = 167% GDP (Trung Quốc: 72% ; Thái Lan: 139%) chứng tỏ nền kinh tế nước ta có độ mở và phụ thuộc thế giới khá cao, do đó chịu nhiều ảnh hưởng từ kinh tế thế giới.

Tóm lại, cả ba trụ cột của nền kinh tế nước ta: DNNN, nguồn vốn FDI và Xuất, nhập khẩu đều có vấn đề là ngun nhân chính gây là trình trạng khủng hoảng kinh tế.

<i><b>● Tình trạng lạm phát và những chính sách thiếu hợp lý của Chính phủ</b></i>

<i>nước ta</i>

Khủng hoảng kinh tế thế giới tác động đến nước ta vào đúng thời điểm mà tình trạng lạm phát nước ta thuộc dạng cao nhất trong khu vực, do đó Chính phủ phải ưu tiên kiềm chế lạm phát trước bằng các chính sách thắt lưng buộc bụng, giảm chi tiêu và đầu tư. Chính những nước đi này làm cho tình trạng nền kinh tế càng bi đát, đang chịu ảnh hưởng khủng hoảng, cộng với chính sách của chính phủ đã làm nền kinh tế đình trệ, sản xuất không phát triển,

Tuy sau này lạm phát đã được khống chế nhưng vì các Doanh nghiệp đã nằm trong tình trạng khó khăn q lâu, dẫn đến nhiều doanh nghiệp phá sản, những doanh nghiệp cịn lại thì khơng đủ sức đẩy mạnh sản xuất vì thiếu vốn. Trong khi đó vốn được cấp chủ yếu từ Ngân hàng thương mại. Chính các Ngân hàng thương mại cũng gặp vơ vàn khó khăn trong giai đoạn này đặc biệt là nợ xấu và đang trong giai đoạn tái cấu trúc cả hệ thống. Do đó, các doanh nghiệp rất khó tiếp cận nguồn vốn từ hệ thống ngân hàng. Dù cả khi đã được hạ lãi suất, các Doanh nghiệp cũng không mạnh dạn vay để mở rộng sản xuất, vì các thị trường truyền thống nói riêng hay cuộc khủng hoảng kinh tế

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

thế giới nói chung vẫn để lại hậu quả lớn, thế giới phục hồi chậm. Vì vậy, họ thà cầm chừng cịn hơn mạo hiểm đi vay mượn.

Tóm lại, do cả cơ cấu nền kinh tế, khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát ở nước ta, chính sách kinh tế của chính phủ đã khiến cả hệ thống nền kinh tế nước ta lâm vào khó khăn, đình trệ và suy thối. Trong đó đặc biệt là do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.

<i>3.3. Tác động của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế toàn cầu (2008) </i>

Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng từ khoảng tháng 8/2008 và bắt đầu hồi phục vào khoảng quý I/2010. Cuộc khủng hoảng tác động đến một số lĩnh vực như: xuất nhập khẩu, kiều hối, luồng vốn ròng...

<i><b>- Tác động của cuộc khủng hoảng đến xuất nhập khẩu Việt Nam</b></i>

Xét trước hết là xuất khẩu vì vốn dĩ Việt Nam là một quốc gia đáng phát triển và nền kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào xuất nhập khẩu. Vì thế nên xuất nhập khẩu ở Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn. Việt Nam là một trong một số nước có độ mở ngoại thương khá lớn; trước khủng hoảng, Việt Nam nằm trong tốp 50 quốc gia có kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu hàng đầu thế giới với xuất khẩu đứng hàng thứ 50, chiếm tỉ trọng 0,3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu và nhập khẩu đứng hàng thứ 41, chiếm tỉ trọng 0,4% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tồn cầu. Thêm vào đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các nước Mỹ, Nhật, châu Âu lên đến 52%, riêng Mỹ chiếm đến 20,8%. Và cũng vì Mỹ, Nhật, các quốc gia châu Âu chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng nên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng ảnh hưởng trực tiếp từ đó. Theo Tổng cục Hải quan vào khoảng tháng 8/2008, giá xuất khẩu bình quân một số mặt hàng chủ lực như dầu, cao su, gạo, cà phê, hạt điều, đậu đều đi xuống; nhiều đơn hàng xuất khẩu vào Mỹ, EU, Nhật như dệt may, tiêu, điều, gỗ giảm 20 - 30%; việc ký kết hợp đồng xuất khẩu mới gặp khó khan vì thế nên nhiều hợp đồng xuất khẩu bị hỗn hoặc lùi sang năm 2009. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cũng sẽ co lại do gặp khó khăn về vốn và đầu ra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Và cũng vì Việt Nam vẫn đang trong quá trình phát triển nên nhập khẩu ở Việt Nam cũng chịu tác động không nhỏ của cuộc khủng hoảng. Việt Nam phải nhập từ 70 - 80% nguyên nhiên vật liệu để sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, vì vậy nên việc xuất khẩu giảm cũng làm kéo theo nhập khẩu giảm; cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm cho giá yếu tố đầu vào như dầu mỏ, các sản phẩm hóa dầu, phơi thép và thép xây dựng, các thiết bị công nghệ cũng bị giảm mạnh làm kéo theo kim ngạch nhập khẩu giảm. một mặt có khả năng giảm bớt nhập siêu do giá cả nhiều mặt hàng nhập khẩu giảm cũng như nhu cầu sử dụng trong nước cũng ít đi, từ đó lạm phát sẽ dịu bớt. Nhưng mặt khác, lại nảy sinh khả năng nhập khẩu sẽ gia tăng do giá cả trên thị trường thế giới suy giảm, thuế suất cũng sẽ hạ thấp theo các cam kết quốc tế và điều này sẽ gây sức ép mạnh lên nguồn sản xuất trong nước.

<i><b>- Tác động của cuộc khủng hoảng đối với kiều hối</b></i>

Kiều hối ở Việt Nam chia làm hai nguồn chính là ngoại hối của lao động xuất khẩu, lưu học sinh nước ngoài và ngoại hối của thân nhân người Việt từ nước ngồi. Trung bình lượng kiều hối tăng mỗi năm là 10%. Do lượng xuất khẩu lao động ngày càng phổ biến và ngày càng đơng lên, số lượng học sinh, chun gia có nhu cầu đi du học cùng ngày càng nhiều và hơn thế nữa là việc chuyển tiền từ nước ngoài về cũng ngày càng đa dạng hơn và đơn giản hơn, khơng cịn những thủ tục rườm rà. Tuy nhiên do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nên lượng kiều hối năm 2009 lại giảm do thị trường lao động ở nước ngồi gặp khó khăn, nhiều người lao đơng bị mất việc nên phải quay về nước nhà, còn nguồn thu nhập của những người thân của người Việt của nước ngồi thì cũng bị giảm đi do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính.

<i><b>- Tác động của cuộc khủng hoảng đến luồng vốn ròng đến nền kinh tế ViệtNam</b></i>

Luồng vốn đầu tư vào Việt Nam từ khoảng những năm 2000 đến năm 2006 có sự tăng trưởng khá nhanh, đặc biệt vào năm 2007 sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO thì luồng vốn đầu tư có sự tăng mạnh rõ rệt. trong luồng vốn đầu tư vào, tuy vốn đầu từ trực tiếp (FDI) chiếm tỉ trọng lớn và có sự tăng trưởng ổn định, thì vốn đầu tư gián tiếp (FPI) lại có sự biến động mạnh mẽ hơn. Cụ thể là FPI bùng nổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

mạnh mẽ vào năm 2007 nhưng lại nhanh chống giảm mạnh vào năm 2008 khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế toàn cầu và giảm hẵn vào năm 2009. Khi luồng vốn đầu tư đổ vào ồ ạt có thể sẽ gây áp lực lên cung tiền và sẽ làm cho tỉ lệ lạm phát gia tăng. Lượng tiền đầu tư đổ vào ồ ạt cũng có thể là nguy cơ tiềm ẩn gay nên một cuộc khủng hoảng tiền tệ do sự biến động thất thường của FPI do các nhà đầu tư nước ngoài lần lượt bán chứng khốn để thu hồi vốn do suy thối tài chính; nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống và có sự thay đổi, cũng như lạm phát tăng, ngân hàng nhà nước thắt chặt tiền tệ, thâm hụt thương mại ngày càng nghiêm trọng, dữ trữ giảm sút khiến cho giao dịch, vay mượn không dễ dàng ; tỉ giá các đồng tiền, giá vàng sẽ dao động mạnh, cũng như sự xâm lấn của hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn và có thể phá sản.

<i> 4 . Cách hạn chế khủng hoảng kinh tế </i>

Các doanh nghiệp phải chú ý mức cung và cầu của thị trường hiện tại, cả người sản xuất và khách hàng tiêu dùng đều có vai trị quan trọng trong kinh tế hàng hóa. Khi cung lớn hơn cầu thì người bán phải giảm giá cả, giá có thể thấp hơn cả giá trị, trong khi đó các doanh nghiệp, các nhà sản xuất cũng chú ý điều tiết việc sản xuất các loại hàng hóa, tránh gây tình trạng dư thừa hàng hóa, tồn kho hàng hóa. Tuy nhiên nếu tình trạng dư thừa hàng hóa vẫn khơng thể giải quyết, thì các doanh nghiệp, nhà sản xuất phải ký hợp đồng giải quyết sản phẩm theo chính sách xuất khẩu chính ngạch, thay vì cứ mãi theo xuất khẩu tiểu ngạch, phụ thuộc vào quyết định của người mua, dẫn tới thiệt hại vì xuất nhập khẩu tiểu ngạch thường khơng có tính ổn định, giá trị mỗi giao dịch nhỏ. Việc ký hợp đồng theo thương mại chính ngạch vừa tăng tính ổn định cho doanh nghiệp, vừa có thể giải quyết một lúc lượng lớn các sản phẩm đã “vơ tình” được sản xuất nhiều hơn mức cần thiết.

Còn khi cầu bắt đầu lớn hơn cung, các doanh nghiệp và nhà sản xuất nên thúc đẩy việc sản xuất hàng hóa để có thể cung cấp đủ theo nhu cầu của người mua. Tuy nhiên, nếu tình hình bất khả kháng như trong đại dịch Covid-19 diễn ra trong hai năm qua, các công nhân không thể đến nơi làm việc để việc sản xuất diễn ra sn sẻ, thì nhà

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nước nên cân nhắc các chính sách tăng cường nhập khẩu hàng hóa từ nước ngồi về Việt Nam.

Chi phí đầu tư của chính phủ và đầu tư khu vực cơng phải được giám sát chặt chẽ hơn để tránh nguy cơ thiếu hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu của chính phủ và chuyển các khoản đầu tư cơng sang phân khúc tư nhân sẽ góp phần làm giảm phí thuế

<b>cho cá nhân và doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ có nhiều vốn hơn để mở rộng sản</b>

xuất và thị trường. Đẩy mạnh đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời điểm trước đây chưa có điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.

Đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc giảm nhập khẩu của một số nước chịu nhiều tác động từ các cuộc khủng hoảng, chuyển hướng tới mở rộng thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu (trường hợp đang có nguy cơ gặp phải khủng hoảng thừa).

Tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của cơ sở bán lẻ trong nước, ngăn ngừa đầu cơ, ách tắc, khan hiếm hàng hoá. Đồng thời khuyến khích tiêu dùng hợp lý và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức nhà nước và công nhân ở các doanh nghiệp.

Tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát thường xuyên, cập nhật thông tin trong và ngồi nước để có đánh giá đúng diễn biến tình hình, qua đó có được phản ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất.

Chính phủ phải quản lí, giám sát một cách nghiêm ngặt các ngân hàng, hệ thống tài chính, thị trường chứng khốn. Nếu có bất cứ rủi ro gì thì phải thay đổi để ngăn chặn

<b>ngay, khơng để nó chuyển biến xấu gây khủng hoảng kinh tế. Hoặc tốt hơn hết là phải </b>

chuẩn bị trước các phương án, giải pháp dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<b>4. Phân tích kết quả nghiên cứu</b>

<i>4.1. Phân tích cuộc khủng hoảng kinh tế do đại dịch Covid-19 </i>

4.1.1. Đặc điểm của đại dịch COVID - 19

Đại dịch COVID 19 bùng phát ở Vũ Hán (Trung Quốc) vào cuối tháng 11 -2019, sau đó đã nhanh chóng lan ra toàn cầu; cho đến nay đã lan ra hơn 210 nước và vùng lãnh thổ trên khắp các châu lục, với gần 570 triệu người lây nhiễm và hơn 6 triệu người tử vong. Cho đến nay, nhân loại vẫn đang còn nhiều điều chưa hiểu hết về đại dịch này như chưa rõ nguồn gốc của virus COVID - 19; xuất hiện những biến thể mới, chưa xác định được đầy đủ con đường lây lan, chưa xác định được đầy đủ cơ chế gây bệnh.

Chính vì vậy, trên tồn thế giới, sau “cú sốc chống váng” ban đầu, các nước đã áp dụng một loại giải pháp “phi y tế” đề ngăn chặn sự lây lan dịch giữa các nước, các khu vực, gia đình, người với người trong thời gian dài (như đóng của biên giới, thực hiện cách ly, giãn cách xã hội, dừng các hình thức giao thơng cơng cộng, các hoạt động kinh tế, xã hội công cộng, không tập trung đông người…). Các giải pháp “phi y tế này” đã có tác dụng quan trọng để ngăn chặn lây lan, kiểm soát dịch, từng bước khống chế và dập dịch. Tuy nhiên, mặt khác chính các giải pháp này đã có những tác động “tiêu cực” rất mạnh đối với hoạt động bình thường và sự phát triển các mặt của đời sống kinh tế, xã hội tồn cầu nói chung cũng như các nước nói riêng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Tóm lại, để tránh rơi vào khủng hoảng và suy thoái sâu sắc hơn, các nước buộc phải tìm các giải pháp sớm “mở cửa trở lại” nền kinh tế. Nhưng trong khi các giải pháp y tế phòng chống dịch chưa đủ mạnh và hiệu quả, các giải pháp “phi y tế” bị yếu đi, bị nới lỏng do mở cửa nền kinh tế và các hoạt động xã hội, đã làm cho dịch bùng phát trở lại (ở nhiều nước), buộc các nước phải “siết” chặt lại các giải pháp ngăn cách xã hội. Tổ chức Y tế thế giới dự báo tình hình dịch COVID - 19 có thể còn diễn ra trong mấy thập kỷ nữa.

4.1.2. Đặc điểm tác động của đại dịch COVID – 19

<i>1. Trên phương diện quốc tế</i>

Đại dịch COVID - 19 lan ra và tác động trên toàn cầu trong tất cả các lĩnh vực, có những đặc điểm khác với những tác động của các đại dịch bệnh trước đây. Có thể nêu khái quát các đặc điểm sau:

<i>1) Đây là cuộc khủng hoảng toàn cầu, tác động tới tất cả các lĩnh vực. Cho đến</i>

nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới bị cuốn vào đại dịch, với một nửa nhân loại bị liên quan.

<i>2) Đại dịch COVID - 19 đưa đến và kéo theo sự “tam trùng” của ba cuộckhủng hoảng liên đới với nhau, đó là: Cuộc khủng hoảng về y tế, kinh tế, và cuộc</i>

khủng hoảng về xã hội. Cuộc khủng hoảng về y tế, sự lây lan nhanh chóng của đại dịch, buộc các quốc gia phải thực hiện các các giải pháp khẩn cấp cách ly xã hội trên diện rộng và giữa các quốc gia, làm đứt gãy các chuỗi cung ứng trên toàn cầu cũng như trong mỗi quốc gia, làm cho hệ thống sản xuất, kinh doanh, lưu thơng hàng hóa đột ngột dừng lại - tác nhân chủ yếu gây nên khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Nền sản xuất và lưu thơng bị dừng lại, đình đốn đã kéo theo một loạt những vấn đề xã hội: Tình trạng mất việc làm của hàng chục triệu lao động trong hầu hết các lĩnh vực ở mỗi nước, thu nhập bị giảm sút hoặc khơng cịn thu nhập; an sinh xã hội đứng trước thách thức rất lớn; các lĩnh vực xã hội khác cũng rơi vào đình đốn, trì trệ; mâu thuẫn, nghèo đói và bất bình đẳng xã hội tăng lên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i>3) Đại dịch COVID - 19 tác động lên toàn cầu, nhưng các quốc gia chịu ảnhhưởng nặng nề nhất lại đa số là những quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, nằmtrong các chuỗi giá trị toàn cầu, gồm Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp và</i>

Ý (đều nằm trong top 10), kế đó là Hàn Quốc, Iran, Ấn Độ và Braxin... Các nước này chiếm tỉ trọng lớn nhất trong GDP toàn cầu, đồng thời cũng là những nước chi phối các chuỗi cung ứng toàn cầu nhiều nhất. Vì vậy tác động nặng nề của đại dịch COVID - 19 tại các nước này, nhất là Trung Quốc, có sự “lan tỏa” lớn nhất đối với nền kinh tế thế giới, sự suy giảm của các nước này sẽ lan truyền tới chuỗi cung ứng ở hầu hết các quốc gia, “khi những nền kinh tế này hắt hơi, phần còn lại của thế giới sẽ bị cảm lạnh”. <i> 4) Tính chất tác động khác biệt của đại dịch COVID – 19.</i>

Không phải bắt đầu từ khủng hoảng tài chính - tiền tệ, hay bất động sản như các cuộc khủng hoảng trước đây. Cuộc khủng hoảng - suy thoái kinh tế do đại dịch COVID - 19 gây ra lại bắt nguồn từ các giải pháp phịng chống dịch “phi y tế”, như đóng cửa biên giới, phong tỏa, giãn cách xã hội; ngừng các hoạt động giao thông công cộng, du lịch, vui chơi, giải trí, ăn uống… Chính các giải pháp bắt buộc đó đã “bóp nghẹt” nền kinh tế thế giới.

Sự đình trệ sản xuất và thương mại làm cho tất cả các chủ thể sản xuất kinh doanh đều bị thu hẹp sản xuất kinh doanh, đình chỉ, đóng cửa, hoặc phá sản vì thua lỗ nghiêm trọng. Hàng trăm triệu lao động trên thế giới bị mất việc làm, dẫn đến giảm hoặc khơng có thu nhập, bị rơi vào tình trạng khơng được đảm bảo tốt về an sinh xã hội, nghèo đói, cùng cực. Xã hội nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp.

Mặt khác, tác động của đại dịch COVID - 19 cũng thúc đẩy quá trình “số hóa” mọi hoạt động xã hội như phát triển kinh tế số, thương mại điện tử, làm việc qua mạng, xây dựng chính phủ điện tử, hội nghị trực tuyến, quản lý dịch bệnh và khám bệnh qua mạng, giáo dục qua mạng, quan hệ văn hóa - xã hội qua mạng…

<i>5) Về kinh tế:</i>

Tác động của các biện pháp phong tỏa, các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu bị đứt đoạn, rối loạn kéo theo sự thuyên giảm mạnh cả ở phía “cầu” lẫn phía “cung”, cả

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Điều này không chỉ tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh trong thời COVID, mà sẽ còn tạo ra xu hướng mới “hậu COVID”.

Tổng hợp các tác động đó đưa đến sự khủng hoảng - suy thối kinh tế tồn cầu. Theo các chỉ số thống kê thực tế kinh tế quý 2-2020 công bố ngày 31-7 cho thấy tình trạng suy thối kinh tế đã ghi nhận tại nhiều nước trầm trọng hơn dự báo nhiều: kinh tế Pháp trong quý 2 đã giảm 13,8%, Tây Ban Nha giảm 18,5% trong khi Bồ Đào Nha và Ý lần lượt giảm 14,1% và 12,4%, Anh giảm tới 20%. Về tổng thể, tổng sản phẩm nội địa (GDP) của khối eurozone giảm 12,1% trong khi toàn liên minh châu Âu giảm 11,9%. Tại Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, cũng là quốc gia bị ảnh hưởng dịch bệnh nặng nhất, GDP quý 2 cũng đã giảm 9,5% so với cùng kỳ năm ngoái, một sự suy giảm phát triển kinh tế tồi tệ nhất từng ghi nhận ở Mỹ.

Sự tác động của đại dịch COVID - 19 cộng với sự tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã đưa đến tình trạng sau: Đầu tư nước ngồi (FDI) sẽ giảm khoảng hơn 40%; đầu tư vào các quốc gia đang phát triển định hướng xuất khẩu sẽ giảm từ 2.000 - 3.000 tỉ USD trong 2 năm tới. Đồng thời, để “giải cứu” các doanh nghiệp, các nước đã đưa ra các gói hỗ trợ hàng nghìn tỉ USD.

<i>6) Về các lĩnh vực xã hội:</i>

Đại dịch COVID - 19 đã tác động rất nghiêm trọng đến các lĩnh vực xã hội theo hai con đường trực tiếp và gián tiếp. Tác động trực tiếp là đã gây ra cuộc khủng hoảng y tế trên toàn cầu, với gần 510 triệu người bị lây nhiễm và hơn 6 triệu người bị tử vong (đến ngày 20/04/2022), làm đảo lộn hệ thống y tế dự phòng và bảo vệ sức khỏe cộng đồng của các nước, hệ thống khám và chữa bệnh quá tải, không đáp ứng yêu cầu.

<i>7) Về lĩnh vực môi trường:</i>

Khi đại dịch mới xảy ra, đã có nhiều người cho rằng chất lượng mơi trường sẽ được cải thiện, nhưng thực tế lại không như vậy. Tất cả những lợi ích này chỉ mang tính tạm thời, khi những biện pháp áp đặt chống dịch được nới lỏng thì những lợi ích

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

này dần tiêu tan. Vào thời điểm khi nhiều quốc gia trên thế giới áp đặt lệnh phong tỏa và giãn cách xã hội thì lượng khí thải Carbon hàng ngày trên toàn cầu đã giảm 17% so với trước đại dịch. Nhưng chỉ ngay sau đó, dữ liệu cho thấy con số thực tế chỉ giảm 5%, mặc dù các hoạt động chưa được khởi động lại hoàn toàn.

<i>8) Tác động đến quan hệ quốc tế:</i>

Những vấn đề phức tạp, căng thẳng trong quan hệ quốc tế, khu vực và giữa một số nước trước đại dịch, đã bị đại dịch làm sâu sắc thêm, đẩy lên một cấp độ mới. Một mặt, do tính chất tác động tồn cầu của đại dịch, buộc các nước phải cộng tác với nhau trong việc ngăn chặn lây lan đại dịch, nhất là thông qua các thể chế quốc tế, đa phương; vai trò của Liên hợp quốc, tổ chức y tế thế giới, WHO, WB, IMF, G20, EU, ASEAN…tăng lên. Nhưng mặt khác, làm sâu sắc hơn các mâu thuẫn giữa các nước, như về đánh giá vai trò của WHO, về điều tra nguồn gốc và nguyên nhân lây lan đại dịch từ Vũ Hán (Trung Quốc); vấn đề đại dịch COVID cịn bị “chính trị hóa”, lợi dụng mưu cầu lợi ích riêng của một số nước trong quan hệ quốc tế và giữa một số nước. Trong bối cảnh đại dịch COVID vẫn còn tác động mạnh và rộng lớn trên toàn cầu, quan hệ quốc tế vẫn sẽ còn diễn biến phức tạp và trạng thái “hậu COVID” vẫn chưa được hình rõ nét.

<i>2. Tác động đến Việt Nam</i>

Về tổng thể, những tác động của đại dịch COVID - 19 trên phương diện quốc tế cũng là những tác động tới Việt Nam. Tuy nhiên, do điều kiện cụ thể của Việt Nam, mà những tác động đó có những đặc điểm, sắc thái và mức độ khác nhau, có thể nêu khái quát như sau:

<i>1) Về y tế:</i>

Xét về quy mô và mức độ nghiêm trọng, cho đến nay, do Việt Nam nhận thức sớm tính nguy hiểm của đại dịch và triển khai nhanh, quyết liệt một số giải pháp phòng, chống, Tác động của đại dịch COVID - 19 cho thấy những mặt mạnh của hệ thống y tế Việt Nam, như hệ thống y tế dự phịng, y tế cộng cơng cộng tương đối mạnh, đội ngũ chun gia trình độ cao, có sự chỉ đạo thống nhất, phản ứng nhanh, tương đối hiệu quả.

</div>

×